Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm vuột mất các giá trị mà bạn có.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Chúng ta có lỗi về những điều tốt mà ta đã không làm. (Every man is guilty of all the good he did not do.)Voltaire
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tu học Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: Tam độc tham, sân, si »»
Trong phẩm Khuyến Dụ Sách Tấn của kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, trước hết kinh nói về tham độc. Đức Phật chỉ rõ, toàn bộ chúng sanh trong cõi này đều bị tham độc làm phiền não, khổ đau. Phật khuyên lơn chúng sanh nên nhàm lìa. Kinh chép: “Người đời tranh nhau, những việc không đâu, trong chốn ác nghiệp, cùng bao sự khổ, siêng làm kinh doanh, tự cung dưỡng thân. Cao sang nghèo khó, lớn nhỏ nam nữ, suy nhớ chồng chất, do tâm sai sử, không ruộng lo ruộng, không nhà lo nhà, họ hàng của cải, có không cũng lo, được một thiếu một, lo cho bằng người. Vừa được chút ít, lại càng lo hơn, nước lửa giặc trộm, oan gia trái chủ, đốt phá cướp giựt, hủy diệt tiêu tan, tâm tham ý chấp, không thể buông bỏ, mạng chung xuôi tay, chẳng mang được gì. Nghèo giàu như nhau, khổ lo muôn mối.”
Phật than thở: Chuyện sanh tử đại sự là nhiệm vụ cấp bách trước hết, thế mà người đời cứ thờ ơ, lơ là. Ngược lại, đối với những việc chẳng gấp rút gì, lại hối hả lo toan. Khi mạng người sắp hết, dẫu hối hận, cũng đã muộn màng, sao lúc còn khỏe mạnh không ráng lo tu thiện, đến lúc sắp lâm chung mới hối hận, gấp gáp lo toan, làm như vậy có ích lợi gì chứ? Chúng sanh ở cõi Sa-bà do tham mê danh lợi, nên chuốt lấy những nổi sầu khổ muôn bề, chẳng biết lúc nào thoát khỏi. Người đời cùng nhau tranh cạnh những chuyện thế tục không quan trọng, khẩn yếu, chẳng coi trọng đại sự cấp bách nơi bản thân, chẳng biết vô thường lướt qua rất nhanh chóng, sanh tử là việc lớn.
Cổ đức thường bảo: “Vật thì có gốc, ngọn; việc thì có gấp, hoãn.” Ví như người vào trong tòa thành lớn, trước tiên phải kiếm chỗ ở yên ổn để đến khi chiều tà tăm tối còn có chỗ nghỉ đêm, rồi sau đó mới ra tay làm lụng. “Trước tiên phải kiếm chỗ ở yên ổn” chính là tu Tịnh Ðộ. “Đến khi chiều tà tăm tối” ám chỉ lúc gần kề với cái chết. “Có chỗ nghỉ đêm an ổn” là sanh trong hoa sen nơi ao thất bảo, chẳng bị lạc vào nẻo ác. Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật ví thế gian này như căn nhà lửa đang cháy lớn, chẳng phải là chỗ an toàn để ở. Phật khuyến dụ hết thảy chúng sanh hãy mau chóng chạy ra khỏi căn nhà lửa này, chỉ nên coi sanh tử là đại sự, là nhiệm vụ cấp bách trước hết. Nếu ai tuân theo lời Phật dạy, buông bỏ mọi thứ trong căn nhà lửa ấy mà chạy thoát ra ngoài, Phật sẽ tùy tâm ý thích của họ mà ban cho họ xe dê, xe lừa hay xe trâu trắng lớn. Xe dê ví cho tiểu quả Thanh văn, Duyên giác, xe lừa ví cho đại quả Bồ-tát và xe trâu trắng lớn ví cho Phật quả cứu cánh.
Trong phẩm kinh này, Đức Phật bảo: “Trong chốn ác nghiệp cùng bao sự khổ. Siêng làm kinh doanh, tự cung dưỡng thân, cao sang nghèo khó, lớn nhỏ nam nữ, suy nhớ chồng chất, do tâm sai sử.” Trong phẩm Trược Thế Ác Khổ kế tiếp Phật lại nói: “Năm ác, năm khổ, năm thiêu như thế, ví như lửa lớn thiêu đốt thân người.” Phật đã sát định cho chúng ta biết cõi này đây chính là trược thế ác khổ, thế gian này đây chính là ngũ ác kịch khổ. Ác là nhân, khổ là quả! Giết chóc, trộm cắp, dâm dục, nói dối, nghiện ngập là những điều rất ác. Hễ ai tạo ra một trong năm thứ ác ấy, ắt phải lãnh chịu quả ác, nên năm điều ấy được gọi là năm thứ đau đớn, năm thứ lửa lớn hừng hực đốt cháy thân tâm của người đời, khiến họ khổ sở đến cùng cực. Hết thảy các loại người trong thế gian từ những người có địa vị cao sang cho đến những kẻ thấp hèn, lớn tuổi hay nhỏ tuổi, trai hay gái v.v... Tất cả những hạng người sai khác ấy chẳng ai lại không cùng ôm ấp tấm lòng ngu si, tham dục đến mức khiến cho thân lao, tâm khổ tứ bề. Phàm phu chúng ta hằng ngày đều là lo nghĩ chất chồng, bôn ba nhọc nhằn, vất vã toan tính, làm lụng để tự nuôi dưỡng tấm thân, để mình được đầy đủ, no ấm cho qua khỏi một kiếp người. Người đời thường do dục tâm sai sử và lôi kéo, khiến cho lúc nào cũng chộn rộn, bôn ba, lo nghĩ mãi chuyện đã qua, lo lắng hoài chuyện chưa tới. Với cái tâm niệm ấy nên chẳng lúc nào an nghĩ. Hễ khi tâm mình có điều gì mong muốn, khát khao, thì cái thân này phải lãnh chịu mọi sự cực khổ, nhọc nhằn theo, cốt làm sao cho cái tâm được thỏa mãn. Ví dụ như khi ta muốn sắm sửa một vật mình yêu thích thì không ngại khó nhọc, bưng bê, khuân vác bề bộn, bôn ba sửa soạn. Thậm chí, nếu không đủ tiền để mua sắm những thứ mình thích, phải đi vay mượn, rồi cả đời phải làm lụm cực nhọc để trả nợ. Không nói đến có những lúc tuy thân tâm làm việc rất vất vả, cực nhọc, nhưng vẫn chẳng thể trả nổi món nợ đã vay mượn, nên những thứ mình sắm sửa ấy bèn bị chủ nợ đến kéo đi để trừ nợ, khổ lại càng khổ hơn. Những điều mong cầu của người đời không thể buông bỏ, thường luôn mang theo canh cánh trong tâm niệm, đều chỉ là tài vật, danh lợi, tiếng tăm v.v..., khiến cho tâm phải luôn suy nhớ chồng chất. Do cái tâm tham ý chấp ấy nên lúc nào cũng phải chăm chăm mong cho có được cái mà mình tham muốn, nên bị cái tâm ấy sai khiến, làm cho thân chẳng bao giờ được an nhàn. Hằng ngày con người thường suy nhớ chồng chất những thứ gì? Phật nêu ra những điều ấy trong một đoạn kinh văn dài như sau: “Không ruộng lo ruộng, không nhà lo nhà, họ hàng của cải, có không cũng lo, được một thiếu một, lo cho bằng người. Vừa được chút ít, lại càng lo hơn, nước lửa giặc trộm, oan gia trái chủ, đốt phá cướp giựt, hủy diệt tiêu tan, tâm tham ý chấp, không thể buông bỏ, mạng chung xuôi tay, chẳng mang được gì. Nghèo giàu như nhau, khổ lo muôn mối.” Đây chỉ là vài thí dụ cụ thể mà Phật nêu ra để chúng sanh thấy rõ lý do vì sao chúng sanh lúc nào cũng phải suy nhớ chồng chất.
“Họ hàng” là nói chung những người trong nhà, thân thuộc, tôi tớ, bà con, hàng xóm v.v… “Của cải” là gia tài, sản nghiệp, các vật dụng dùng để sinh sống. Những thứ ấy đều là những điều khiến chúng ta phải suy nghĩ, lo lắng. Chưa có thì mong muốn, lo sao cho có, nhưng khi có rồi lại sợ mất đi, nên có rồi lại càng lo hơn nữa, lo được, lo mất, có hay không gì cũng lo. Lại nữa, vì lòng ham muốn của con người không có đáy, bể tham dục khó lấp bằng, hễ được một rồi lại còn thấy thiếu một, lo muốn sao cho bằng người. Ví như kẻ đã có được tài khoản một triệu đô-la, thấy người khác có đến hai triệu đô-la, liền nghĩ cách làm sao cho có được ít nhất một triệu đô-la nữa để cho bằng hoặc hơn người khác. Kẻ đã có một chiếc xe auto, thấy người ta có hai chiếc xe auto, liền muốn có thêm một chiếc xe auto nữa cho bằng người ta. Muốn mà chưa được thì sanh lo âu, buồn phiền. Thỏa nguyện rồi cũng chẳng hết lo nghĩ bởi do ham muốn không cùng, lòng tham không đáy, chẳng thể lấp bằng, nên vĩnh viễn mãi mãi cứ phải lo lắng không lúc nào ngơi dứt. Lại nữa, khi chúng ta vừa mới có được một chút của cải, bèn toan khư khư giữ lấy, sợ gặp tai biến làm mất mát đi, lo các tai họa thình lình phát sanh như lửa có thể đốt cháy rụi, nước cuốn trôi mất hết, kẻ cướp cướp đoạt, kẻ trộm cuỗm mất, oan gia báo cừu, chủ nợ xiết nợ v.v... Thậm chí trong khoảnh khắc, chẳng còn lại một thứ gì là của mình nữa. Cái giàu sang ngày trước đột nhiên chẳng còn sót lại chút gì hết ráo. Lại nữa, người đời do tâm tham, ý chấp, tấm lòng keo kiệt đến mức ngoan cố, nên dù tài vật đã bị mất hết rồi, nhưng không thể buông bỏ cho rãnh trí, cứ mãi nghĩ nhớ, tiếc của đã mất khiến cho lòng mình càng tăng thêm phẫn nộ, lo buồn, oán hận, sầu khổ, ví như lửa lớn đang thiêu đốt thân mình, đau không kể xiết.
Chư cổ đức thường nói: “Lúc chết, mọi thứ đều bỏ hết, chỉ còn cái nghiệp theo thân.” Kinh này bảo: “Mạng chung xuôi tay, chẳng mang được gì. Nghèo giàu như nhau, khổ lo muôn mối.” Người đời dù biết rất rõ, mất mạng là mất hết tất cả, nhưng vẫn ngoan cố không chịu buông bỏ, thà mất mạng chớ không để mất của. Chúng ta hãy thức tỉnh một phen mà xem, lúc lâm chung dù tiếc nuối, không muốn buông bỏ cũng không được, hết thảy tài vật, quyến thuộc yêu dấu v.v…, một chút xíu cũng chẳng thể mang theo. Ta một mình mình đến thì sẽ một mình mình đi, không ai có thể cùng đến, cùng đi với ta để bầu bạn. Do vì nghiệp nhân bất đồng, quả báo của mỗi người ngàn lần sai khác nên mỗi người sẽ tái sanh về một chỗ khác nhau. Dẫu người mình thương yêu nhất cam chịu cùng chết chung với mình, cũng chẳng thể cùng họ sanh vào chung một chỗ như lòng mình mong muốn. Bất luận giàu hay nghèo, không ai là chẳng giống như vậy, ai nấy đều ưu tư, khổ não vô tận.
Kế tiếp kinh nói về sân độc. Phật khuyên dạy người đời đối với thân thuộc và người khác đều phải nên hòa kính, nếu bất hòa với nhau thì cái nhân ấy sẽ trở thành cái nghiệp oán thù trong tương lai. Kinh chép: “Người trong thế gian, cha con anh em, vợ chồng quyến thuộc, yêu kính lẫn nhau, không ganh ghét nhau, có không thông nhau, không được tham tiếc, sắc mặt lời nói, thường phải nhu hòa, chớ nên chống trái. Lỡ lúc tranh cãi, có chỗ sân giận, đời sau chuyển tiếp, trở thành đại oán. Những việc thế gian, rốt gây họa nhau, tuy chưa tới lúc, nên gấp tưởng phá.”
Thói đời lúc bình thường vốn chẳng phẫn hận, nhưng khi chợt gặp cảnh trái nghịch, bất bình, bèn sanh tâm ghét bỏ, ganh tị, chống trái nhau, trở thành sân giận, nóng nảy, phẫn nộ, rồi từ việc nhỏ nhặt ấy mà trở thành đại oán cừu, gây ra tranh chấp lẫn nhau. Thậm chí trong lúc đang tranh chấp lại chợt khởi lên cái tâm đấu đá, kiện cáo cho đến giết hại lẫn nhau, gây ra nghiệp đại oán. Vì thế, Phật nhắc nhở chúng ta phải dùng tâm từ ái và cung kính đối đãi với nhau, phải thường dùng hòa nhan ái ngữ để đối đãi mọi người. Hòa nhan ái ngữ là mặt mày hài hòa, chẳng cau có, bặm trợn, giọng nói vui vẻ diệu dàng chẳng nóng giận, lời lẽ chẳng chống trái, gay gắt, ôn hòa, khiêm cung. Những thể hiện như thế nhất định sẽ tạo ra một thế giới hòa hoãn, thanh bình. Sân giận là một trong tam độc, một khi tâm sân nổi lên, liền tạo thành mối hận thù, oan oan tương báo trong đời này và mãi mãi đời sau, không lúc nào thôi. Ở trong lục đạo, kẻ mình oán ghét lại thường chạm mặt nhau, gặp nhau để cướp đoạt, cưỡng bức, giết hại lẫn nhau v.v… Những chuyện như vậy, càng lúc càng thêm dữ dội, chẳng lúc nào giảm bớt thì làm sao có thể ngừng dứt? Do vậy, Đức Phật cảnh báo cho chúng ta biết, đối với những việc thế gian, nếu đã lỡ gây họa cho nhau, tất nhiên sẽ có lúc gặp lại nhau để báo oán, tạo thành họa hại. Những sự báo ứng tuy chưa thành lập ngay trong hiện tại, nhưng nhân quả chẳng hề hư dối, nhất định sẽ có báo ứng trong đời sau. Cho nên, nếu hiện tại đã lỡ lầm tạo ra cái nhân mâu thuẫn, tranh chấp, oán hận với người khác, thì phải nên gấp gáp nghĩ ra cách để phá bỏ, hóa giải mối mâu thuẩn này đi, nếu không đời sau nghiệp thức oán hận nhỏ nhặt ấy sẽ chuyển biến thành đại oán cừu, oan gia gặp gở sẽ giết hại lẫn nhau vô cùng tàn bạo, khủng khiếp.
Bồ-tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả! Bồ-tát không gieo nhân nên chẳng gặp quả báo, xa lìa phiền não, nghiệp chướng, tự tại vô ngại. Chúng sanh sợ quả khổ báo mà cứ mãi tạo nhân ác; đến khi túc duyên chín muồi dù có hối hận cũng đã muộn màn rồi! Lúc ấy, Phật có muốn cứu giúp, nhưng cũng chẳng thể được, vì thần thông không thắng nổi nghiệp lực. Vì vậy, Phật khuyến dụ người đời nên bỏ ác tu thiện, Phật nói: “Người nhiễm ái dục, sinh một mình tử một mình, đến đi một mình, khổ vui tự nhận, không ai gánh thay. Thiện ác biến hóa, nghiệp thức theo đuổi, đường đạo không đồng, không lúc gặp lại. Sao lúc còn khỏe, không gắng tu thiện, còn đợi bao giờ?”
“Ái dục” là tình ái và tham dục. Cổ đức có câu: “Ái chẳng nặng, chẳng đọa Sa-bà.” Nếu chúng ta chẳng nặng tham quý ái thì đã là bậc thánh hiền rồi, tệ nhất cũng là một vị A-la-hán đã dứt sạch kiến hoặc và tư hoặc, thoát ra khỏi lục đạo luân hồi. Đấy cho ta thấy, ái dục chính là cội gốc của luân hồi sanh tử. Tất cả thế nhân đều do chìm đắm trong ái dục nên mới bị chết đây sanh kia, lưu chuyển vô cùng tận. Dẫu cho quyến thuộc đầy nhà, nhưng lúc sanh thì trơ trơ một thân đi đến, lúc chết thì riêng một mình mình ra đi, chẳng có ai cùng theo, cũng chẳng có ai chết thay cho mình được. Thế nhưng, chết rồi phải đi về đâu? Quả báo sướng hay khổ? Hết thảy đều do tự mình tạo, tự mình hưởng, tự mình gánh chịu, không ai khác có thể thay thế được. Nghiệp thức theo đuổi chúng ta như bóng theo hình. Chúng ta sanh về đâu, quả báo đuổi theo ngay nơi đó, chẳng hề rời bỏ, làm lành thì quả báo ở chốn thiên đường chờ sẵn, làm ác thì núi đao rừng kiếm ở địa ngục A-tỳ đón chờ. Một phen chịu quả báo trong tam đồ là cả trăm ngàn kiếp, trôi lăn trong sáu nẻo, biết ngày nào gặp lại nhau đây? Bởi vậy, lúc lâm chung chia tay nhau trọn thành vĩnh biệt! Dẫu có trùng phùng cũng chẳng hề nhận biết nổi nhau, thì cũng coi như là không có lúc gặp lại nhau. Do đấy mà Đức Thế Tôn vô cùng xót thương, hết lòng cảnh tỉnh khuyên lơn người đời: “Sao lúc còn khỏe, không gắng tu thiện, còn đợi bao giờ?” Trong kinh Niết-bàn, Phật bảo: “Này Ca Diếp! Ví như cây mía đã bị ép rồi, bã mía chẳng còn vị gì. Tuổi trẻ sắc đẹp cũng giống như thế, khi bị tuổi già ép thì chẳng còn có ba thứ vị: một là vị xuất gia, hai là vị đọc tụng, ba là vị tọa thiền.” Người già thể xác suy yếu, mất cả ba thứ vị như vậy nên khó bề siêng tu. Vậy, nhân lúc còn khỏe phải gấp rút nỗ lực, tinh tấn tu hành, chớ nên chần chừ.
Phật chỉ rõ, chúng sanh trong uế độ này ba độc lẫy lừng, tạo ác rất đáng sợ, đấy đều là do từ si độc gây ra. Phật nói: Người đời thiện ác, tự mình chẳng thấy, lành dữ họa phúc, tranh nhau tạo tác, tâm mê thần ám, triển chuyển gây nghiệp, điên đảo tương tục, vô thường là gốc, mờ mờ mịt mịt, không tin kinh pháp, tâm chẳng lo xa, ham muốn thỏa thích. Mê muội sân giận, tham tài đắm sắc, rốt cùng chẳng dứt, thật đáng thương thay! Người trước không thiện, không biết đạo đức, không ai khuyến tấn, chẳng gì làm lạ! Con đường sinh tử, đạo lý thiện ác, chẳng chút lòng tin, cho là không có, cùng nhau quán sát, rành rành trước mắt. Hoặc cha khóc con, hoặc con khóc cha, anh em chồng vợ, cùng nhau thương khóc.”
Trong đoạn kinh văn này, Đức Phật giảng về si độc bằng những câu như: “tự mình chẳng thấy,” “tâm mê thần ám,” “không tin kinh pháp,” “mê muội,” “không biết đạo đức,” “con đường sinh tử, đạo lý thiện ác, chẳng chút lòng tin, cho là không có.” Đây đều là những si độc thông thường của người đời! Đức Phật cũng đã từng nói: “Kkông có cái khổ nào bằng cái khổ ngu si.” Vì sao? Vì ngu si là cái gốc gây ra biết bao nhiêu sự khổ. Thật vậy, si độc chính là cái gốc của cả ba độc. Do si mới khởi lên tham và sân. Cái họa của si độc gây hại rất sâu, làm thương tổn huệ mạng của con người. Phật bảo, người đời do ngu si nên chẳng biết thế nào là thiện, thế nào là ác, cứ tự theo ý riêng của mình mà phân biệt, nhân ngã, phải quấy, chẳng chịu tin quy luật nhân quả thiện ác trong ba đời. Người đời đã ngu si lại còn ngoan cố, đã không biết nhân lại chẳng sợ quả, chỉ vì muốn thỏa mãn, khoái ý trong chốc lát, chẳng sợ hậu hoạn vô cùng về sau, cứ phóng túng càn rỡ, đua nhau mặc sức làm ác, chẳng đoái hoài hung họa trong tương lai. Lành, dữ là nhân, họa, phúc là quả. Thí dụ, giết người, lường gạt, cưỡng bức, cướp đoạt tài vật, đất đai, tiền bạc của người khác, bán nước, hại dân để cầu vinh lợi cho riêng mình, khiến muôn dân lầm than, nước mất, nhà tan, khổ sở muôn bề là những điều cực ác, tất nhiên sẽ cảm lấy quả báo trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh trong tương lai. Thế nhân tâm mê thần ám, chẳng hiểu rằng, dù thiện hay ác đều chiêu cảm quả báo, nên thay nhau tạo tác, đốt phá, cướp giật, hại người oan uổng, diệt kẻ trung lương, chẳng lúc nào thôi, nên lúc chết đi bị rơi vào ba đường ác đạo, khổ đau sầu thống, đời đời kiếp kiếp, không thể thoát ra.
“Tâm mê thần ám” là tâm ý bế tắc, chẳng thể thấy nổi chuyện thiện ác sanh tử, nên cứ mãi tiếp tục triển chuyển gây nghiệp. “Tâm mê thần ám” còn được hiểu là thân ngu dốt, tinh thần tối tăm. Do thân tạo ác nên bảo là thân ngu dốt. Do tâm chẳng tin nơi nhân quả nên gọi là tinh thần tối tăm. Như vậy, “tâm mê thần ám” chính là si độc. Do ngu si nên tâm ý bế tắc, chẳng thể chánh tín nhân quả, gây ra biết bao nhiêu hiểm họa trong thế gian. Do ngu si nên chẳng tin nhận nổi kinh pháp của Phật hòng thâm nhập vào Phật chánh đạo. Lại cũng do ngu si nên dễ đâm ra tin thờ các tà thuyết ngoại đạo, tin nhận các giáo lý khác với Phật pháp, kinh gọi những thứ tà kiến này là “điên đảo tương tục.” Phàm phu chúng ta do ngu si nên thấy biết điên đảo liên tục chẳng dứt, nên phải chìm đắm mãi mãi trong sanh tử. Nguồn gốc của những tà kiến ấy chính là si nghiệp. Sanh tử vô thường là do si làm cội gốc, nên kinh nói “vô thường là gốc.” Ngu si đúng thật là cái gốc sanh ra mọi khổ đau! Do ngu si, mù mịt, tối tăm, càn rỡ, nên dẫu có hai tròng con mắt mà vẫn mờ mờ mịt mịt, chẳng thấy biết gì hết. Tối tăm là do bị vọng tưởng, phân biệt, chấp trước che lấp nên chẳng sáng suốt. Tối tăm là do ám muội che lấp nên chẳng hiểu biết gì cả. Càng tối tăm không hiểu chuyện nhân quả bao nhiêu, càng làm ra nhiều chuyện sai bấy nhiêu, càng làm sai lại càng thêm tối tăm, cứ thế mà tâm trí trở thành mờ mờ mịt mịt, chẳng hiểu biết gì hết, đụng việc gì cũng đều làm càn làm bậy. Lại quen tánh hung hăng, ngạo mạn, ưa thích đấu tranh xung đột, nên chẳng cung kính tin nhận lời giáo huấn của Phật, điều gì cũng dám làm mà những điều làm ra cũng đều sai quấy, trái nghịch trời đất.
Phật quở trách thế nhân: “Tâm chẳng lo xa, ham muốn thỏa thích. Mê muội sân giận, tham tài đắm sắc, rốt cùng chẳng dứt, thật đáng thương thay! Người trước không thiện, không biết đạo đức, không ai khuyến tấn, chẳng gì làm lạ!” Người đời tâm chẳng lo xa, chẳng quan tâm đến đời sau, mọi việc làm cốt chỉ là để thỏa thích lòng ham muốn nhất thời, chỉ ham cầu cái vui hiện tại. Lại nữa, kẻ ngu si thường ôm lòng giận dữ, tham tài, háo sắc, chẳng lúc nào ngơi. Ðời cha ông chẳng hiểu biết nhân quả, chẳng biết tu đạo đức, cũng chẳng biết làm thiện. Đã không hiểu lại còn làm ra những chuyện vô đức, vô hạnh, đời này tiếp nối đời kia, những lời cha dạy con toàn là tà thuyết, chẳng bàn đến quả báo thiện ác, thì thật là ngu si đến mức cùng cực! Cha ông si độn, ngoan cố, làm ra những chuyện trái nghịch với luân thường đạo lý, thì con cháu vô tri là chuyện tất nhiên, chẳng có gì lạ!
Chẳng thể tự thấy con đường sinh tử là chẳng biết quả. Chẳng thể tự biết đạo lý thiện ác là chẳng hiểu nhân. Tự tâm chẳng có chút hiểu biết cả nhân lẫn quả, lại không được ai chỉ bảo, nên trọn đời trọn kiếp chẳng hiểu biết gì cả, cứ mãi sống giống như con thú hoang ỷ lại có cái sừng cứng chắc mà gặp gì húc đó, như đứa trẻ đi đêm chẳng biết lối quay về, như chó dại chạy quàng không biết chính mình đang làm gì, nên điều gì cũng dám làm, mà điều gì làm ra cũng đều là trái nghịch với đạo lý thiện ác, tạo tội nghiệp dữ. Đấy đều là do chẳng hiểu sâu đạo cả, chẳng chút lòng tin nơi Phật pháp, lại cho là không có con đường sinh tử, không có đạo lý thiện ác. Nếu chẳng biết việc sanh tử thì cứ tự mình xem đi, cha con, anh em, chồng vợ bị cái chết chia lìa, thương khóc lẫn nhau, có ai tránh khỏi đâu? Phật bảo chúng sanh hãy mở to đôi mắt, cùng nhau quán sát những sự việc này hiện ra rành rành ngay ở trước mắt, chớ có đâu xa! Những chuyện hiện ra rành rành trước mắt mà còn không thấy thì làm sao có thể thấy được quả báo lâu xa trong tương lai?
Phật vô cùng thương xót chúng sanh, buông lời khuyên lơn nhắc nhở: “Nhất tử nhất sinh, thay nhau quyến luyến, thương lo ràng buộc, không lúc tháo gỡ, tư tưởng ân hảo, không lìa tình dục, không cân nhắc kỹ, không chuyên hành đạo, tuổi thọ hết rồi, đối phó sao đây!”
Người đời ngu si, tham ái, chẳng biết muôn sự trong đời đều chỉ như huyễn mộng, như hoa đốm trên không, lầm tưởng những thứ ấy là thật có, nào hay vô thường vùn vụt, chẳng giữ mãi nổi. Lúc sanh ra càng yêu mến bao nhiêu thì lúc chết đi bội phần xót xa. Lúc sanh tử, người ở lại thương xót thân nhân từ nay vĩnh biệt, kẻ chết thương mình ra đi vĩnh viễn, lưu luyến nhau khó buông bỏ nổi, sự quyến luyến lúc phân ly như mũi dao xoáy vào tim. Những hạnh phúc ân ái xưa kia nay bổng biến thành ưu khổ. Hai điều “nhất tử nhất sinh” và “thay nhau quyến luyến” cứ mãi ràng buộc thân tâm của con người như dây thắt chặt mối, chẳng thể thoát ra nổi. Càng ràng buộc bao nhiêu thì càng phiền não bấy nhiêu. Phiền não ám hoặc trói buộc ta, ràng buộc cái tâm ta chính là cái nhân kết tập hết thảy sanh tử. Hễ vướng vít vào tình ái, liền bị sanh tử buộc ràng, chẳng có lúc nào thoát khỏi. Xét cho đến tận cùng cội nguồn, dục là cội khổ, thuần tình ắt đọa! Những điều mà người đời yêu quý đều là do tình dục sai sử. Nếu đối với những điều ấy mà ta chẳng thể suy sâu nghĩ chín để nhất tâm tu đạo hòng cầu giải thoát, thì trong nháy mắt vô thường xộc đến, thọ mạng chấm dứt; đến lúc ấy làm sao bươn bả, kêu van gì nổi! Mạng người trong hơi thở, thở ra một cái mà không hít vào được thì trong nháy mắt mạng này liền chấm dứt. Như vậy, khi tuổi thọ hết rồi, chúng ta phải đối phó sao đây?
Phật dạy hết thảy tai họa đều do từ si mê mà khởi lên sân hận. Phật nói: “Người mê hoặc nhiều, kẻ ngộ đạo ít, cưu mang sát độc, ác khí mịt mù, vọng tâm hưng khởi, trái nghịch trời đất, buông lung tạo tội, cướp nhanh mạng sống, đọa thẳng đường ác, chẳng có ngày ra.”
Cổ đức có câu: “Một đốm lửa sân tâm, thiêu trụi rừng công đức.” Dù chúng ta có làm được rất nhiều công đức, nhưng một khi khởi lên tâm sân khuể, tất cả rừng công đức ấy đều bị đốt sạch sành sanh. Chúng ta phải biết, trong ba ác nghiệp tham-sân-si, sân nghiệp là nhân của địa ngục. Phật nói, thế nhân lắm kẻ mê hoặc, ít người tỉnh ngộ chánh đạo, lúc nào cũng ôm ấp tâm sân hận, nuôi dưỡng ý tưởng độc địa, muốn giết hại người khác, tạo ra ác khí mịt mù hừng hực, từ trong chỗ tối tăm này lại đi vào trong chỗ tối tăm hơn nữa; đấy chính là tự mình đã đốt sạch hết cả rừng công đức mà mình đã làm được từ bấy lâu nay rồi!
Hòa Thượng Tịnh Không dạy: “Giết chết tuệ mạng của một người bằng sát hại ngàn sanh mạng.” Đấy đã cho chúng ta biết, sát sanh không những chỉ là giết chết thân mạng của chúng sanh mà còn là giết chết tuệ mạng của người khác bằng những tà thuyết, tà kiến, khiến chúng sanh hưng khởi vọng tâm. Do vọng tâm hưng khởi nên nghĩ cái gì cũng sai lầm, nói cái gì cũng bậy bạ, làm cái gì cũng sai quấy, trái nghịch trời đất. Trái nghịch trời đất là trên chẳng thuận lòng trời, dưới nghịch ý vua Diêm-La. Phàm phu chúng ta suốt ngày mặc tình buông lung tạo tội ngập hết cả trời đất, nhưng lại trái nghịch trời đất. Bởi đó mà bị tội nghiệp lôi kéo, chẳng đợi đến khi tuổi thọ hết mà đã bị vua Diêm-La cướp nhanh mạng sống. Người ấy chưa tới số chết mà lại bị vua Diêm-La đột ngột cướp mất đi mạng sống một cách oan uổng để không có cơ hội tạo thêm tội mới; đấy cũng là do vua Diêm-La phát lòng từ bi đối với họ vậy! Nhưng người đời do ngu si, chẳng biết rõ sự thật này, càng trở nên sân hận, oán trách vua Diên La đã cướp mất đi người thân yêu của họ. Thêm nữa, người đời cũng do ngu si mà sanh tâm sân hận, giết chóc, tàn hại lẫn nhau, mặc tình tạo ác, làm các điều xằng bậy. Kẻ tạo tội như thế chiêu cảm thêm nghiệp lực tội ác của đời trước, mặc sức làm những việc ác hơn nữa. Tới khi sự ác ngập đầu, quả báo ắt sẽ hiển hiện, đột nhiên bị chết mất đi, đọa thẳng vào ba đường ác, chịu lấy quả báo cùng cực, không biết khi nào mới thoát nổi.
Cuối cùng, Phật khuyên chúng nên dứt ác làm lành, cầu sanh Cực Lạc. Kinh chép: “Mọi người phải nên, nghĩ suy chín chắn, xa lìa việc ác, chọn đường lương thiện, siêng năng thực hành, sang giàu thương muốn, không thể bền giữ, đều phải lánh xa, chẳng thể an vui. Phải nên tinh tấn, sinh nước An Lạc, trí huệ thông suốt, công đức thù thắng. Chớ nên phóng tâm, vào chỗ ham muốn, phụ kinh bỏ giới, phải đứng sau người.”
Phật bảo chúng ta phải suy nghĩ chín chắn rằng: “Sang giàu thương muốn, không thể bền giữ, đều phải lánh xa, chẳng thể an vui.” Vì sao? Vì vinh hoa, phú quý của thế gian là vô thường, chẳng thể giữ nổi, có lúc thạnh ắt sẽ có lúc suy. Ái dục trong thế gian cũng chẳng thường còn, có lúc hội hợp thì nhất định sẽ có lúc ly tán. Người đời điên đảo lầm tưởng cho vinh hoa, phú quý và tình ái là vui sướng, nhưng thật ra những điều ấy chẳng đáng để ưa thích. Vì sao chẳng đáng để ưa thích? Vì những điều chúng sanh tưởng là vui, nhưng thật ra chúng chính là cái nhân tạo khổ. Từ cái nhân tạo khổ ấy, ắt phải sanh ra quả khổ.
Cư sĩ Bành Tế Thanh bảo: “Hết thảy người đời coi dục là vui, chẳng biết đó là khổ. Người trí xem thấy chỉ toàn là khổ, không chút vui nào. Vì sao vậy? Cứ coi có là vui, không là khổ, nào hay có chính cái nhân của không. Xem được là vui, coi mất là khổ, nào hay được chính là cái nhân của mất. Coi tụ tập là vui, tan lìa là khổ, nào hay tụ tập là cái nhân của tan lìa. Coi sanh là vui, coi diệt là khổ, nào hay sanh chính là cái nhân của diệt.” Vì tất cả vinh hoa phú quý và ái tình trên thế gian đều chẳng bền vững, lại là cái nhân tạo khổ, nên Phật khuyên chúng sanh phải nên lánh xa và phải tinh tấn, siêng năng cầu sanh nước Cực Lạc để hưởng cái vui chân thật và vĩnh viễn. Hễ bất cứ một ai được sanh về cõi ấy, đều được “trí huệ thông suốt, công đức thù thắng,” tức là đều được cả hai thứ trí lẫn phước tột bậc, chẳng ai sánh bằng. “Trí huệ thông suốt, công đức thù thắng” mới chính là cái vui chân thật và vĩnh viễn!
Đức Phật còn răn dạy chúng sanh rằng: Nếu muốn sanh về An Lạc quốc thì “chớ nên phóng tâm, vào chỗ ham muốn, phụ kinh bỏ giới, phải đứng sau người.” Kinh là giáo pháp từ kim khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra. Giới là hạnh đức mà Phật chỉ dạy. Ở đây, Phật đặc biệt khuyên chúng ta phải luôn thọ trì kinh giới, bởi vì kinh là con đường dẫn chúng ta tiến nhập trong Phật đạo và giới là nền tảng của muôn hạnh lành. Kinh Tứ Thập Nhị Chương bảo: “Cẩn thận đừng tin tâm ý của ngươi, tâm ý ngươi không thể tin nổi!” Kinh Niết-bàn cũng dạy: “Làm thầy của cái tâm, chớ để cái tâm làm thầy mình.” Các kinh đều bảo chúng sanh chẳng nên tin và chẳng nên tuân theo cái tâm của chính mình bởi vì tâm của chúng sanh đều là hư vọng, mà tâm hư vọng lại chính là cội rễ sanh tử. Nếu ta để cho cái tâm hư vọng này sai khiến thì sẽ mắc sai lầm lớn! Vì thế cổ đức mới nói, nếu chúng ta tuân theo cái vọng tâm của mình thì khác nào nhận giặc làm con mà toan nấu cát thành cơm, thì làm sao ăn cho nổi? Đã biết tâm của phàm phu đều là hư vọng, lẽ nào lại rong ruổi, phóng theo cái tâm ấy mà làm những điều càn quấy hay sao? Bởi vì tâm phàm phu chẳng thể được, chẳng đáng tin cậy; cho nên, Phật dạy mọi người phải lấy kinh, giới của Phật làm thầy mà y theo, đừng để vọng tâm của mình làm thầy của mình mà phải đứng sau người.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.144.244.244 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập