Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm vuột mất các giá trị mà bạn có.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Cuộc sống xem như chấm dứt vào ngày mà chúng ta bắt đầu im lặng trước những điều đáng nói. (Our lives begin to end the day we become silent about things that matter. )Martin Luther King Jr.
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Trang chủ »» Danh mục »» »» Tu tập Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: Chữ Nhất trong nhà Phật »»
Xem Mục lục


Nhà Thiền thường nói: “Biết một chuyện, muôn sự đều xong.” Sở dĩ chúng ta học Phật mà thiếu công phu đắc lực là vì không biết rằng pháp giới vốn là Nhất chân. Trong Nhất chân pháp giới, tất cả pháp đều là một vị, bình đẳng như như, nên mọi pháp tu đều tương ứng với Nhất chân.
Nhưng chữ Nhất ấy vô cùng khó hiểu và khó hành. Chỉ cần còn có khái niệm “Nhất” thì đã chẳng phải Nhất. Vì sao? Vì trong Nhất không có đối đãi, không có suy lường, hai bên có – không đều lìa. Hễ khởi một niệm là trái nghịch với Nhất. Do vậy: Nhất tâm Bất loạn là quả rốt ráo của người niệm Phật, nhưng lại không thể dùng suy tưởng để cầu, cũng không thể dùng không-suy-tưởng để cầu. Hễ còn có mong cầu thì chẳng phải Nhất.
Tâm Thể ly niệm là Nhất. Có niệm thì không Nhất; chấp vô niệm cũng không Nhất. Hữu niệm và vô niệm đều phải rốt ráo buông bỏ mới tương ứng Nhất chân pháp giới.
Công phu tu Nhất tâm khó vì hai điều:
1. Tâm luôn khởi động niệm, nên không Nhất.
2. Khi đạt đến tạm không niệm, nếu rơi vào Vô Tưởng Định, thì đó không phải Nhất tâm.
Nhất tâm là giác tâm, thấy rõ mọi sự vật mà không khởi lên một niệm chấp đối với sự vật. Hễ khởi niệm liền thành bất giác, mà bất giác chính là căn bản vô minh. Tu hành chỉ là phản tỉnh ngay tại điểm này. Nếu không phản tỉnh được nơi đây thì mãi mãi bất giác.
Ai nói lời trái tai, làm việc trái ý, mà mình khởi phân biệt – chấp trước – không kịp giác, thì phiền não liền sanh, kế đó là đấu tranh. Đó là vô minh tạo nghiệp. Bất luận cảnh giới nào, chỉ cần khởi tâm động niệm là mê mất Chân như Bổn tánh, rơi vào ba tế tướng của A-lại-da: Nghiệp tướng – Chuyển tướng – Cảnh giới tướng.
Vạn tượng trước mắt đều là ba tế tướng rộng lớn vô hạn của A-lại-da. Một khi mê, A-lại-da có thể biến hiện vô lượng vô biên pháp giới, chẳng phải chỉ có mười pháp giới. Phật nói mười pháp giới chỉ là tổng quát, còn thực tướng thì vô lượng vô biên, không thể kể hết.
Nghiệp là tướng động của vô minh, nên gọi là Nghiệp Tướng. Từ Nghiệp Tướng liền biến ra Chuyển Tướng. Chuyển cái gì và biến ra cái gì? Chính là ý niệm chuyển biến thành cảnh giới. Hết thảy vũ trụ, nhân sinh, sum la vạn tượng đều do ý niệm biến hiện, nên gọi là Cảnh Giới Tướng. Các kinh Đại thừa thường dạy: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, nghĩa là mọi tướng đều từ tâm hiện; muôn loại sai biệt trong vũ trụ đều do tâm thức biến hóa mà thành.
Một khi giác ngộ Nhất tâm, A-lại-da liền chuyển thành Đại Viên Minh Kính trí – tánh sáng thường hằng, minh minh liễu liễu của Chân như Bổn tánh. Kinh Vô Lượng Thọ ví Đại Viên Minh Kính trí như “ngọc trắng ma-ni trùng trùng giăng bủa, sáng diệu vô thượng”. Vì sao? Vì không có thứ gì mà nó không chiếu soi rõ ràng; chẳng những soi tỏ chính nó mà còn soi thấy cảnh giới của mười phương thế giới.
Bất luận tu pháp môn nào trong Phật giáo cũng phải tĩnh lặng; tĩnh lặng chính là định. Tám vạn bốn ngàn pháp môn là tám vạn bốn ngàn phương tiện để làm lặng tâm mình, để tâm không còn sôi động nữa. Tuyệt nhiên không có pháp môn nào dạy tu tâm náo động. Thế nhưng tại sao mỗi khi vào chùa hay đạo tràng một hồi, tâm liền dấy động, sanh ra bao nhiêu ý kiến, thắc mắc, nghi ngờ cần luận bàn? Càng bàn luận bao nhiêu, tâm càng loạn động bấy nhiêu. Nếu buông xả hết thảy, không còn giữ trong tâm một vật nào, thì tâm liền chuyển thành Đại Viên Minh Kính trí như tấm gương sáng sạch soi tỏ tất cả; khi ấy còn gì cần bàn luận, giảng giải nữa?
Trong năm món kiến hoặc: thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến, tà kiến, thì giới thủ kiến cũng là một thứ làm loạn tâm, khiến mình bồn chồn, bất an, không thanh tịnh, buồn phiền, ưu hối, nghi ngờ… Lúc lâm chung, tâm trạng ấy dẫn dắt mình vào luân hồi sáu nẻo. Phải biết, mục đích của các giới như Ngũ giới, Thập thiện, Bồ-tát giới… đều là để đạt định, để có tâm thanh tịnh. Nhưng nếu vì chấp giới mà đánh mất tâm thanh tịnh thì chính là phá giới.
Ví dụ: khi mắt thấy tai nghe người khác phá giới, nếu trong lòng sanh bực bội, bất bình, thì tâm đã chẳng thanh tịnh, tức là tự phá giới của mình. Đó là giới thủ kiến, tức chấp giới. Vì chúng sanh phạm quá nhiều tội lỗi nên Phật chế giới luật để ngăn ngừa tạo nghiệp; nhưng quy về rốt ráo, tất cả giới đều nằm trong ba điều trọng yếu: bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn.
Bố thí nghĩa là buông xả. Buông xả điều gì? Buông xả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước để được bản tâm thanh tịnh rỗng lặng. Như khi gặp người phá giới, nếu đã khuyên hết lòng mà họ vẫn không nghe thì hãy buông xuống, đừng giữ sự bực bội trong lòng. Hễ đã buông thì buông cho đến cùng, chẳng giữ một mảy may hờn giận trách móc nào. Khuyên đã khuyên rồi, công đức ấy đã viên mãn; còn họ có chịu tiếp nhận hay không là do nhân duyên giác ngộ của họ. Hôm nay họ chưa hiểu, không sao; một ngày hay một kiếp nào đó, nhân duyên đến, họ sẽ nhớ lại lời khuyên ấy mà giác ngộ.
Người bố thí pháp chẳng những phải buông xả phân biệt chấp trước, mà còn phải nhẫn nhục và tinh tấn. Pháp tu buông xả, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn trong Lục độ Ba-la-mật có thể gọi chung bằng một chữ “giới” trong Tam Vô Lậu Học: Giới – Định – Huệ. Ai có thể buông xả, nhẫn nhục và tinh tấn thì người ấy giữ được giới; bằng ngược lại, không thể buông xả, không nhẫn được, không tinh tấn, thì chỉ vì chuyện phá giới của người khác mà tự mình đốt sạch cả rừng công đức. Tu hành như vậy chẳng phải rất uổng sao?
Khi giới được thành thục thì được định; trong định phát sinh huệ. Lúc ấy, ba nghiệp thân – khẩu – ý đều không còn lỗi lầm. Tụng kinh, niệm Phật, trì chú, tọa thiền đều là những phương pháp tu Giới – Định – Huệ. Một khi ý niệm ổn định, không còn bị ngoại cảnh quấy động, nội tâm liền thanh tịnh bình đẳng. Công đức như vậy không thể nghĩ lường; dù có cúng dường hằng sa thánh chúng, công đức ấy cũng không bằng một phần ngàn, một phần vạn công đức của Giới – Định – Huệ.
Lại đem tất cả tấm lòng chân thành hồi hướng công đức ấy cho quyến thuộc bảy đời, cho người sống – kẻ mất, cho tất cả chúng sanh trong cửu giới đều được nghe danh A Di Đà, phát tâm niệm Phật, niệm kinh, giác ngộ Phật pháp, vãng sanh Tịnh độ, đó mới thật là độ.
Mà Bồ-tát độ chúng sanh không thấy có độ, cũng không thấy có chúng sanh được độ, mới là Bồ-tát chân thật. Nếu còn thấy có chúng sanh để độ, thì đó là Bồ-tát còn phân biệt chấp trước, còn phiền não. Bồ-tát không xả ly được chấp trước phiền não thì chỉ là Bồ-tát danh tự, chẳng phải Bồ-tát thật.
Vì vậy, khi khuyên người khác tu hành, cần làm hết lòng, nhưng đừng nghĩ mình đang độ họ. Hễ khởi ý ấy, liền sanh ngã mạn; độ được ai thì kiêu mạn, không độ được thì phiền giận. Cho nên kinh Kim Cang dạy: “Tuy diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh, nhưng thật không có chúng sanh nào được diệt độ.” Vì sao? Vì nếu còn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì chẳng phải Bồ-tát.
Hiện nay, chúng ta chỉ là người mới phát tâm học Phật, Phật gọi là Bồ-tát sơ phát tâm, chưa thấu suốt Phật pháp Đại thừa, chưa có trí huệ chân thật, nên làm việc gì cũng dễ vướng phiền não phân biệt chấp trước. Bồ-tát sơ phát tâm ví như người ngồi trên chiếc thuyền rách mà muốn ra biển cứu người chết chìm – việc ấy vô cùng nguy hiểm. Vì thuyền rách còn không cứu được chính mình, huống gì cứu người khác.
Do vậy, Bồ-tát sơ phát tâm phải siêng năng tu hành Lục độ Ba-la-mật: buông xả, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Khi đã viên mãn Lục độ, có đủ định và huệ, bấy giờ mới có thể thả con thuyền từ kiên cố xuống biển để cứu người. Nếu chưa có định và huệ mà đã muốn độ người, thì cũng giống như người chèo thuyền rách ra biển lớn: tự thân không giữ nổi, lại cùng chết chìm với người kia.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.222 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập