Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hãy học cách vui thích với những gì bạn có trong khi theo đuổi tất cả những gì bạn muốn. (Learn how to be happy with what you have while you pursue all that you want. )Jim Rohn
Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Hầu hết mọi người đều cho rằng sự thông minh tạo nên một nhà khoa học lớn. Nhưng họ đã lầm, chính nhân cách mới làm nên điều đó. (Most people say that it is the intellect which makes a great scientist. They are wrong: it is character.)Albert Einstein
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Tu học Phật pháp »» Xem đối chiếu Anh Việt: Pháp vô ngại, vô trước »»
Phẩm Chỉ Lưu Lại Một Kinh Này chép: “Như có chúng sanh đặng nghe tiếng Phật, từ tâm thanh tịnh hớn hở vui mừng, lông tóc dựng đứng, hoặc chảy nước mắt, đều do đời trước từng hành Phật đạo, chẳng phải người phàm. Nếu nghe hiệu Phật, trong lòng hồ nghi, lời kinh Phật dạy, thảy chẳng lòng tin, đều do ở trong đường dữ mà tới, tai ương đời trước, chưa được dứt tận, chưa được độ thoát, nên tâm hồ nghi, chẳng hướng tin vậy.”
Câu “đặng nghe tiếng Phật” ở đây chính là nghe danh hiệu A Di Ðà Phật. Chữ “nghe” bao hàm nghe danh hiệu Phật và thọ trì. Bởi danh hiệu Phật có đủ vạn đức nên người nghe phải bắt nguồn từ tâm thanh tịnh mà nghe, tức là từ nơi chí thành tâm và thâm tín tâm mà phát khởi đại tâm. “Thanh tịnh” là thuần tịnh vô cấu. “Vui mừng” là nội tâm hỷ lạc. “Hớn hở” là sự hân hoan phấn chấn thể hiện ra nơi dáng vẻ, lời nói. “Lông tóc dựng đứng” ý nói các lỗ chân lông khắp thân mình đều nở to ra, lông và tóc đều dựng đứng cả lên. “Chảy nước mắt” là nước mắt tuôn ra. Những người được nghe danh hiệu Phật A Di Đà mà tự nhiên biểu hiện các tướng trạng như thế đều là những người từ Phật đạo mà đến. Những người ấy đều có thiện căn, phước đức, nhân duyên hy hữu như kinh này nói: “Khó trong khó, chẳng gì khó hơn”.
Phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa có câu: “Các vị Thế Tôn ấy đều nói pháp Nhất thừa, giáo hóa vô lượng chúng sanh khiến họ nhập Phật đạo”. Vậy, chữ “Phật đạo” ở đây có nghĩa là Vô thượng Bồ-đề mà Phật đã chứng đắc. Phật đạo cũng chính là vạn hạnh tu để đạt đến địa vị Phật. Vậy, câu “từng hành Phật đạo, chẳng phải người phàm” chính là lời Đức Phật khen ngợi những người tin hiểu, thọ trì kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Kim Cang cũng khen ngợi rằng: “Trong đời tương lai năm trăm năm sau, nếu có chúng sanh được nghe kinh này tin hiểu, thọ trì, thì người ấy chính là đệ nhất hy hữu. Vì sao vậy? Vì người ấy không có ngã tướng, không có nhân tướng, không có chúng sanh tướng, không có thọ giả tướng”. Trong tác phẩm Phá Không Luận, Ngài Linh Phong Đại sư đã giảng như sau: “Ðây chính là Tín Tu Đại Quả. Nếu như còn có chút mảy tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, thì quyết chẳng tin nổi kinh này. Nếu như tin hiểu, thọ trì kinh này, thì quyết phải thông đạt ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng đương thể chính là vô tướng”. Vì thế, người tin hiểu, thọ trì kinh Vô Lượng Thọ cũng chính là người khế hợp với ý chỉ của kinh Kim Cang: “Thấy tất cả tướng là phi tướng, tức thấy Như Lai” và “Lìa hết thảy các tướng, tức là Phật.”
Chuẩn theo lời giảng ấy mà luận thì kinh Vô Lượng Thọ chính là pháp hết thảy thế gian khó tin, khó hiểu nổi. Nếu ai sanh nổi lòng tin hiểu đối với pháp này, thì phải nên biết rằng người ấy chẳng phải là phàm nhân, mà chính là người hy hữu nhất trong hết thảy thế gian. Nếu có thể sanh lòng tin chân thật vào Viên giáo, hiểu trọn vẹn, tu trọn vẹn, thì mới đáng xưng tụng là người có căn cơ viên đốn. Người có căn cơ viên đốn tu hành một ngày bằng thường nhân tu hành cả một kiếp. Trái lại, nếu kẻ hồ nghi, chẳng tin kinh này, thì kinh nói: “Nếu nghe hiệu Phật trong lòng hồ nghi, lời kinh Phật dạy thảy chẳng lòng tin, đều do ở trong đường dữ mà tới, tai ương đời trước, chưa được dứt tận, chưa được độ thoát, nên tâm hồ nghi, chẳng hướng tin vậy”. Người mới từ ba ác đạo thoát ra, ương họa nghiệp chướng túc thế của họ chưa thể đoạn hết, trong đời này họ còn chưa đến thời kỳ được đắc độ, nên chẳng thể tin nhận nổi kinh này. Ðây cũng chính là điều mà kinh Kim Cang đã nói: “Trong đời mai sau, có kẻ thọ trì, đọc tụng kinh này, nếu ta nói đủ công đức người ấy đạt được, ắt sẽ có kẻ nghe rồi tâm liền cuồng loạn, hồ nghi chẳng tin”. Chúng ta thấy rõ ràng rằng: Pháp môn càng thù thắng bao nhiêu, thì thế nhân càng khó tin bấy nhiêu. Bởi thế, đối với pháp viên đốn này, người đời hồ nghi chẳng tin chỉ là việc thường tình. Ngược lại, người tin hiểu được kinh này, đều là do trong các đời trước, họ đã từng hành Phật đạo, chẳng phải người phàm.
Trong phẩm Cần Tu Kiên Trì, Đức Thế Tôn phó chúc đại chúng thủ hộ và hoằng truyền kinh này để cứu vớt chúng sanh thoát ra khỏi biển khổ sanh tử. Kế đó, Phật còn dạy hạnh tu phải tương ứng với tín giải, tức là phải thực hành những gì mình tin hiểu từ nơi kinh điển này để cầu sanh Tịnh Ðộ. Kinh chép lời Thế Tôn phó chúc đại chúng hộ trì kinh Vô Lượng Thọ như sau: “Phật bảo Di Lặc: Pháp vô thượng của chư Phật Như Lai, mười lực vô úy, vô ngại vô trước, pháp rất thậm sâu, pháp Ba-la-mật, của chư Bồ-tát, chẳng phải dễ gặp. Người hay nói pháp, cũng khó mở bày, vững chắc tin sâu, thời cũng khó gặp. Ta nay như lý, mà tuyên nói các pháp môn rộng lớn, vi diệu như thế, chỗ khen ngợi của tất cả chư Phật, phú chúc các ông, làm đại thủ hộ.”
Pháp vô thượng của chư Phật Như Lai là pháp cùng lý, tận tánh, không có pháp nào cao hơn nữa. Vì sao? Vì pháp vô thượng ấy chính là Đại Niết-bàn, mà không có pháp nào hơn được Đại Niết-bàn. Phật có mười trí lực nên Ngài có thể hóa độ chúng sanh chứng Đại Niết-bàn mà tâm chẳng kinh khiếp, nên gọi là “mười lực vô úy”. Mười lực vô úy là mười trí lực của Đức Như Lai bao gồm: Giác thị xứ phi xứ trí lực, Nghiệp trí lực, Định trí lực, Căn trí lực, Dục trí lực, Giới trí lực, Chí xứ trí lực, Túc mạng trí lực, Thiên nhãn trí lực, Lậu tận trí lực.
1) Giác thị xứ phi xứ trí lực: Xứ nghĩa là đạo lý. Giác thị xứ phi xứ trí lực trí lực biết được đạo lý và phi đạo lý của chúng sanh, mà cũng là trí biết hết thảy nhân duyên, quả báo của chúng sanh. Tạo nghiệp vui nào được quả báo vui nào, nhân quả phù hợp với nhau thì gọi là thị xứ. Tạo nghiệp ác lại cầu quả vui, thì nhân quả trái nghịch nhau, nên gọi là phi xứ (trái nghịch với đạo lý), như người ta thường nói: “Vô hữu thị xứ”, nghĩa là chẳng có lẽ ấy.
2) Nghiệp trí lực là trí lực biết nhân quả, nghiệp báo trong ba đời của hết thảy chúng sanh là thiện hay bất thiện, hữu lậu hay vô lậu v.v…
3) Định trí lực là trí lực biết hết thảy các pháp thiền định giải thoát tam muội.
4) Căn trí lực là trí lực biết các căn tánh của chúng sanh là thượng hay hạ, biết rõ căn bệnh của từng mỗi chúng sanh, biết chỉ đúng thuốc để trị từng căn bệnh, biết giáo hóa chúng sanh tùy theo căn cơ.
5) Dục trí lực là trí lực biết tất cả các thứ trí giải và điều ưa thích khác nhau của chúng sanh, mỗi người đều sai khác, chẳng đồng giống như nhau.
6) Giới trí lực là trí lực biết tất cả cảnh giới của chúng sanh, đối với hết thảy cảnh giới sai khác của chúng sanh trong thế gian đều biết đúng như thật.
7) Chí xứ trí lực là trí lực biết tướng trạng của chỗ đạt đến của hết thảy đạo, biết tu theo giáo pháp nào, đạo phẩm nào sẽ được địa vị nào. Chẳng hạn như tu Ngũ Giới, Thập Thiện sẽ đạt đến nhân thiên, tu pháp Bát Chánh Đạo vô lậu sẽ đạt đến Niết-bàn v.v...
8) Túc mạng trí lực là trí lực biết rõ từ một đời cho đến trăm ngàn vạn đời của chúng sanh; tên họ, thọ yểu, khổ vui v.v…đều thông rõ rành rẽ.
9) Thiên nhãn trí lực là trí lực thấy chúng sanh thọ sanh, xả báo, sống sống, chết chết, từ nẻo nào sanh ra, sẽ sanh vào đường nào và các nghiệp duyên thiện ác, hoặc khổ, hoặc vui một cách vô chướng ngại.
10) Lậu tận trí lực là trí lực vĩnh viễn đoạn dứt chẳng sanh khởi các vọng hoặc, tập khí, biết được một cách chân thật, chẳng còn thọ thân hữu lậu.
“Vô ngại” là thông đạt tự tại, thâm nhập lẫn nhau, dung thông lẫn nhau thành một thể như. Trí vô ngại của Phật giống như những ánh sáng khác nhau chiếu chập vào nhau một cách không trở ngại. Sách Vãng Sanh Luận Chú nói: “Vô ngại nghĩa là biết sanh tử chính là Niết-bàn, bình đẳng nhập vào tướng vô ngại bất nhị như thế”. Tông Hoa Nghiêm lập ra bốn pháp giới; theo Ðại Minh Pháp Số, bốn pháp giới đó là: Sự Pháp giới, Lý Pháp giới, Lý sự Vô ngại Pháp giới, Sự sự Vô ngại Pháp giới. Sự Pháp giới là các pháp như chúng sanh, sắc, tâm v.v… mỗi pháp đều sai biệt, chẳng giống hệt nhau nơi tướng. Lý pháp giới là các pháp như chúng sanh, sắc, tâm v.v… tuy có sai biệt nơi tướng, nhưng đều có đồng một thể tánh. Lý sự Vô ngại Pháp giới nghĩa là lý và sự dung hội lẫn nhau: Lý do sự mà hiển bày, sự nhờ lý mà được thành tựu. Sự sự Vô ngại Pháp giới, còn gọi là Vô chướng ngại Pháp Giới, nghĩa là hết thảy sự tuy có sai biệt, nhưng xét về tánh thì chúng viên dung: một chính là nhiều, nhiều chính là một, lớn nhỏ chứa đựng lẫn nhau, trùng trùng vô tận. Những điều được kinh Vô Lượng Thọ tuyên thuyết là pháp rất thâm sâu, rất vi diệu, là pháp Lý sự Vô ngại Pháp giới, Sự sự Vô ngại Pháp giới của Như Lai mà kinh gọi chung là pháp vô ngại.
“Vô trước” là không có ý niệm chấp trước. Kinh Kim Cang ghi: “Không có pháp nhất định nào gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng chẳng có pháp nhất định để Như Lai nói được. Vì cớ sao? Pháp của Đức Như Lai đã nói đều chẳng lấy được, chẳng nói được, chẳng phải là pháp, chẳng phải là phi pháp”. Sách Phá Không Luận giảng giải câu kinh văn này như sau: “Vô thượng Bồ-đề siêu tình ly kiến chính là bờ kia rốt ráo. Chẳng những là không gì chẳng phải là pháp tướng mà cũng chẳng có pháp tướng nào để được, nên bảo là ‘không có pháp nhất định nào gọi là Vô thượng Bồ-đề”. Do vậy, nếu người nghe pháp có ý niệm chấp trước nơi ngôn ngữ, văn tự, tâm duyên, cũng tức là chấp trước nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thì chẳng thể giải Như Lai chân thật nghĩa. Vì sao? Vì như kinh Kim Cang đã nói: “Chẳng có pháp nhất định để Như Lai nói được”. Vì điều được chứng đã là siêu tình ly kiến, mà điều được nói cũng là siêu tình ly kiến như kinh Kim Cang đã nói: “Chẳng có pháp nhất định để Như Lai nói được”. Do bởi bờ bên kia là Thật tướng thì ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh cùng diệt, chẳng thể lấy hay nói được. Vì pháp của Như Lai không thể nói bằng ngôn ngữ bình thường, nên Như Lai phải dùng bốn Tất Ðàn làm nhân duyên để diễn giải cái không thể nói thành cái có thể nói được. Thế nhưng, pháp được nói ra đó chỉ là tùy thuận Tứ Tất Ðàn, nên mỗi một câu, mỗi một lời không gì là chẳng là siêu tình ly kiến, lìa tứ quả, tuyệt bách phi. Nói cách khác, pháp thậm thâm mà Đức Như Lai nói ra, chẳng phải pháp mà cũng chẳng phải là phi pháp, nên pháp ấy chẳng thể lấy được mà cũng chẳng thể bỏ được. Kinh gọi pháp đó là pháp vô trước.
Kinh Kim Cang giải nghĩa chữ “vô trước” như sau: “Khác nào hoa sen chẳng dính nước, như nhật nguyệt chẳng trụ trên không”. Ý là, có vô trước thì mới nở được đóa sen nhiệm mầu vạn đức trọn đủ. Chẳng trụ vào hư không thì mặt trời, mặt trăng mới có thể vận hành chẳng nghỉ, quang minh chiếu khắp. Vậy, muốn hiểu pháp vô ngại, vô trước của Như Lai thì tâm cũng phải là vô ngại, vô trước, tức là không chướng ngại, không chấp trước. Trong bài giảng “Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán” của Hòa Thượng Tịnh Không, Ngài quyền biến giáo hóa chúng sanh, xé toang những chướng ngại của ngôn từ, thuật ngữ khó hiểu bằng lời giải thích đơn giản dễ hiểu hơn về pháp vô trước của Như Lai. Ngài nói: Đối với pháp vô thượng thậm thâm vi diệu của Như Lai, nếu chúng ta chấp vào ngôn ngữ, danh từ, tâm duyên và ý nghĩ riêng để hiểu, thì cái biết đó chỉ là cái biết của riêng mình, chẳng phải là Như Lai chân thật nghĩa. Nếu muốn giải Như Lai chân thật nghĩa thì phải giữ tâm rỗng lặng, không khởi ý tưởng, lìa tất cả tướng, không trụ nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp để hiểu.
Kinh nói, các pháp thậm thâm vi diệu của Như Lai đều là những pháp của chư Bồ-tát nên chẳng phải dễ gặp. Nếu ai được nghe, được hiểu đều là do các đời trước đã từng tu hành Phật đạo, chẳng phải phàm nhân. Lại nữa, đây là pháp của chư Bồ-tát, nên dẫu có người khéo thuyết pháp, thì đối với pháp môn siêu tình ly kiến, thậm thâm bất khả tư nghị này, cũng khó thể dùng ngôn ngữ, văn tự để hiển thị được. Nói như vậy, người muốn thâm nhập chân thật nghĩa của kinh Vô Lượng Thọ thì phải làm sao đây? Đề tựa của kinh này đã rành rành chỉ dạy: “Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác”. Chúng ta phải dùng tâm thanh tịnh bình đẳng giác mới có thể thâm nhập mà hiểu nổi pháp môn siêu tình ly kiến, thậm thâm vi diệu này của Như Lai. Thế nhưng, sau khi đã hiểu rồi cũng khó mà dùng ngô ngữ, văn tự để diễn nói, nên kinh bảo: “Người hay nói pháp, cũng khó mở bày.” Kinh còn nói, nếu chúng ta ta thấy hành nhân nào vững chắc tin sâu được pháp này, thì phải biết người ấy không phải người phàm, trong những đời trước họ đã từng hành Phật đạo. Những ai có thể sanh lòng tin sâu xa nơi pháp hết thảy thế gian khó tin, khó hiểu này đều do thiện căn của họ đã gieo trong nhiều đời trước, đời này nhân duyên thành đạo của họ đến lúc chín muồi, các thiện căn đã gieo trồng ấy tự nhiên cùng nhau phát động, nên họ mới có thể vững chắc tin sâu pháp môn này, chớ phải đâu họ có thể từ ngôn ngữ, danh tự, phân biệt, kiến giải mà biết được nổi. Vậy, người nghe kinh này mà phát lòng vững chắc tin sâu, thì quả thật là một nhân duyên hy hữu khó gặp, khó thấy trong vạn kiếp ngàn đời, nên kinh bảo: “Vững chắc tin sâu, thời cũng khó gặp.”
Bởi do một đại nhân duyên, thiện căn, phước đức hy hữu khó gặp, khó thấy như vậy, nên Đức Phật mới nói: “Ta nay như lý mà tuyên nói các pháp môn rộng lớn, vi diệu như thế, chỗ khen ngợi của tất cả chư Phật, phú chúc các ông làm đại thủ hộ”. Câu nói này là lời phó chúc của Phật với đại chúng trong pháp hội phải hộ trì kinh giáo này. Vì pháp môn này phù hợp với lý, nên kinh bảo “như lý”. Vì pháp môn này trọn đủ vạn đức, độ khắp các căn cơ, nên kinh bảo là “rộng lớn”. Vì do niệm Phật mà thiện căn, phước đức mau chóng được bằng với Phật, thần diệu khó nghĩ lường, nên kinh bảo là “vi diệu”. Vì do pháp môn này vi diệu như vậy, nên kinh bảo là “chỗ khen ngợi của tất cả chư Phật”. “Chỗ khen ngợi của tất cả chư Phật” có ý là mười phương chư Phật đều khen ngợi hai đấng Đại Đạo sư A Di Đà Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật, khen ngợi bộ kinh này và khen ngợi tất cả những ai vững chắc tin sâu pháp khó gặp, khó tin này.
Phẩm Mười Phương Chư Phật Tán Thán chép: “Mười phương vô lượng chư Phật mỗi vị đều khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Vô Lượng Thọ Phật”. Kinh A Di Ðà ghi: “Các Đức Phật ấy cũng khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của ta, mà nói như sau: Thích Ca Mâu Ni Phật làm được chuyện hy hữu, rất khó, có thể ở nơi cõi Sa-bà trong đời ác ngũ trược vì các chúng sanh nói pháp hết thảy thế gian khó tin nổi này”. Kinh Vô Thượng Thọ bảo: “Tin ưa, thọ trì là khó trong khó, chẳng gì khó hơn”. Vả lại, kinh Di Ðà nguyên có tên là Bất Khả Tư Nghị Công Ðức, Nhất Thiết Chư Phật, Sở Hộ Niệm Kinh; đấy đã cho chúng ta biết rằng kinh pháp như vậy thật sự được chư Phật khen ngợi và hộ niệm. Vì pháp môn này đệ nhất hy hữu, nên Đức Thích Tôn phó chúc cho các vị Đại sĩ như Di Lặc Bồ-tát thực hiện sự đại thủ hộ cho kinh giáo này. Vì việc giữ gìn pháp môn này còn hơn giữ gìn cái đầu, con mắt của chính mình, nên được gọi là đại thủ hộ. Thế Tôn trân trọng giao phó cho các vị như Di Lặc Đại sĩ gìn giữ cẩn trọng pháp môn này, Từ Thị Đại sĩ vâng lãnh lời Phật ủy thác, trong tương lai khi Ngài hạ sanh thành Phật mở pháp hội Long Hoa, ắt hẳn sẽ tuân theo Thánh chỉ của Thích Tôn mà hoằng truyền kinh điển này.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.116.90.161 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập