Sự toàn thiện không thể đạt đến, nhưng nếu hướng theo sự toàn thiện, ta sẽ có được sự tuyệt vời. (Perfection is not attainable, but if we chase perfection we can catch excellence.)Vince Lombardi
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Bạn có thể trì hoãn, nhưng thời gian thì không. (You may delay, but time will not.)Benjamin Franklin
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Yếu tố của thành công là cho dù đi từ thất bại này sang thất bại khác vẫn không đánh mất sự nhiệt tình. (Success consists of going from failure to failure without loss of enthusiasm.)Winston Churchill
Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tu học Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: Bốn Lợi Ích Tất Đàn »»
Khi đấng Ðạo Sư Thích Ca Mâu Ni Phật vừa dứt lời dạy: “Người sinh nước đó, đã từng gần gũi vô lượng chư Phật, trồng các cội đức. Muốn sinh về đó, cần phải Nhất tâm, quy y chiêm ngưỡng,” thì Đức A Di Đà Như Lai của cõi kia liền từ lòng bàn tay phóng ra quang minh. Điều này chứng tỏ hai Đức Phật trong hai cõi đồng tâm, đồng đức. Thích Tôn khuyên vãng sanh, Phật Di Ðà tiếp dẫn. Phật quang phổ chiếu hết thảy cõi Phật biểu thị Phật Di Ðà tiếp độ cho hết thảy phàm thánh đồng vãng sanh Cực Lạc. Do Phật quang gia trì, đại chúng trong hội đều được thấy mười phương cõi Phật hiện ra ngay ở trước mặt như trong khoảng một tầm tay.
Quang minh của Phật Di Ðà tôn quý nhất trong các quang minh nên kinh bảo là thù thắng. Sở dĩ quang minh của Phật A Di Đà thù thắng là vì nó vô cùng thanh tịnh. Bởi do quang minh của Phật A Di Đà thù thắng và vô cùng thanh tịnh nên hết thảy núi sông, cảnh vật trong tất cả thế giới không đâu mà chẳng được soi thấy rõ ràng. Kinh nêu lên thí dụ, khi mặt trời mọc thì tối tăm tiêu mất, ý nói khi quang minh Phật phổ chiếu thì chẳng luận là những chỗ hang hốc tối tăm hay cho đến tận cùng địa ngục đều được sáng bừng lên, hiện rõ hết thảy mọi vật đều đồng một sắc sáng. Hiểu một cách cạn cợt, chữ “đều đồng một sắc sáng” nghĩa là thuần chỉ là một màu vàng ròng sáng chói. Hiểu ở một mức sâu xa hơn, “đều đồng một sắc sáng” ngụ ý là vạn pháp nhất như, tức là trong Diệu Trí Quang của Phật đều hiển hiện bản thể thanh tịnh, các tướng sai biệt biến mất, chỉ có một tướng chân thật hiển lộ.
Bản Ðường của kinh Vô Lượng Thọ dịch ghi: “Ví như đại địa, trận hồng thủy ngập tràn, cây cối, núi sông đều bị vùi lấp chẳng hiện, chỉ toàn là nước lớn.” Tiếp đó, kinh bảo: “Quang minh Phật kia cũng giống như thế. Bồ-tát Thanh văn, tất cả quang minh đều bị ẩn mờ, chỉ ánh sáng Phật minh hiện chiếu diệu.” Kinh dùng nạn nước tràn ngập đầy khắp thế giới làm thí dụ ví như đại thủy tai trong lúc kiếp hoại. Trong nạn đại thủy tai, nước từ dưới mặt đất phun vọt lên, mưa tuôn xuống mỗi giọt nước to như bánh xe. Nước tràn ngập lớn, bao la bát ngát, không còn biết đâu là bến bờ, từ cõi trời Ðệ Nhị Thiền trở xuống đều bị nước ngập phá hủy hết. Nước lớn ví cho quang minh Phật; cây cối, núi sông v.v... ví cho quang minh của hết thảy Bồ-tát, Thanh văn đều bị chìm liễm trong Phật quang; giống như khi mặt trời mọc lên thì ánh sáng của các vì sao liền bị che mờ, chẳng hiện.
Lúc ấy, bốn chúng trong hội gồm có một vạn hai ngàn vị đại Tỳ-kheo, năm trăm vị Tỳ-kheo ni, bảy ngàn thanh tín nam, năm trăm thanh tín nữ, Phổ Hiền, Văn Thù, Di Lặc, các vị Chánh sĩ Hiền Hộ và vô lượng vô biên hết thảy Bồ-tát trong Hiền Kiếp, từ các vị Phạm thiên cho đến trời rồng tám bộ quỷ thần, người và phi nhân v.v… trong pháp hội đều được thấy Thế giới Cực Lạc và Phật A Di Đà. Bốn chúng đệ tử trong pháp hội cõi này gồm có hai vạn người đều là thân huyết nhục như chúng ta, thế mà ai nấy cũng đều được thấy Phật A Di Đà, các thứ y báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Họ lại thấy chánh báo là A Di Ðà Phật công đức vòi vọi, tướng hảo quang minh như ngọn núi chúa Tu Di vượn ra khỏi mặt biển. Núi Tu Di chỉ thuần làm bằng bốn chất báu trang nghiêm hợp thành, không có tạp uế, chớ không phải là núi đất đá như các núi của thế gian, nên kinh ví Báo thân của A Di Đà như núi chúa Tu Di vươn khỏi mặt biển. Bồ-tát, Thanh văn cung kính vây quanh Phật A Di Đà tạo ra quang cảnh giống như là họ đang trú trong núi Tu Di, nên kinh ghi là “Thánh hiền đồng trú.” Họ đều là những nhân chứng cho hết thảy chúng sanh trong lúc ấy và đời tương lai biết, có cõi nước Cực Lạc và có Phật A Di Đà hiện đang nói pháp.
A Nan là đương cơ của kinh này nên được nêu tên đầu tiên. Các chúng Bồ-tát là nói chung, bao gồm luôn các vị Thanh văn, trời, người, quỷ thần v.v… đều được nhờ ân Phật mà trông thấy điềm lành này, nên hết thảy đều hoan hỷ, mừng rỡ. Ai nấy đều năm vóc gieo xuống đất, chí thành xưng niệm Nam Mô A Di Ðà Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nam Mô A Di Ðà Phật Chánh Ðẳng Chánh Giác thu gọn lại chính là sáu chữ hồng danh Nam Mô A Di Ðà Phật, bởi vì chữ “A Di Ðà Phật” đã bao gồm ý nghĩa của chữ Chánh Ðẳng Chánh Giác. Trong lời nguyện 14 - Chạm Quang Minh Được An Lạc của Phật A Di Ðà có câu: “Thấy được quang minh, chiếu chạm thân mình, đều được an lạc, tâm từ hành thiện,” cũng là những điều được nói trong đoạn kinh văn: “Thấy ánh sáng này, tất cả bệnh khổ, không chi chẳng dứt. Tất cả ưu não, đều được giải thoát, thảy thảy đều phát, tâm từ tu thiện, hoan hỷ khoái lạc.” Phẩm Ánh Sáng Chiếu Khắp cũng chép: “Nếu trong tam đồ, chỗ vô cùng khổ, thấy quang minh này, đều được dừng dứt.” Bởi thế, tất cả chúng sanh từ các loài bò bay máy cựa, thấy ánh sáng phát ra từ Báo thân A Di Đà Phật, hết thảy bệnh khổ, không chi chẳng dứt, tất cả ưu não, đều được giải thoát.
Các thứ nhạc khí như chuông khánh, đàn cầm, và đàn không hầu v.v… không cần khảy, không cần đánh mà tự nhiên phát ra âm thanh bi diệu nhiệm mầu. Lại có chư thiên trong mười phương đến rải hương hoa biểu hiện sự khoái lạc thù thắng nơi cõi Cực Lạc. Kinh chép tỉ mỉ các việc tốt lành như: thấy Phật, thấy quang minh, thấy cõi nước Cực Lạc, thấy trời mưa hoa, nghe âm thanh vi diệu v.v…, ắt sẽ có người cho đó là cái lỗi chấp tướng. Tiếc thay người ấy chưa biết được điều mầu nhiệm của Tịnh tông là: “Ngay nơi tướng chính là đạo, ngay nơi sự chính là chân.” Cho nên, người tu pháp môn Tịnh độ không cần phải bỏ tướng để cầu đạo, lìa sự để thấy chân! Kinh Vô Lượng Thọ thuần là cảnh giới sự sự vô ngại của Hoa Nghiêm. Một đóa hoa, một hương thơm, một hạt bụi, một mảy lông, không thứ gì chẳng phải là hạt minh châu nơi màng lưới của vua trời Đế Thích. Mỗi thứ nơi cõi Cực Lạc đều viên minh cụ đức, thứ nào cũng thắng diệu, thứ nào cũng đều là toàn thể của Nhất chân Pháp giới, thứ nào cũng là Phật thị hiện diễn thuyết pháp chân tông.
Quán kinh nói: “Phật A Di Ðà cách đây chẳng xa.” Xét về lý, cõi Cực Lạc chẳng lìa khỏi Tự tâm. Xét về Sự, cõi Cực Lạc ở về phía hướng Tây, trăm ngàn câu chi na do tha cõi nước Phật độ. Do lý sự vô ngại nên dù cách xa mười vạn ức cõi Phật, nhưng cũng chính là ở ngay trước mắt. Do hội chúng chân thành cung kính nên cảm ứng Phật lực gia hộ, hai cõi tịnh và uế thấy rõ nhau như đối diện trước mắt, Thánh chúng cõi ấy cũng thấy đấng Thích Tôn cõi này đang ở trong đại hội giảng kinh Ðại Thừa Vô Lượng Thọ như người có thiên nhãn tịnh đang quán sát cảnh vật ngay ở khoảng cách một tầm đất. Vì thế, Kinh A Di Ðà mới nói pháp môn này là pháp hết thảy thế gian khó tin được nổi! Thế nhưng, chúng sanh đời Mạt pháp tình chấp sâu nặng, đối với diệu pháp tối cực viên đốn, Nhất thừa liễu nghĩa, phương tiện rốt ráo này chẳng thể tin hiểu nổi nên đâm ra phỉ báng, chê bai. Do vậy, trong phẩm Lễ Phật Hiện Quang đây, hai vạn người trong thế giới này nhờ oai hần lực gia trì của Phật mà đích thân được thấy Cực Lạc thế giới thanh tịnh trang nghiêm, đích thân nghe A Di Ðà Phật hiện đang thuyết pháp, họ sẽ là người chứng thực, khiến những chúng sanh chưa được thấy phát sanh chánh tín, ưa thích cầu vãng sanh, phát tâm Bồ-đề, một bề chuyên niệm và cũng được Bốn Lợi Ích Tất Đàn. Kèm theo đây là một số kinh chứng tỏ Cực Lạc diệu hữu, ngõ hầu người nghe kinh Vô Lượng Thọ lìa khỏi thiên chấp nơi không, được Bốn Lợi Ích Tất Đàn:
· Quán Vô Lượng Thọ kinh chép: “Vy Ðề Hy và năm trăm thị nữ nghe lời Phật dạy, ngay lập tức thấy tướng rộng lớn của Thế giới Cực Lạc, được thấy thân Phật và hai vị Bồ-tát, tâm sanh hoan hỷ, khen là chưa từng có, thốt nhiên đại ngộ, đắc Vô Sanh Nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sanh về cõi ấy. Thế Tôn thọ ký họ đều sẽ vãng sanh. Sanh trong nước ấy rồi sẽ đắc Chư Phật Hiện Tiền tam muội.” (Tâm sanh hoan hỷ ở đây có ý nói các vị ấy tâm được khai minh, trụ Chánh Định Tụ).
· Kinh Phật Thuyết Như Huyễn Tam Ma Ðịa Vô Lượng Ấn Pháp Môn chép: “Khi ấy, trong hội chúng của Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai nơi thế giới Sa-bà, tất cả Bồ-tát Ma-ha Tát, bí xô, bí xô ni, ưu bà tắc, ưu bà di, Phạm Vương, Ðế Thích Thiên Vương, Hộ Thế Tứ Vương và các chúng trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, A-tu-la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, nhân, phi nhân v.v… đều thấy Thế giới Cực Lạc và thấy Vô Lượng Quang Như Lai, Bồ-tát, Thanh văn đại chúng vây quanh. Quang minh rực rỡ như núi Diệu Cao.”
· Kinh Thập Vãng Sanh chép: “Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ-tát: “Ông nay nên đứng dậy, chắp tay, hướng thẳng về phương Tây, chánh niệm quán cõi Phật A Di Ðà, nguyện thấy A Di Ðà Phật.” Bấy giờ, hết thảy đại chúng cũng đều đứng dậy, chắp tay, cùng quán A Di Ðà Phật. Lúc đó, A Di Ðà Phật hiện đại thần thông phóng đại quang minh, chiếu thân Sơn Hải Huệ Bồ-tát. Khi ấy, Sơn Hải Huệ Bồ-tát v.v… liền thấy tất cả sự trang nghiêm diệu hảo của cõi Phật A Di Ðà đều là thất bảo: núi bảy báu, cõi nước bảy báu; nước chim, cây cối thường diễn pháp âm. Cõi ấy hằng ngày thường chuyển pháp luân.”
· Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận viết: “Ðoạn này ý nói vô lượng quang minh chiếu trọn hết thảy. Cực Lạc và Sa-bà cùng một pháp giới, vốn chẳng phải đây hay kia thì nào có Ðông hay Tây! Sơn hà, đại địa đều là do con mắt nhặm của chúng sanh mà thành. Nếu trong một niệm mà nhập được cảnh giới của Phật thì vô lượng quang minh chiếu khắp trần sát. Tam đồ, lục đạo đồng thời giải thoát. Chẳng phải riêng mình A Nan được oai thần của Phật gia bị nên trông thấy thân Phật và các y báo, chánh báo; mà chính là chúng sanh ngay trong đời Mạt pháp đây cứ hễ nhập được pháp môn này thì chẳng lìa khỏi cái niệm hiện tiền mà chóng được thấy Phật.
· Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Chư Phật giống như một tấm kính tròn lớn, thân ta như hạt ma-ni châu. Thân chư Phật nhập vào trong thân ta, thân ta thường nhập vào trong thân chư Phật. Bởi đó, chư Phật và chúng sanh vốn là vô nhị, thì gọi là thấy Phật, chứ thật chẳng thấy. Vì cớ sao? Vì trong một thể, chẳng thể thấy lẫn nhau.”
Những đoạn kinh trên chứng tỏ trong xã hội Ấn Ðộ thời ấy đã có vài vạn người tận mắt thấy y báo, chánh báo cõi Cực Lạc. Hai đấng đạo sư này đã gia trì oai lực cho đại chúng thấy có Thế giới Cực Lạc và có Phật A Di Đà. Ðối với hai chữ “có” ấy, chúng ta cần phải hết sức lưu ý, bởi vì nói lên cõi Cực Lạc chính là Niết-bàn Diệu Hữu, tức là từ trong Tánh Không lại hiện ra vô lượng sắc tướng trang nghiêm thù thắng không thể nói hết. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật dùng bốn pháp thành tựu để trình bày, giáo hoá, dẫn dắt khắp tất cả chúng sanh biết sự thật về Thế Giới Chân Không Diệu Hữu của cõi Tịnh độ, bốn pháp đó được gọi là Tứ Tất Đàn. “Tất” có nghĩa là khắp hết, “Đàn” nói đủ là đàn na, có nghĩa là bố thí. Tứ Tất Đàn được chia làm bốn phạm trụ: Thế Giới Tất Đàn, Nhân Tất Đàn, Đối Trị Tất Đàn và Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn:
· Thế Giới Tất Đàn: Y báo, chánh báo cõi Cực Lạc hiện tiền nhằm hiển thị đích xác diệu cảnh khiến chúng sanh khai minh, trụ Chánh Định Tụ, hoan hỷ niệm Phật, sanh tâm ham cầu vãng sanh Cực Lạc, thì đó chính là Thế Giới Tất Đàn.
· Nhân Tất Đàn: Thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là cái nhân phát sanh ra các điều lành, mà điều lành tối thắng nhất trong các điều lành chính là trì danh hiệu Phật, vãng sanh Cực Lạc. Phu nhân Vy Đề Hy, năm trăm thị nữ, A Nan và đại chúng sanh tâm hoan hỷ, làm lễ, xưng niệm Thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, thì đó chính là Nhân Tất Đàn.
· Đối Trị Tất Đàn: Phá nghi sanh tín chính là Đối Trị Tất Đàn. Vì sao? Vì nghi căn chưa đoạn chính là tội căn! Hiện tại, chúng ta đọc kinh, nghe pháp về pháp môn Tịnh độ chính là để phá nghi sanh tín. Một khi nghi căn dứt sạch thì tội căn cũng không còn.
· Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn: Kinh Pháp Hoa nói: “Tín mãn thì thành Phật.” Vì sao? Khi tín lực viên mãn thì hoàn toàn trở thành Phật lực, diệu cảm khó suy lường, có khả năng chuyển biến tâm phàm thành tâm Phật. Do diệu cảnh hiện tiền trong pháp hội Vô Lượng Thọ hiển bày trọn vẹn Tự tánh, khiến người được thấy, được nghe chứng nhập Thật tướng, sự lý bất nhị. Diệu cảnh hiện tiền lúc tín lực viên mãn ấy chính là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn.
Đức Phật thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, kết tập thành Tam Tạng Kinh Điển, nhưng gói gọn lại thì chỉ còn hai chữ “buông xuống.” Phần lớn kinh Kim Cang dạy chúng ta không nên chấp trước bằng những đoạn văn như: “Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng là thấy Như Lai,” “Nên không chỗ trụ mà sinh tâm kia,” “Lìa hết thảy tướng gọi là chư Phật” v.v… Những lời lẽ tương tự như vậy trong các kinh Đại thừa khác cũng đều chỉ là để khuyên răn chúng ta cần phải buông xuống, không nên chấp trước vào tất cả tướng. Không còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh và tướng thọ giả nữa thì đó chính là Phật. Kinh Kim Cang nói: “Tất cả pháp hữu vi như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương cũng như điện, nên quán đúng như thế,” chính là chỉ cho chúng ta thấy cái có được trước mắt như là thương yêu, quyến luyến và chấp trước đều là giả tạm như mộng, huyễn, bọt bóng, ngắn ngủi như hạt sương mai, như ánh điện chớp. Chúng hoàn toàn không có giá trị chân thật, chúng đều thuộc vô thường và sẽ tan biến đi; cho nên, Phật bảo chúng ta không nên chấp trước vào các tướng ấy, phải chân thật buông chúng xuống để truy tìm về một nơi chân chánh vĩnh hằng, đó chính là cõi Tây Phương Cực Lạc, nơi đó có Phật A Di Đà, Quán Âm, Thế Chí và chư vị đại hải chúng đang chờ đón chúng ta.
Kinh Kim Cang nói: “Lìa hết thảy tướng tức là chư Phật.” Tâm Kinh bảo: “Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không sắc, thanh, hương vị, xúc, pháp.” Kinh A Di Đà dạy: “Chấp trì danh hiệu Nhất tâm bất loạn.” Kinh Vô Lượng Thọ bảo: “Phát tâm Bồ-đề, một lòng chuyên niệm.” Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhiếp thủ sáu căn, tịnh niệm liên tục.” Đấy đã chỉ rõ, toàn bộ các kinh đều dạy chúng ta cần phải buông xuống! Nếu như trong bàn tay ta đang nắm chắc các thứ đồ vật linh tinh, thì làm sao có thể lấy được bảo vật trân quý? Nếu muốn chộp lấy bảo vật quý báu, thì phải buông những thứ linh tinh trong tay xuống, mới có thể làm được. Trong sự tu tập quán chiếu nơi thân tâm của chính mình, nhân đó mà tìm được sự thấu suốt đạo lý, tiến tới nữa là buông xuống, không chấp trước tất cả, tùy duyên bất biến, rỗng rang tự tại; đó chính là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn, là mục tiêu mà chúng ta muốn đạt tới trong quá trình tu tập.
Trong Tâm Kinh, Bồ-tát Quán Tự Tại bảo: “Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp,” chính là dạy chúng ta phải xả bỏ. Xả bỏ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý có nghĩa là xả bỏ sáu căn lúc nào cũng truy cầu sáu trần (sắc, thanh, hương vị, xúc, pháp). Chúng ta cần phải xả bỏ! Có xả bỏ mới có được sự thọ dụng chân thật trong Phật pháp. Xả bỏ một phần thì được một phần thọ dụng, xả bỏ mười phần thì được mười phần thọ dụng, xả bỏ tất cả thì sẽ được tất cả. Phương pháp xả bỏ được nói rất nhiều trong các kinh; đặc biệt trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, chương Bồ-tát Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông có dạy: “Thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm liên tục.” Từ thủy đến chung, từ sáng đến tối không lìa câu Phật hiệu, dùng vạn đức hồng danh một câu thánh hiệu A Di Đà Phật buộc chặt nơi sáu căn, không để cho sáu căn có cơ hội dính mắc với sáu trần, thì đó chính là “Thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm liên tục.” Trong quá trình trì danh hiệu Phật, xả bỏ các duyên của sáu căn, xả bỏ sự tiêm nhiễm của sáu trần, nương tựa vào nguyện lực đại từ đại bi của Phật A Di Đà, tức là đem danh hiệu Phật làm bổn mạng nguyên thần của chính mình để thành tựu hạnh nguyện vãng sanh Cực Lạc, giải thoát luân hồi, chứng quả thành Phật; thì đó chính là lợi ích của Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn!
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.15.31.27 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập