Tôi nghe như thế này, vào lúc đức Phật ở tại thành Vương Xá, giữa núi Kỳ-xà-quật, cùng với chúng đại tỳ-kheo 1.200 vị,
[1] hết thảy đều là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã dứt, không bị phiền não trở lại, được lợi lạc bản thân, dứt hết trói buộc trong các cõi hiện hữu, tâm được tự tại.
This is what I heard:
At one time the Buddha was in Rajagriha, staying on Mount Gridhrakuta. Accompanying him were a multitude of leading monks numbering twelve thousand persons. All were arhats whose outflows had come to an end, who had no more earthly desires, who had attained what was to their advantage and had put an end to the bonds of existence, and whose minds had achieved a state of freedom.
Tên các ngài là: A-nhã Kiều-trần-như,
[2] Ma-ha Ca-diếp,
[3] Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp,
[4] Xá-lợi-phất,
[5] Đại Mục-kiền-liên,
[6] Ma-ha Ca-chiên-diên,
[7] A-nậu-lâu-đà,
[8] Kiếp-tân-na,
[9] Kiều-phạm-ba-đề,
[10] Ly-bà-đa,
[11] Tất-lăng-già-bà-sa,
[12] Bạc-câu-la,
[13] Ma-ha Câu-hi-la,
[14] Nan-đà,
[15] Tôn-đà-la Nan-đà,
[16] Phú-lâu-na Di-đà-la-ni tử,
[17] Tu-bồ-đề,
[18] A-nan,
[19] La-hầu-la.
[20] Đó là các vị đại A-la-hán được nhiều người biết đến.
[21]
Their names were Ajnata Kaundinya, Mahakashyapa, Uruvilvakashyapa, Gayakashyapa, Nadikashyapa, Shariputra, Great Maudgaly~yana, Mahakatyayana, Aniruddha, Kapphina, Gavampati, Revata, Pilindavatsa, Bakkula, Mahakaushthila, Nanda, Sundarananda, Purna Maitrayaniputra, Subhuti, Ananda, and Rahula. All were like these, great Arhats who were well known to others.
Lại có các vị hữu học, vô học
[22] đến 2.000 người.
There were also two thousand persons, some of whom were still learning and some who had completed their learning.
Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề
[23] cùng với ni chúng 6.000 người cùng đến. Mẹ của La-hầu-la là tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la
[24] cũng cùng đến với ni chúng.
There was the nun Mahaprajapati with her six thousand followers. And there was Rahula's mother, the nun Yashodhara, with her followers.
Có 80.000 vị Đại Bồ Tát, tất cả đều không còn thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,
[25] đều đạt được đà-la-ni, có tài biện luận vui thích thuyết giảng, chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển, từng cúng dường vô số trăm nghìn đức Phật, ở nơi chư Phật gieo trồng các gốc công đức, thường được chư Phật ngợi khen xưng tán, dùng tâm từ tu thân, khéo thể nhập trí tuệ Phật, thông đạt trí tuệ lớn lao, đạt đến bờ giải thoát, danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới, thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh.
There were bodhisattvas and mahasattvas, eighty thousand of them, none of them ever regressing in their search for anuttara-samyaksambodhi. All had gained dharanis, delighted in preaching, were eloquent, and turned the wheel of the Law that knows no regression. They had made offerings to immeasurable hundreds and thousands of Buddhas, in the presence of various Buddhas had planted numerous roots of virtue, had been constantly praised by the Buddhas, had trained themselves in compassion, were good at entering the Buddha wisdom, and had fully penetrated the great wisdom and reached the farther shore. Their fame had spread throughout immeasurable worlds and they were able to save countless hundreds of thousands of living beings.
Danh hiệu của các vị là: Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi,
[26] Bồ Tát Quán Thế Âm,
[27] Bồ Tát Đắc Đại Thế,
[28] Bồ Tát Thường Tinh Tấn,
[29] Bồ Tát Bất Hưu Tức,
[30] Bồ Tát Bảo Chưởng,
[31] Bồ Tát Dược Vương,
[32] Bồ Tát Dũng Thí,
[33] Bồ Tát Bảo Nguyệt,
[34] Bồ Tát Nguyệt Quang,
[35] Bồ Tát Mãn Nguyệt,
[36] Bồ Tát Đại Lực,
[37] Bồ Tát Vô Lượng Lực,
[38] Bồ Tát Việt Tam Giới,
[39] Bồ Tát Bạt-đà-bà-la,
[40] Bồ Tát Di-lặc,
[41] Bồ Tát Bảo Tích,
[42] Bồ Tát Đạo Sư
[43]… Các vị Đại Bồ Tát như vậy, cả thảy 80.000 vị cùng tham dự pháp hội.
Their names were Bodhisattva Manjushri, Bodhisattva Perceiver of the World's Sounds, Bodhisattva Gainer of Great Authority, Bodhisattva Constant Exertion, Bodhisattva Never Resting, Bodhisattva Jeweled Palm, Bodhisattva Medicine King, Bodhisattva Brave Donor, Bodhisattva Jeweled Moon, Bodhisattva Moonlight, Bodhisattva Full Moon, Bodhisattva Great Strength, Bodhisattva Immeasurable Strength, Bodhisattva Transcending the Threefold World, Bodhisattva Bhadrapala, Bodhisattva Maitreya, Bodhisattva Jeweled Accumulation, and Bodhisattva Guiding Leader. Bodhisattvas and mahasattvas such as these numbering eighty thousand were in attendance.
Lúc bấy giờ có Thích-đề-hoàn-nhân
[44] và quyến thuộc 20.000 vị thiên tử cùng đến. Lại có Thiên tử Danh Nguyệt, Thiên tử Phổ Hương, Thiên tử Bảo Quang, Tứ đại Thiên vương
[45] và quyến thuộc 10.000 thiên tử cùng đến. Thiên tử Tự Tại, Thiên tử Đại Tự Tại và quyến thuộc 30.000 thiên tử cùng đến. Phạm Thiên vương chủ thế giới Ta-bà,
[46] cùng Đại Phạm Thi-khí,
[47] Đại Phạm Quang Minh
[48]... và quyến thuộc 12.000 thiên tử cùng đến.
At that time Shakra Devanam Indra with his followers, twenty thousand sons of gods, also attended. There were also the sons of gods Rare Moon, Pervading Fragrance, Jeweled Glow, and the Four Great Heavenly Kings, along with their followers, ten thousand sons of gods.
Present were the sons of gods Freedom and Great Freedom and their followers, thirty thousand sons of gods, Present were King Brahma, lord of the saha world, the great Brahma Shikhin, and the great Brahma Light Bright, and their followers, twelve thousand sons of gods.
Có 8 vị long vương:
[49] Long vương Nan-đà, Long vương Bạt-nan-đà, Long vương Sa-già-la, Long vương Hòa-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca, Long vương A-na-bà-đạt-đa, Long vương Ma-na-tư, Long vương Ưu-bát-la,
[50] mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.
There were eight dragon kings, the dragon king Nanda, the dragon king Upananda, the dragon king Sagara, the dragon king Vasuki, the dragon king Takshaka, the dragon king Anavatapta, the dragon king Manasvin, the dragon king Utpalaka, each with several hundreds of thousands of followers.
Có bốn vị vua khẩn-na-la:
[51] Vua Khẩn-na-la Pháp, Vua Khẩn-na-la Diệu Pháp, Vua Khẩn-na-la Đại Pháp, Vua Khẩn-na-la Trì Pháp, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.
There were four kimnara kings, the kimnara king Great Law, and the kimnara king Upholding the Law, each with several hundreds of thousands of followers.
Có bốn vị vua càn-thát-bà:
[52] Vua Càn-thát-bà Nhạc, Vua Càn-thát-bà Nhạc Âm, Vua Càn-thát-bà Mỹ, Vua Càn-thát-bà Mỹ Âm, mỗi vị đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.
There were four gandharva kings, and gandharva king Pleasant, the gandharva king Pleasant Sound, the gandharva Beautiful Sound, each with several hundreds of thousands of followers.
Có bốn vị vua a-tu-la:
[53] Vua A-tu-la Bà-trĩ, Vua A-tu-la Khư-la-kiển-đà, Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la, Vua A-tu-la La-hầu, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.
There were four asura kings, the asura king Balin, the asura king Kharaskandha, the asura king Vemachitrin, and the asura king Rahu, each with several hundreds of thousands of followers.
Có bốn vị vua ca-lâu-la:
[54] Vua Ca-lâu-la Đại Uy Đức, Vua Ca-lâu-la Đại Thân, Vua Ca-lâu-la Đại Mãn, Vua Ca-lâu-la Như Ý, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.
There were four garuda kings, the garuda king Great Majesty, the garuda king Great Body, the garuda king Great Fullness, and the garuda king As One Wishes, each with several hundreds of thousands of followers.
Vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hi
[55] cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc, hết thảy đều đảnh lễ sát chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên.
And there was King Ajatashatru, the son of Vaidehi, with several hundreds of thousands of followers.
Each of these, after bowing in obeisance before the Buddha's feet, withdrew and took a seat to one side.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn có bốn chúng đi nhiễu quanh, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.
[56] Phật thuyết kinh ấy xong, ngồi kết già nhập Tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm chẳng động.
At that time the World-Honored One, surrounded by the four kinds of believers, received offerings and tokens of respect and was honored and praised. And for the sake of the bodhisattvas he preached the Great Vehicle sutra entitle Immeasurable Meanings, a Law to instruct the bodhisattvas, one that is guarded and kept in mind by the Buddhas.
When the Buddha had finished preaching this Sutra, he sat with his legs crossed in lotus position and entered into the samadhi of the place of immeasurable meanings, his body and mind never moving.
Lúc bấy giờ trời mưa xuống các loại hoa mạn-đà-la, ma-ha mạn-đà-la,
[57] mạn-thù-sa, ma-ha mạn-thù-sa;
[58] hoa rơi trên thân Phật và khắp thảy đại chúng.
At that time heaven rained down mandarava flowers, great mandarava flowers, manjushaka flowers, and great manjushaka flowers, scattering them over the Buddha and over the great assembly,
Cõi đất chấn động khắp thế giới Phật. Bấy giờ trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa,
[59] càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già,
[60] người và các loài phi nhân…
[61] cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương. Đại chúng gặp việc chưa từng có, hoan hỷ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật.
and everywhere the Buddha world quaked and trembled in six different ways.
At that time the monks, nuns, laymen, laywomen, heavenly beings, dragons, yakshas, gandharvas, asuras, garudas, kimnaras, mahoragas, human and nonhuman beings in the assembly, as well as the petty kings and wheel-turning sage kings - all those in the great assembly, having gained what they had never had before, were filled with joy and, pressing their palms together, gazed at the Buddha with a single mind.
Lúc bấy giờ, đức Phật phóng hào quang từ nơi tướng bạch hào giữa hai chân mày,
[62] soi chiếu 18.000 thế giới ở phương đông, không một nơi nào không soi thấu, phía dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ,
[63] phía trên chiếu đến cõi trời A-ca-ni-trá.
[64]
At that time the Buddha emitted a ray of light from the tuft of white hair between his eyebrows, one of his characteristic features, lighting up eighteen thousand worlds in the eastern direction. There was no place that the light did not penetrate, reaching downward as far as the Avichi hell and upward to the Akanishtha heaven.
Từ nơi thế giới này thấy hết thảy sáu đường chúng sanh các cõi kia,
[65] lại thấy chư Phật hiện tại ở các cõi ấy cùng nghe được những kinh điển giáo pháp mà chư Phật ấy thuyết giảng, cùng thấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, những vị tu hành đạt đạo. Lại thấy các vị Đại Bồ Tát, đủ mọi nhân duyên, đủ mọi tín giải, đủ mọi tướng mạo, thực hành đạo Bồ Tát. Lại thấy chư Phật nhập Niết-bàn ; lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết-bàn, đại chúng thu xá-lợi Phật, dựng tháp thờ bằng bảy món báu.
From this world one could see the living beings in the six paths of existence in all of those other lands. One could likewise see the Buddhas present at that time in those other lands and could hear the sutra teachings which those Buddhas were expounding. At the same time one could see the monks, nuns laymen, and laywomen who had carried out religious practices and attained the way. One could also see the bodhisattvas and mahasattvas who, through various causes and conditions and various types of faith and understanding and in various forms and aspects were carrying out the way of the bodhisattva. And one could also see the Buddhas who had entered parinirvana, towers adorned with the seven treasures were erected for the Buddha relics.
Lúc bấy giờ Bồ Tát Di-lặc nghĩ rằng: “Nay đức Thế Tôn hiện tướng thần biến, do nhân duyên gì mà có điềm lành này? Nay đức Phật Thế Tôn đã nhập tam-muội, việc biến hiện hy hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai? Ai có thể giải đáp?” Rồi lại nghĩ rằng: “Ngài Văn-thù-sư-lợi là con đấng Pháp vương, đã từng thân cận cúng dường vô số chư Phật trong quá khứ, chắc hẳn đã từng được thấy tướng ít có này, nay ta nên thưa hỏi.” Lúc ấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cùng với chư thiên, loài rồng, quỷ thần... cũng đều nghĩ rằng: “Tướng thần thông hào quang chiếu sáng của đức Phật, nay biết thưa hỏi ai?”
At that time the Bodhisattva Maitreya had this thought: Now the World-Honored One has manifested these miraculous signs. But what is the cause of these auspicious portents? Now the Buddha, the World Honored One, has entered into samadhi. An unfathomable event such as this is seldom to be met with. Whom shall I question about this? Who can give me an answer?
And again he had this thought: this Manjushri, son of a Dharma King, has already personally attended and given offerings to immeasurable numbers of Buddhas in the past. Surely he must see these rare signs. I will now question him.
At this time the monks, nuns, laymen and laywomen, as well as the heavenly beings, dragons, spirits, and the others all had this thought: this beam of brightness from the Buddha, these signs of transcendental powers - now whom shall we question about them?
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Di-lặc muốn dứt mối nghi của mình, lại quán sát thấy được tâm nghi của bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng chư thiên, loài rồng, quỷ thần... nên thưa hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: “Do nhân duyên gì mà có điềm lành Phật hiện tướng thần thông, phóng hào quang lớn chiếu đến 18.000 thế giới ở phương đông, [đại chúng] thấy hết được những cõi Phật trang nghiêm nơi ấy?”
At that time Bodhisattva Maitreya wished to settle his doubts concerning the matter. And in addition he could see what was in the minds of the four kinds of believers, the monks, nuns, laymen and laywomen, as well as the heavenly beings, dragons, spirits and the others who made up the assembly. So he questioned Manjushri, saying, "What is the cause of these auspicious portents, these signs of transcendental powers, this emitting of a great beam of brightness that illumines the eighteen thousand lands in the eastern direction so we can see all the adornments of the Buddha worlds there?"
Khi ấy, Bồ Tát Di-lặc muốn lặp lại ý nghĩa trên liền đọc kệ thưa hỏi rằng:
Then Bodhisattva Maitreya, wishing to state his meaning once more, asked the question in verse form:
Ngài Văn-thù-sư-lợi!
Vì sao đấng Đạo sư,
Từ giữa hai chân mày,
Phóng hào quang soi chiếu.
Manjushri,
Why from the white tuft between the eyebrows
of our leader and teacher
does this great light shine all around?
Mưa hoa mạn-đà-la,
Với hoa mạn-thù-sa,
Gió thơm hương chiên-đàn,
Đại chúng đều hoan hỷ?
Why do mandarava
and manjushaka flowers rain down
and breezes scented with sandalwood
delight the hearts of the assembly?
Lại do nhân duyên này,
Mặt đất đều nghiêm tịnh,
Và khắp thế giới này,
Chấn động theo sáu cách.
[66]
Because of these
the earth is everywhere adorned and purified
and this world
quakes and trembles in six different ways.
Bấy giờ cả bốn chúng,
Đều vui mừng hoan hỷ,
Thân ý đều sảng khoái,
Được việc chưa từng có.
At this time the four kinds of believers
are all filled with joy and delight,
they rejoice in body and mind,
having gained what they never had before.
Hào quang từ giữa mày,
Soi chiếu thấu phương đông,
Khắp mười tám ngàn cõi,
Đều sáng đẹp sắc vàng;
The beam of brightness from between the eyebrows
illumines the eastern direction
and eighteen thousand lands
are all the color of gold.
Từ địa ngục A-tỳ,
Lên đến trời Hữu đỉnh,
Các thế giới trong đó,
Đủ sáu đường chúng sanh,
Sống, chết, đi về đâu,
Hay nghiệp duyên lành dữ,
Chịu quả báo tốt xấu,
Từ đây đều thấy rõ.
From the Avichi hell
upward to the Summit of Being,
throughout the various worlds
the living beings in the six paths,
the realm to which their births and deaths are tending,
their good and bad deeds,
and the pleasing or ugly recompense they receive -
all these can be seen from here.
Lại thấy các đức Phật,
Bậc Sư tử Thánh chúa,
Diễn thuyết nhiều kinh điển,
Đều vi diệu bậc nhất.
We can also see Buddhas,
those sage lords, lions,
expounding and preaching sutras
that are subtle, wonderful and foremost.
Âm thanh thật thanh tịnh,
Tiếng nói nghe dịu dàng,
Dạy bảo hàng Bồ Tát,
Vô số muôn ngàn người.
Their voices are clear and pure,
issuing in soft and gentle sounds,
as they teach bodhisattvas
in numberless millions.
Tiếng cõi trời sâu mầu,
Ai ai cũng thích nghe.
Mỗi vị nơi cõi mình,
Đều giảng thuyết chánh pháp,
Cùng đủ mọi nhân duyên,
Và vô số thí dụ,
Làm sáng tỏ Phật pháp,
Để khai ngộ chúng sanh.
Their Brahma sounds are profound and wonderful,
making people delight in hearing them.
Each in his own world
preaches the correct Law,
following various causes and conditions
and employing immeasurable similes,
illuminating the Law of the Buddha,
guiding living beings to enlightenment.
Với những người gặp khổ,
Chán bỏ già, bệnh, chết,
Vì họ thuyết Niết-bàn,
Dứt hết mọi cảnh khổ.
If a person should encounter troubles,
loathing old age, sickness and death,
the Buddhas preach to him on nirvana,
explaining how he may put an end to all troubles.
Với những người có phước,
Đã từng cúng dường Phật,
Quyết cầu pháp vượt trội,
Liền dạy pháp Duyên giác;
If a person should have good fortune,
having in the past made offerings to the Buddhas,
determined to seek a superior Law,
the Buddhas preach the way of the pratyekabuddha.
Riêng với hàng con Phật,
Tu đủ mọi công hạnh,
Cầu trí tuệ Vô thượng,
Liền thuyết đạo thanh tịnh.
If there should be Buddha sons
who carry out various religious practices,
seeking to attain the unsurpassed wisdom,
the Buddhas preach the way of purity.
Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Tôi ở tại nơi đây,
Thấy nghe những việc ấy,
Cùng muôn ngàn việc khác,
Hội chúng đủ hạng người,
Nay chỉ xin lược nói.
Manjushri,
I have been dwelling here,
seeing and hearing in this manner
many things numbering in the thousands of millions.
Numerous as they are,
I will now speak of them in brief.
Tôi thấy những cõi kia,
Có vô số Bồ Tát,
Dùng đủ mọi nhân duyên,
Để cầu thành Phật đạo.
I see in these lands
bodhisattvas numerous as Ganges sands,
according with various causes and conditions
and seeking the way of the Buddha.
Có người thường bố thí,
Vàng bạc với san hô,
Hạt châu quý ma-ni,
Xa cừ cùng mã não,
Some of them give alms,
gold, silver, coral,
pears, mani jewels,
seashell, agate,
Kim cương, các trân bảo,
Nô tỳ và xe cộ,
Trang trí bằng châu báu,
Đều hoan hỷ bố thí.
diamonds and other rarities,
men and women servants, carriages,
jeweled hand carriages and palanquins,
gladly presenting these donations.
Hồi hướng cầu Phật đạo,
Nguyện đạt được Phật thừa,
Bậc nhất trong ba cõi,
Chư Phật đều khen ngợi.
Such gifts they give to the Buddha way,
desiring to achieve the vehicle
that is foremost in the threefold world
and praised by the Buddhas.
Hoặc có những Bồ Tát,
Bố thí cả xe quý,
Có bốn ngựa, lọng che,
Cùng trang sức xinh đẹp.
There are some bodhisattvas
who give jeweled carriages drawn by teams of four,
with railings and flowered canopies
adorning their top and sides.
Lại thấy các Bồ Tát,
Bố thí cả xương thịt,
Chân tay cùng vợ con,
Vì cầu đạo Vô thượng.
Again I see bodhisattvas
who give their own flesh, hands and feet,
or their wives and children,
seeking the unsurpassed way.
Lại thấy các Bồ Tát,
Ưa thích, vui mừng thí,
Đầu, mắt cùng thân thể,
Vì cầu trí tuệ Phật.
I also see bodhisattvas
who happily give
heads, eyes, bodies and limbs
in their search for the Buddha wisdom.
Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Tôi thấy các vị vua,
Đến viếng thăm chỗ Phật,
Thưa hỏi đạo Vô thượng,
Rồi bỏ cõi dục lạc,
Cung điện nhiều mỹ nữ,
Cạo sạch cả râu tóc,
Mặc pháp phục xuất gia.
Manjushri,
I see kings
going to visit the place of the Buddha
to ask him about the unsurpassed way.
They put aside their happy lands,
their palaces, their men and women attendants,
shave their hair and beard
and don the clothes of the Dharma.
Hoặc thấy các Bồ Tát,
Mà hiện làm tỳ-kheo,
Sống cô độc nhàn tĩnh,
Ưa thích tụng kinh điển.
Or I see bodhisattvas
who become monks,
living alone in quietude,
delighting in chanting the sutras.
Lại thấy các Bồ Tát,
Sức dũng mãnh tinh tấn,
Vào tận trong núi sâu,
Nỗ lực tư duy đạo.
Again I see bodhisattvas
bravely and vigorously exerting themselves,
entering the deep mountains,
their thoughts on the Buddha way.
Lại thấy bậc ly dục,
Thường sống nơi nhàn tịnh,
Tu sâu pháp thiền định,
Đạt được năm thần thông.
And I see them removing themselves from desire,
constantly dwelling in emptiness and stillness,
advancing deep into the practice of mediation
until they have gained the five transcendental powers.
Lại thấy các Bồ Tát,
Trong thiền định chắp tay,
Dùng muôn ngàn lời kệ,
Ngợi khen các đức Phật.
And I see bodhisattvas
resting in meditation, palms pressed together,
with a thousand, ten thousand verses
praising the king of the doctrines.
Lại thấy các Bồ Tát
Trí sâu chí nguyện vững,
Thường thưa hỏi chư Phật,
Nghe giảng liền thọ trì.
Again I see bodhisattvas,
profound in wisdom, firm in purpose,
who know how to question the Buddhas
and accept and abide by all they hear.
Lại thấy hàng con Phật,
Đã trọn đủ định, tuệ,
Dùng vô số thí dụ,
Vì đại chúng giảng pháp.
I see Buddha sons
proficient in both meditation and wisdom,
who use immeasurable numbers of similes
to expound the Law to the assembly,
Vui thích thuyết chánh pháp,
Giáo hóa các Bồ Tát,
Phá trừ hết quân ma,
Đánh vang rền trống Pháp.
delighting in preaching the Law,
converting the bodhisattvas,
defeating the legions of the devil
and beating the Dharma drum.
Lại thấy các Bồ Tát,
Trụ yên trong tịch lặng,
Trời, rồng đều cung kính,
Nhưng không lấy làm vui.
And I see bodhisattvas
profoundly still and silent,
honored by heavenly beings and dragons
but not counting that a joy.
Lại thấy các Bồ Tát,
Từ rừng sâu phóng quang,
Chúng sanh khổ địa ngục,
Khiến được vào đạo Phật.
And I see bodhisattvas
living in forests, emitting light,
saving those who suffer in hell,
causing them to enter the Buddha way.
Lại thấy hàng con Phật,
Tỉnh thức không ngủ nghỉ,
Trong rừng sâu kinh hành,
Chuyên cần cầu đạo Phật.
And I see Buddha sons
who have never once slept,
who keep circling through the forest
diligently seeking the Buddha way.
Lại thấy người giữ giới,
Oai nghi không khuyết tổn,
Trong sáng như châu ngọc,
Để cầu thành Phật đạo.
And I see those who observe the precepts,
no flaw in their conduct,
pure as jewels and gems,
and in that manner seeking the Buddha way.
Lại thấy hàng con Phật,
An trụ sức nhẫn nhục,
Dù những kẻ kiêu mạn,
Mắng chửi và đánh đập,
Cũng đều nhẫn nhịn được,
Để cầu thành Phật đạo.
And I see Buddha sons
abiding in the strength of fortitude,
taking the abuse and blows
of persons of overbearing arrogance,
willing to suffer all these,
and in that manner seeking the Buddha way.
Lại thấy hàng Bồ Tát,
Lìa xa chuyện cợt đùa,
Không gần kẻ ngu si,
Thân cận bậc trí tuệ,
Chuyên tâm trừ loạn tưởng,
Giữa núi rừng nhiếp tâm,
Trong suốt muôn ngàn năm,
Để cầu thành Phật đạo.
I see bodhisattvas
removing themselves form frivolity and laughter
and from foolish companions,
befriending persons of wisdom,
unifying their minds, dispelling confusion,
ordering their thoughts in mountain and forest
for a million, a thousand, ten thousand years
in that manner seeking the Buddha way.
Hoặc thấy hàng Bồ Tát,
Dùng thức ăn ngon quý,
Cùng trăm loại thuốc thang,
Cúng dường Phật và Tăng.
Or I see bodhisattvas
with delicious things to eat and drink
and a hundred kinds of medicinal potions,
offering them to the Buddha and his monks;
Dùng y phục thượng hạng,
Giá muôn ngàn lượng vàng,
Hoặc quý báu vô giá,
Cúng dường Phật và Tăng.
fine robes and superior garments
costing in the thousands or ten thousands,
or robes that are beyond cast,
offering them to the Buddha and his monks;
Dùng trăm ngàn muôn loại,
Nhà quý gỗ chiên-đàn,
Với tòa ngồi tốt đẹp,
Cúng dường Phật và Tăng.
a thousand, ten thousand, a million kinds
of jeweled dwellings made of sandalwood
and numerous wonderful articles of bedding,
offering them to the Buddha and his monks;
Dâng vườn rừng yên tĩnh,
Có hoa trái sum suê,
Suối chảy, hồ trong mát,
Cúng dường Phật và Tăng.
immaculate gardens and groves
where flowers and fruit abound,
flowing springs and bathing pools,
offering them to the Buddha and his monks;
Cúng dường những thứ ấy,
Đều tốt đẹp nhiệm mầu,
Tâm hoan hỷ không chán,
Vì cầu đạo Vô thượng.
offerings of this kind,
or many different wonderful varieties
presented gladly and without regret
as they seek the unsurpassed way.
Hoặc có hàng Bồ Tát,
Thuyết giảng pháp tịch diệt,
Dùng mọi cách chỉ bày,
Cho vô số chúng sanh.
Or there are bodhisattvas
who expound the Law of tranquil extinction,
giving different types of instruction
to numberless living beings.
Hoặc thấy hàng Bồ Tát,
Quán chiếu các tánh pháp,
Vốn thật không hai tướng,
Thảy đều như hư không.
Or I see bodhisattvas
viewing the nature of all phenomena
as having no dual characteristics,
as being like empty space.
Lại thấy hàng con Phật,
Tâm không chút dính mắc,
Dùng trí tuệ nhiệm mầu,
Để cầu đạo Vô thượng.
And I see Buddha sons
whose minds have no attachments,
who use this wonderful wisdom
to seek the unsurpassed way.
Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Lại có hàng Bồ Tát,
Sau khi Phật diệt độ,
Liền cúng dường xá-lợi.
Manjushri,
there are also bodhisattvas
who after the Buddha has passed into extinction
make offerings to his relics.
Lại thấy hàng con Phật,
Xây dựng các tháp miếu,
Nhiều như cát sông Hằng,
Làm trang nghiêm cõi nước.
I see Buddha sons
building memorial towers
as numberless as Ganges sands,
ornamenting each land with them,
Tháp báu đẹp tuyệt vời,
Cao năm ngàn do-tuần,
Ngang, rộng giống như nhau,
Đều hai ngàn do-tuần.
jeweled towers lofty and wonderful,
five thousand yojanas high,
their width and depth
exactly two thousand yojanas,
Mỗi một ngôi tháp miếu,
Đều có ngàn cờ phướn,
Cùng màn ngọc phủ che,
Với chuông nhỏ hòa ngân.
each of these memorial towers
with its thousand banners and streamers,
with curtains laced with gems like dewdrops
and jeweled bells chiming harmoniously.
Có chư thiên, long, thần,
Người và loài phi nhân,
Dùng hương, hoa, âm nhạc,
Thường dâng lên cúng dường.
There heavenly beings, dragons, spirits,
human and nonhuman beings,
with incense, flowers and music
constantly making offerings.
Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Hết thảy hàng Phật tử,
Vì cúng dường xá-lợi,
Nên trang nghiêm tháp miếu,
Khắp cõi nước tự nhiên,
Thành tươi đẹp tuyệt vời,
Như cây chúa cõi trời,
Đang mùa hoa nở rộ.
Manjushri,
these Buddha sons
in order to make offerings to the relics
adorn the memorial towers
so that each land, just as it is,
is as outstandingly wonderful and lovely
as the heavenly king of trees
when its flowers open and unfold.
Một lần Phật phóng quang,
Tôi cùng cả hội chúng,
Đều thấy cõi nước này,
Đủ mọi vẻ tươi đẹp.
When the Buddha emits a beam of light
I and the other members of the assembly
can see these lands
in all their various outstanding wonders.
Thần lực của chư Phật,
Trí tuệ thật ít có,
Phóng hào quang thanh tịnh,
Chiếu vô số cõi nước.
The supernatural powers of the Buddhas
and their wisdom are rare indeed;
by emitting one pure beam of light,
the Buddhas illuminate countless lands.
Chúng tôi đều được thấy,
Việc xưa nay chưa có.
Nguyện Phật tử Văn-thù!
Vì đại chúng giải nghi.
I and the others have seen this,
have gained something never known before.
Buddha son, Manjushri,
I beg you to settle the doubts of the assembly.
Bốn chúng đều ngưỡng vọng,
Mong đợi ngài và tôi,
Nói rõ Phật vì sao,
Phóng tỏa hào quang này.
Xin kịp thời giải đáp,
Dứt nghi để được vui.
The four kinds of believers look up in happy anticipation,
gazing at you and me.
Why does the World-Honored One
emit this beam of brightness?
Buddha son, give a timely answer,
settle these doubts and occasion joy!
Lại vì lợi ích gì,
Phật hiện phóng hào quang?
Phật ngồi nơi đạo trường,
Đã chứng đắc diệu pháp,
Nay sẽ thuyết pháp ấy,
Hay vì ai thụ ký?
Nên hiện các cõi Phật,
Với châu báu nghiêm tịnh.
Lại thấy các cõi Phật,
Chẳng phải duyên nhỏ nhặt.
What rich benefits will come
from the projecting of this beam of brightness?
It must be that the Buddha wishes to expound
the wonderful Law he gained
when he sat in the place of practice.
He must have prophecies to bestow.
He has showed us Buddha lands
with their adornment and purity of manifold treasures,
and we have seen their Buddhas -
this is not done for petty reasons.
Ngài Văn-thù nên biết,
Bốn chúng, hàng trời, rồng...
Đều mong ngóng chờ xem,
Ngài nói ra những gì?
Manjushri, you must know.
The four kinds of believers, the dragons and spirits
gaze at you in surmise,
wondering what explanation you will give.
Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Đại Bồ Tát Di-lặc, các vị đại sĩ và thiện nam tử: “Theo như tôi suy xét thì nay đức Phật Thế Tôn muốn thuyết pháp lớn lao, mưa xuống cơn mưa pháp lớn, thổi tù và pháp lớn,
[67] đánh tiếng trống pháp lớn, diễn giảng nghĩa pháp lớn.
At that time Manjushri said to the bodhisattva and mahasattva Maitreya and the other great men: "Good men, I suppose that the Buddha, the World Honored One, wishes now to expound the great Law, to rain down the rain of the great Law, to blow the conch of the great Law, to beat the drum of the great Law, to elucidate the meaning of the great Law.
“Các vị thiện nam tử! Tôi ở nơi chư Phật trong quá khứ từng thấy điềm lành này, phóng hào quang này rồi ắt thuyết pháp lớn lao. Cho nên biết được rằng, nay Phật hiện hào quang cũng giống như vậy, muốn cho chúng sanh thảy đều nghe biết pháp khó tin nhận với tất cả thế gian, cho nên hiện điềm lành này.
Good men, in the past I have seen this auspicious portent among the Buddhas. They emitted a beam of light like this, and after that they expounded the great Law. Therefore we should know that now, when the present Buddha manifests this light, we will do likewise. He wishes to cause all living beings to hear and understand the Law, which is difficult for all the world to believe. Therefore he has manifested this auspicious portent.
“Các thiện nam tử! Như trong quá khứ cách đây vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kì số kiếp.
"Good men, once, at a time that was an immeasurable, boundless, inconceivable number of asamkhya kalpas in the past,
“Lúc bấy giờ có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh
[68] Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
[69]
there was a Buddha named Sun Moon Bright, Thus Come One, worthy of offerings, of right and universal knowledge, perfect clarity and conduct, well gone, understanding the world, unexcelled worthy, trainer of people, teacher of heavenly and human beings, Buddha, World-Honored One, who expounded the correct Law.
“[Đức Phật ấy] diễn thuyết chánh pháp lúc ban sơ tốt đẹp, khoảng giữa tốt đẹp, sau cùng cũng tốt đẹp, ý nghĩa sâu xa, ngôn ngữ khéo léo mầu nhiệm, thuần khiết không xen tạp, đầy đủ tướng trạng của hạnh thanh tịnh trong sáng.
His exposition was good at the beginning, good in the middle, good at the end. The meaning was profound and far-reaching, the words were skillful and wondrous. It was pure and without alloy, complete, clean and spotless, and bore the marks of Brahma practice."
“Vì người cầu quả Thanh văn mà thuyết pháp tứ đế
[70] thích hợp, vượt thoát sinh già bệnh chết, rốt ráo đạt Niết-bàn; vì người cầu quả Duyên giác
[71] mà thuyết pháp mười hai nhân duyên thích hợp; vì các Bồ Tát mà thuyết sáu ba-la-mật
[72] thích hợp, khiến cho đạt được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành tựu Nhất thiết chủng trí.
[73]
"For the sake of those seeking to become voice-hearers he responded by expounding the Law of the four noble truths, so that they could transcend birth, old age, sickness and death and attain nirvana. For the sake of those seeking to become pratyekabuddhas he responded by expounding the Law of the twelve-linked chain of causation. For the sake of the bodhisattvas he responded by expounding the six paramitas, causing them to gain anuttara-samyak-sambodhi and to acquire the wisdom that embraces all species."
“Tiếp đến có Phật cũng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, rồi tiếp nữa lại có Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, như vậy đến 20.000 vị Phật đều cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, lại cũng đồng một dòng họ là Phả-la-đọa. Ngài Di-lặc nên biết, từ vị Phật ban đầu đến vị Phật cuối cùng đều cùng một danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, đều có đầy đủ mười đức hiệu, và những điều thuyết pháp từ ban sơ, khoảng giữa cho đến cuối cùng đều tốt đẹp.
"Then there was another Buddha who was also named Sun Moon Bright, and then another Buddha also named Sun Moon Bright. There were twenty thousand Buddhas like this, all with the same appellation, all named Sun Moon Bright. And all had the same surname, the surname Bharadvaja. Maitreya, you should understand that from the first Buddha to the last, all had the same appellation, all were named Sun Moon Bright. They were worthy of all the ten epithets and the Law they expounded was good at the beginning, in the middle, and at the end."
“Vị Phật sau cùng, lúc chưa xuất gia có tám người con. Người thứ nhất tên là Hữu Ý, thứ hai là Thiện Ý, thứ ba là Vô Lượng Ý, thứ tư là Bảo Ý, thứ năm là Tăng Ý, thứ sáu là Trừ Nghi Ý, thứ bảy là Hưởng Ý, thứ tám là Pháp Ý. Tám vị vương tử này đều có oai đức tự tại, mỗi vị đều cai trị bốn thiên hạ. Các vị vương tử nghe tin phụ vương xuất gia, đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, liền xả bỏ vương vị theo cha xuất gia, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều là những vị pháp sư, ở nơi muôn ngàn đức Phật trồng các cội lành.
"The last Buddha, when he had not yet left family life, had eight princely sons. The first was named Having Intention, the second Good Intention, the third Immeasurable intention, the fourth jeweled intention, the fifth Increased Intention, the sixth Cleansed of Doubt Intention, the seventh Echoing Intention, and the eighth Law Intention. Dignity and virtue came easily to them, and each presided over a four-continent realm."
"When these princes heard that their father had left family life and had gained anuttara-samyak-sambodhi, they all cast aside their princely positions and followed him by leaving family life. Conceiving a desire for the Great Vehicle, the constantly carried out Brahma practices, and all became teachers of the Law. They had already planted good roots in the company of a thousand, ten thousand Buddhas."
“Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Thuyết kinh xong liền ở giữa đại chúng ngồi kết già nhập tam-muội Vô lượng nghĩa xứ,
[74] thân tâm chẳng động. Khi ấy, trời mưa xuống hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, hoa rải lên thân Phật và đại chúng. Khắp cõi Phật, mặt đất chấn động theo sáu cách. Khi ấy trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và loài phi nhân, cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương... Đại chúng như vậy được việc chưa từng có, đều hoan hỷ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật. Khi ấy, đức Như Lai phóng hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa hai chân mày, soi chiếu về phương đông đến 18.000 cõi Phật, không nơi nào không soi thấu, cũng giống như ngày nay đã thấy hiển bày các cõi Phật. Ngài Di-lặc nên biết, khi ấy trong chúng hội có hai triệu Bồ Tát ưa muốn nghe pháp. Các vị Bồ Tát này thấy hào quang soi chiếu khắp các cõi Phật, được điều chưa từng có, đều muốn rõ biết nhân duyên của hào quang này.
"At that time the Buddha Sun Moon Bright preached the Great Vehicle sutra entitled Immeasurable Meanings, a Law to instruct the Bodhisattvas, one that is guarded and kept in mind by the Buddhas. When he had finished preaching the sutra, he sat cross-legged in the midst of the great assembly and entered into the samadhi of the place of immeasurable meanings, his body and mind never moving. At this time heaven rained down mandarava flowers, great mandarava flowers, manjushaka flowers, and great manjushaka flowers, scattering them over the Buddha and the great assembly, and everywhere the Buddha world quaked and trembled in six different ways."
"At that time the monks, nuns, laymen and laywomen , heavenly beings, dragons, yakshas, gandharvas, asuras, garudas, kimnaras, and mahoragas, the human and nonhuman beings in the assembly, as well as the petty kings and wheel-turning sage kings - all those in this great assembly gained what they had never had before and, filled with joy, pressed their palms together and gazed at the Buddha with a single mind.
"At that time the Thus Come One emitted a ray of light from the tuft of white hair between his eyebrows, one of his characteristic features, lighting up eighteen thousand Buddha lands in the eastern direction. There was no place that the light did not penetrate, just as you have seen it light up these Buddha lands now."
"Maitreya, you should understand this. At that time in the assembly there were twenty million bodhisattvas who were happy and eager to hear the Law. When these bodhisattvas saw this beam of light that illuminated the Buddha lands everywhere, they gained what they had never had before. They wished to know the causes and conditions that had occasioned this light."
“Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Diệu Quang,
[75] có 800 người đệ tử. Khi ấy, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra khỏi tam-muội, nhân vì Bồ Tát Diệu Quang mà thuyết kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm, trong 60 tiểu kiếp không đứng dậy khỏi tòa ngồi. Chúng hội cũng ngồi yên một chỗ, trong 60 tiểu kiếp thân tâm không dao động, lắng nghe Phật thuyết kinh, đều cảm thấy chỉ như thời gian một bữa ăn. Lúc ấy trong chúng hội không một người nào thấy thân hoặc tâm sinh ra lười mỏi.
"At that time there was a bodhisattva named Wonderfully Bright who had eight hundred disciples. At this time the Buddha Sun Moon Bright arose from his samadhi and, because of the bodhisattva Wonderfully Bright, preached the Great Vehicle sutra called the Lotus of the Wonderful Law, a Law to instruct the bodhisattvas, one that is guarded and kept in mind by the Buddhas. For sixty small kalpas the Buddha remained in his seat without rising, and the listeners in the assembly at that time also remained seated there for sixty small kalpas, their bodies and minds never moving. And yet it seemed to them that they had been listening to the Buddha peach for no more than the space of a meal. At this time in the assembly there was not a single person who in body or mind had the least feeling of weariness."
“Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh qua 60 tiểu kiếp thuyết kinh này rồi, liền tuyên bố với chúng hội gồm các vị phạm chí, ma, sa-môn, bà-la-môn, chư thiên, người, a-tu-la rằng: ‘Hôm nay vào lúc giữa đêm, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn Vô dư.’
[76]
"When the Buddha Sun Moon Bright had finished preaching this sutra over a period of sixty small kalpas, he spoke these words to the Brahmas, devils, shramanas and Brahmans, as well as to the heavenly and human beings and asuras in the assembly, saying, 'tonight at midnight the Thus Come One will enter the nirvana of no remainder."
“Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Đức Tạng,
[77] Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh liền thụ ký, nói với các vị tỳ-kheo: ‘Bồ Tát Đức Tạng này sẽ thành Phật tiếp theo, hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác…’
[78]
"At this time there was a bodhisattva named Virtue Storehouse. The Buddha Sun Moon Bright bestowed a prophecy on him, announcing to the monks, "This bodhisattva Virtue Storehouse will be the next to become a Buddha. He will be called Pure Body, tathagata, arhat, samyak-sambuddha."
“Đức Phật thụ ký rồi, đến giữa đêm liền nhập Niết-bàn Vô dư. Sau khi Phật diệt độ, Bồ Tát Diệu Quang thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trọn 80 tiểu kiếp vì người khác giảng thuyết. Tám người con của đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều thờ ngài Diệu Quang làm thầy, được ngài dạy dỗ, khiến cho được tâm kiên cố đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh Giác. Các vương tử này, sau khi cúng dường vô số trăm ngàn muôn ức vị Phật rồi thảy đều thành Phật. Vị thành Phật sau cùng hiệu là Nhiên Đăng. Trong số 800 đệ tử, có một người tên là Cầu Danh, tham chấp lợi dưỡng, tuy cũng tụng đọc kinh điển nhưng không thông hiểu, phần nhiều đều quên mất, cho nên có hiệu là Cầu Danh. Người này vì cũng từng gieo trồng nhiều căn lành nên được gặp vô số trăm ngàn muôn ức đức Phật, đều cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán.
"After the Buddha had finished bestowing this prophecy, at midnight he entered the nirvana of no remainder."
"After the Buddha had passed away, Bodhisattva Wonderfully Bright upheld the Sutra of the Lotus of the Wonderful Law, for a period of fully eighty small kalpas expounding it for others. The eight sons of the Buddha Sun Moon Bright all acknowledged Wonderfully Bright as their teacher. Wonderfully Bright taught and converted them and roused in them a firm determination to gain anuttara-samyak-sambodhi. Those princely sons gave offerings to immeasurable hundreds, thousands, ten thousands, millions of Buddhas, and after that all were able to achieve the Buddha way. The last to become a Buddha was named Burning Torch."
"Among the eight hundred disciples of Wonderfully Bright was one named Seeker of Fame. He was greedy for gain and support, and though he read and recited numerous sutras, he could not understand them, but for the most part forgot them. Hence he was called Seeker of Fame. Because this man had in addition planted various good roots, however, he was able to encounter immeasurable hundreds, thousands, ten thousands, millions of Buddhas, to make offerings to them, revere, honor and praise them."
“Ngài Di-lặc nên biết, Bồ Tát Diệu Quang thuở ấy nào phải ai khác, chính là tôi đây. Còn Bồ Tát Cầu Danh chính là ngài đó.
"Maitreya, you should understand this. Bodhisattva Wonderfully Bright who lived then-could he be known to you? He was no other than I myself. And Bodhisattva Seeker of Fame was you."
“Nay tôi thấy điềm lành này so với thuở xưa không khác, nên suy xét rằng: “Hôm nay đức Như Lai sẽ thuyết giảng kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.”
"Now when I see this auspicious portent, it is no different from what I saw before. Therefore I suppose that now the Thus Come One is about to preach the Great Vehicle sutra called the Lotus of the Wonderful Law, a Law to instruct the bodhisattvas, one that is guarded and kept in mind by the Buddhas."
Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi ở giữa đại chúng muốn trùng tuyên ý nghĩa trên nên đọc kệ rằng:
At that time Manjushri, wishing in the presence of the great assembly to state his meaning once more, spoke in verse form, saying:
Tôi nhớ đời quá khứ,
Vô lượng vô số kiếp,
Có Phật, đấng cao quý,
Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh.
I recall that in a past age
immeasurable, innumerable kalpas ago
there was a Buddha, most honored of men,
named Sun Moon Bright.
Thế Tôn thuyết giảng pháp,
Độ vô lượng chúng sanh,
Vô số ức Bồ Tát,
Khiến vào trí tuệ Phật.
This World-Honored One expounded the Law,
saving immeasurable living beings
and numberless millions of bodhisattvas,
causing them to enter the Buddha wisdom.
Khi Phật chưa xuất gia,
Sinh ra tám vương tử,
Thấy Đại thánh xuất gia,
Cũng theo tu thanh tịnh.
The eight princely sons whom this Buddha sired
before taking leave of family life,
when they saw that the great sage had left his family
did likewise, carrying out brahma practices.
Khi Phật thuyết Đại thừa,
Kinh tên Vô Lượng Nghĩa,
Liền ở giữa đại chúng,
Vì người rộng phân biệt.
At that time the Buddha preached the Great Vehicle,
a sutra named Immeasurable Meanings,
and in the midst of a great assembly
for the sake of the people established broad distinctions.
Phật thuyết kinh ấy rồi,
Liền ngồi trên pháp tòa,
Kết già nhập tam-muội,
Tên Vô Lượng Nghĩa Xứ.
When the Buddha had finished preaching this sutra
he sat in the seat of the Law,
sitting cross-legged in the samadhi
called the place of immeasurable meanings.
Trời mưa hoa mạn-đà,
Trống trời tự nhiên vang,
Chư thiên, rồng, quỷ thần,
Cúng dường Bậc Tôn quý.
The heavens rained mandarava flowers,
heavenly drums sounded of themselves,
and the heavenly beings, dragons and spirits
made offerings to the most honored of men.
Hết thảy bao cõi Phật,
Đều tức thời chấn động,
Phật phóng quang giữa mày,
Hiện những việc ít có.
All the Buddha lands
immediately quaked and trembled greatly.
The Buddha emitted a light from between his eyebrows,
manifesting signs that are rarely seen.
Hào quang chiếu phương đông,
Mười tám ngàn cõi Phật,
Chúng sanh đều được thấy,
Chỗ nghiệp báo sinh tử.
This light illumined the eastern direction,
eighteen thousand Buddha lands,
showing how all the living beings there
were recompensed in birth and death for their past deed.
Cũng thấy các cõi Phật,
Dùng châu báu trang nghiêm,
Màu lưu ly, pha lê,
Đều do hào quang Phật.
That one could see how these Buddha lands,
adorned with numerous jewels,
shone with hues of lapis lazuli and crystal
was due to the illumination of the Buddha's light.
Lại thấy chúng trời người,
Rồng, thần và dạ-xoa,
Càn-thát, khẩn na la,
Đều cúng dường Phật ấy.
One could also see the heavenly and human beings,
dragons, spirits, many yakshas,
gandharvas and kimnaras,
each making offerings to his respective Buddha.
Lại thấy các vị Phật,
Tự nhiên thành Phật đạo,
Thân sáng như núi vàng,
Đoan nghiêm rất vi diệu.
One could also see Thus Come Ones
naturally attaining the Buddha way,
their bodies the color of golden mountains,
upright, imposing, very subtle and wonderful.
Trong sạch như lưu ly,
Hiện thành tượng vàng ròng,
Thế Tôn giữa đại chúng,
Rộng thuyết pháp sâu mầu.
It was as though in the midst of pure lapis lazuli
there should appear statues of real gold.
In the midst of the great assembly the World-Honored Ones
expounded the principles of the profound Law.
Nơi mỗi một cõi Phật,
Có vô số Thanh văn,
Nương hào quang Phật chiếu,
Thấy rõ các chúng ấy.
In one after another of the Buddha lands
the voice-hearers in countless multitudes
through the illumination of the Buddha's light
all became visible with their great assemblies.
Hoặc có những tỳ-kheo,
Thường sống giữa núi rừng,
Tinh tấn giữ giới hạnh,
Như giữ hạt minh châu.
There were also monks
residing in the midst of forests,
exerting themselves and keeping the pure precepts
as though they were guarding a bright jewel.
Lại nhờ hào quang Phật,
Thấy được các Bồ Tát,
Hành bố thí, nhẫn nhục...
Nhiều như cát sông Hằng.
One could also see bodhisattvas
carrying out almsgiving, forbearances, and so forth,
their number like Ganges sands,
due to the illumination of the Buddha's light.
Lại thấy các Bồ Tát,
Vào sâu các thiền định,
Thân tâm lặng chẳng động,
Để cầu đạo Vô thượng.
One could also see bodhisattvas
entering deep into meditation practices,
their bodies and minds still and unmoving,
in that manner seeking the unsurpassed way.
Lại thấy các Bồ Tát,
Biết tướng pháp tịch diệt,
Ở nơi cõi nước mình,
Thuyết pháp cầu đạo Phật.
One could also see bodhisattvas
who knew that phenomena are marked by tranquility and extinction,
each in his respective land
preaching the Law and seeking the Buddha way.
Bấy giờ cả bốn chúng,
Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng,
Hiện sức thần thông lớn,
Trong tâm đều hoan hỷ,
At that time the four kinds of believers
seeing the Buddha Sun Moon Bright
manifest his great transcendental powers,
all rejoiced in their hearts,
Các vị cùng hỏi nhau,
Đây là nhân duyên gì?
Đấng trời người tôn kính,
Vừa ra khỏi tam-muội,
Khen Bồ Tát Diệu Quang,
Ông là tai mắt đời,
Người người đều tin theo.
Có thể giữ kho pháp,
Những gì ta thuyết giảng,
Chỉ riêng ông rõ biết.
and each one asked his neighbor
what had caused these events.
The one honored by heavenly and human beings
just then arose from his samadhi
and praised Bodhisattva Wonderfully Bright, saying,
"You are the eyes of the world,
one whom all can take faith in and believe,
able to honor and uphold the storehouse of the Dharma.
The law that I preach-
you alone know how to testify to it."
Thế Tôn ngợi khen rồi,
Khiến Diệu Quang hoan hỷ,
Liền thuyết kinh Pháp hoa,
Trọn sáu mươi tiểu kiếp,
Không rời khỏi chỗ ngồi.
Pháp nhiệm mầu Phật thuyết,
Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Đều có thể thọ trì.
The World-Honored One, having bestowed this praise,
causing Wonderfully Bright to rejoice,
preached the Lotus Sutra
for fully sixty small kalpas.
He never rose from this seat,
and the supreme and wonderful Law that he preached
was accepted and upheld in its entirety
by the Dharma teacher Wonderfully Bright.
Phật thuyết kinh Pháp Hoa,
Khiến đại chúng hoan hỷ,
Rồi ngay trong ngày ấy,
Bảo khắp chúng trời, người:
After the Buddha had preached the Lotus,
causing all the assembly to rejoice,
on that very same day
he announced to the assembly of heavenly and human beings,
“Nghĩa thật tướng các pháp,
Đã vì chúng giảng thuyết,
Nay vào giữa đêm này,
Ta sẽ nhập Niết-bàn.
"I have already expounded for you
the meaning of the true entity of all phenomena.
Now when midnight comes
I will enter nirvana.
Hãy chuyên tâm tinh tấn,
Lìa xa thói phóng túng,
Cơ hội gặp Phật khó,
Trăm ngàn kiếp mới có.”
You must strive with all your hearts
and remove yourselves from indulgence and laxity,
it is very difficult to encounter a Buddha-
you meet one once in a million kalpas."
Hàng đệ tử Thế Tôn,
Nghe Phật nhập Niết-bàn,
Ai ai cũng bi thương,
Sao Phật chóng nhập diệt?
When the children of the World-Honored One
heard that the Buddha was to enter nirvana,
each one was filled with sorrow and distress,
wondering why the Buddha should so quickly seek extinction.
Bậc Thánh chủ Pháp vương,
An ủi vô số chúng:
“Như Ta diệt độ rồi,
Các người chớ lo sợ.
The sage lord, king of the Law,
comforted and reassured the countless multitude,
saying, "When I enter extinction
you must not be concerned or fearful!
Bồ Tát Đức Tạng đây,
Tâm đã rõ thông được,
Tướng thật pháp vô lậu,
Kế tiếp sẽ thành Phật,
Hiệu Tịnh Thân Như Lai,
Cũng độ vô số chúng.”
This bodhisattva Virtue Storehouse
has already fully understood in his mind
the true entity that is without outflows.
He will be next to become a Buddha,
bearing the name Pure Body,
and he too will save immeasurable multitudes."
Đêm ấy Phật diệt độ,
Như củi hết lửa tắt.
Phân chia Xá-lợi Phật,
Rồi dựng vô số tháp.
That night the Buddha entered extinction,
as a fire dies out when the firewood is exhausted.
They divided and apportioned his relics
and built immeasurable numbers of towers,
Tỳ-kheo, tỳ-kheo ni,
Nhiều như cát sông Hằng,
Lại càng thêm tinh tấn,
Để cầu đạo Vô thượng.
and the monks and nuns
whose number was like Ganges sands
redoubled their exertions,
thereby seeking the unsurpassed way.
Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Vâng giữ pháp tạng Phật,
Trong tám mươi tiểu kiếp,
Rộng thuyết kinh Pháp hoa.
This Dharma teacher Wonderfully Bright
honored and upheld the Buddha's storehouse of the Dharma
throughout eighty small kalpas,
broadly propagating the Lotus Sutra.
Tám vương tử con Phật,
Được Diệu Quang chỉ bày,
Vững vàng trong đạo Phật,
Rồi gặp vô số Phật,
Đều cung kính cúng dường,
Vâng theo tu hành đạo,
Tiếp nối đều thành Phật,
Lần lượt được thụ ký.
These eight princely sons
whom Wonderfully Bright converted
held firmly to the unsurpassed way
and were thus able to encounter innumerable Buddhas.
And after they had made offerings to these Buddhas
they followed them in practicing the great way
and one after the other succeeded in becoming a Buddha,
each in turn bestowing a prophecy on his successor.
Cho đến Phật sau cùng,
Hiệu là Phật Nhiên Đăng,
Là thầy các tiên nhân,
Độ thoát vô số chúng.
The last to become a heavenly being among heavenly beings
was named the Buddha Burning Torch.
As leader and teacher of seers
he saved immeasurable multitudes.
Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Lại có một đệ tử,
Thường ôm lòng biếng nhác,
Mê đắm đường danh lợi,
Tham cầu không biết chán,
Giao du các nhà giàu,
Tụng kinh rồi vất bỏ,
Quên mất không rõ nghĩa.
This Dharma teacher Wonderfully Bright
at that time had a disciple
whose mind was forever occupied with laziness and sloth,
who was greedy for fame and profit.
He sought fame and profit insatiably,
often amusing himself among clansmen and those of other surnames.
He threw away what he had studied and memorized,
neglected and forgot it, failed to understand it.
Vì nhân duyên như thế,
Nên tên là Cầu Danh.
Nhưng tạo các nghiệp lành,
Được gặp vô số Phật,
Cúng dường chư Phật rồi,
Vâng theo, tu hành đạo,
Đủ sáu ba-la-mật,
Nay gặp đức Thích-ca.
Because of this
he was named Seeker of Fame.
But he had also carried out many good actions
and thus was able to meet with innumerable Buddhas.
He made offerings to the Buddhas
and followed them in practicing the great way,
carrying out all the six paramitas,
and now he has met the lion of the Shakyas.
Sau này sẽ thành Phật,
Hiệu là Phật Di-lặc,
Rộng độ khắp chúng sanh,
Số nhiều đến vô lượng.
Hereafter he will become a Buddha
whose name will be Maitreya,
who will save living beings extensively
in numbers beyond calculation.
Phật xưa diệt độ rồi,
Cầu Danh chính là ông.
Còn Pháp sư Diệu Quang,
Nay chính là tôi đây.
After that Buddha passed into extinction,
that lazy and slothful one-he was you,
and the Dharma teacher Wonderfully Bright-
that was the person who is now I myself.
Tôi thấy Phật Đăng Minh,
Xưa phóng quang như thế,
Nên biết Phật ngày nay,
Sắp thuyết kinh Pháp Hoa.
I saw how the Buddha Torch Bright (Sun Moon Bright)
earlier manifested an auspicious portent like this.
And so I know that now this present Buddha
is about to preach the Lotus Sutra.
Tướng nay, điềm lành xưa,
Là phương tiện chư Phật.
Nay Phật phóng hào quang,
Giúp hiện nghĩa tướng thật.
The signs now are like those of the earlier auspicious portent,
this is an expedient means used by the Buddhas.
Now when the Buddha emits this beam of brightness
he is helping to reveal the meaning of the true entity of phenomena.
Chư vị nay nên biết,
Chắp tay một lòng chờ,
Phật sẽ ban mưa pháp,
Sung túc người cầu đạo.
Human beings now will come to know it.
Let us press our palms together and wait with a single mind.
The Buddha will rain down the rain of the Law
to fully satisfy all seekers of the way.
Người cầu quả Tam thừa,
Nếu như còn nghi vấn,
Phật sẽ giúp đoạn trừ,
Dứt sạch không còn nghi.
You who seek the three vehicles,
if you have doubts and regrets,
the Buddha will resolve them for you,
bringing them to an end so that nothing remains.
[1] Nguyên tác Hán văn là “大比丘眾萬二千人俱, 皆是阿羅漢 - đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu, giai thị A-la-hán” (chúng đại tỳ-kheo 12.000 vị, hết thảy đều là bậc A-la-hán). Tuy nhiên, kinh Chánh Pháp Hoa ở chỗ này nói là 1.200 vị tỳ-kheo: “比丘千二百, 一 切無著 - tỳ-kheo thiên nhị bá, nhất thiết vô trước”. Bản Anh ngữ dịch từ Phạn ngữ của H. Kern cũng nói là 1.200 vị: “twelve hundred monks, all of them Arhats” (1.200 vị tăng, tất cả đều là bậc A-la-hán). Lại xét trong chính bản dịch này, phẩm Phương tiện nói: “爾時大眾中有諸聲聞漏盡阿羅漢,阿若憍陳如等千二百人 - Nhĩ thời đại chúng trung hữu chư Thanh văn lậu tận A-la-hán, A-nhã Kiều-trần-như đẳng thiên nhị bá nhân…” (Bấy giờ trong đại chúng có các vị Thanh văn đã chứng A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, giống như ngài A-nhã Kiều-trần-như... cả thảy 1.200 vị.) (ĐCT, T9, 262, tr.6a, d.28-29) Tiếp theo, trong phẩm Thí dụ, ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: “是諸千二百心自在者,昔住學地 - Thị chư thiên nhị bá tâm tự tại giả, tích trụ học địa…” (Trong số 1.200 vị đạt tâm tự tại ở đây, thuở xưa khi còn ở bậc hữu học…) (ĐCT, T9, 262, tr.12b, d.3-4) Ngoài ra còn nhiều nơi khác trong kinh khi nhắc đến số A-la-hán cũng đều dùng số 1.200 vị, nhưng không có bất kỳ nơi nào khác nêu số lượng 12.000. Như vậy có thể kết luận rằng con số 12.000 ở đây là nhầm lẫn, nên phải điều chỉnh đúng là 1.200.
[2] A-nhã Kiều-trần-như (H. 阿若憍陳如, S. Ājñātakauṇḍinya), một trong 5 vị tỳ-kheo được Phật giáo hóa trước tiên tại vườn Lộc uyển. Các vị này đều đã từng tu khổ hạnh với đức Phật.
[3] Ma-ha Ca-diếp (H. 摩訶迦葉, S. Mahākāśyapa), cũng gọi là Đại Ca-diếp, một trong 10 đại đệ tử của Phật, được đức Phật khen ngợi là Đệ nhất Đầu-đà (頭陀第一).
[4] Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp (H. 優樓頻螺迦葉, S. Uruvilvā-kāśyapa), cũng gọi là Kỳ niên Ca-diếp (耆年迦葉). Ông là anh trưởng trong 3 anh em cùng từ bỏ phái ngoại đạo thờ lửa để dẫn tất cả đệ tử của mình về quy y theo Phật. Hai người em cũng được kể ra ở đây là Già-da Ca-diếp (H. 伽 耶迦葉, S. Gayā-kāśyapa) và Na-đề Ca-diếp (H. 那提迦葉, S. Nadī-kāśyapa)
[5] Xá-lợi-phất (H. 舍利弗, S. Śāriputra), một trong 10 đại đệ tử của Phật, cũng được gọi là Xá-lợi Tử (舍利子), Thân Tử (身子), trong kinh Tỳ-kheo Na-tiên gọi là Xá-lê-viết (舍犁曰). Xá-lợi-phất thông minh xuất chúng, từng theo học và thông suốt các luận giải ngoại đạo trước khi quy y Phật. Ngài được Phật khen ngợi là Đệ nhất Trí tuệ (智慧第一).
[6] Đại Mục-kiền-liên, tức Ma-ha Mục-kiền-liên (H. 摩訶目犍連, S. Mahā-maudgalyayāna), một trong 10 đại đệ tử của Phật, là bạn thân với Xá-lợi-phất từ trước khi xuất gia, cùng theo học ngoại đạo. Sau khi Xá-lợi-phất quy y Phật thì Mục-kiền-liên cũng quy y Phật. Ngài được Phật khen ngợi là Đệ nhất Thần thông (神通第一).
[7] Ma-ha Ca-chiên-diên (H. 摩訶迦旃延, S. Mahākātyāyana), một trong 10 đại đệ tử của Phật, từng theo học với tiên nhân A-tư-đà là người xem tướng cho thái tử Tất-đạt-đa lúc mới ra đời. A-tư-đà biết tuổi thọ của mình không còn đủ để được gặp Phật nên dặn dò Ca-chiên-diên sau này nên theo học với Phật. Ngài là người có tài biện luận khuất phục ngoại đạo, được đức Phật ngợi khen là Đệ nhất Luận nghị (論義第一).
[8] A-nậu-lâu-đà (H. 阿㝹樓馱, S. Aniruddha), thường gọi là A-na-luật, một trong 10 đại đệ tử của Phật. Ngài là người họ Thích, là em họ của Thái tử Tất-đạt-đa, đã xuất gia cùng lúc với nhiều vương tử khác trong dịp đức Phật quay về Ca-tỳ-la-vệ. Sau khi xuất gia, ngài tinh tấn tu tập, nhưng có lần quá mệt mỏi nên ngủ gục trong lúc Phật thuyết pháp, bị Phật quở trách. Từ đó ngài phát nguyện không ngủ, đến nỗi bị đau mắt rồi mù lòa. Ngài càng tinh tấn tu tập hơn nữa và chứng được thiên nhãn, nhìn thấy mà không cần mắt thịt, được đức Phật khen ngợi là Đệ nhất Thiên nhãn (天眼第一).
[9] Kiếp-tân-na (H. 劫賓那, S. Kapphiṇa), cũng gọi là Ma-ha Kiếp-tân-na (摩呵劫賓那). Ngài chỉ nghe biết đạo Phật rồi xuất gia tu hành nhưng chưa được gặp Phật. Vì thế, trên đường đi có lần ngài xin nghỉ nhờ trong nhà một người thợ làm đồ gốm, được ở chung phòng với Phật mà không biết, nhưng nghe Phật thuyết pháp liền giác ngộ, sau đó mới biết người thuyết pháp là Phật.
[10] Kiều-phạm-ba-đề (H. 憍梵波提, S. Gavāṃpati), Hán dịch là Ngưu Tích (牛跡) hay Ngưu Chủ (牛主), vì miệng ngài có thói quen nhóp nhép nhai suốt ngày giống như loài trâu bò nhai lại, được cho là do tập khí từ nhiều đời trước. Để tránh cho người đời khỏi nhìn thấy và chế giễu ngài rồi phải mắc tội, nên ngay trong thời Phật tại thế, ngài vẫn thường lên sống và tu tập thiền định trên cung trời Đao-lợi.
[11] Ly-bà-đa (H. 離婆多, S. Revata), là em của ngài Xá-lợi-phất. Kinh Tăng nhất A-hàm nói rằng ngài là người giỏi tọa thiền nhập định, luôn giữ tâm không điên đảo tán loạn.
[12] Tất-lăng-già-bà-sa (H. 畢陵伽婆蹉, S. Pilin-da-vatsa), Hán dịch là Dư Tập (惡口) hoặc Ác Khẩu (餘習), vì ngài có tập khí từ xưa chưa bỏ được nên nói năng thô lỗ, thường mắng nhiếc người khác nặng lời.
[13] Bạc-câu-la (H. 薄拘羅, S. Bakkula), Hán dịch là Thiện Dung (善容) vì ngài có dung mạo đoan nghiêm đẹp đẽ. Khi chưa xuất gia, ngài từng bị mẹ kế tìm cách giết hại 5 lần nhưng đều không thành. Sau khi xuất gia, suốt đời ngài không hề mắc phải bệnh tật gì và sống đến 160 tuổi.
[14] Ma-ha Câu-hi-la (H. 摩訶拘絺羅, S. Mahākauṣṭhila), Hán dịch là Đại Tất (大膝) hoặc Đại Thắng (大勝). Ngài là cậu của ngài Xá-lợi-phất, khi chưa xuất gia chính là Phạm-chí Trường Trảo, người uyên bác các luận giải ngoại đạo. Vì chuyên tâm học luận đến nỗi không có thời gian cắt móng tay, để dài thường xuyên nên gọi là “trường trảo”.
[15] Nan-đà (H. 難陀, S. Nanda), cũng gọi là Phóng ngưu Nan-đà (放牛難陀), vì trước khi xuất gia vốn là người chăn trâu. Khi vua Tần-bà-sa-la thỉnh Phật và tăng chúng an cư trong 3 tháng thì ngài cúng dường sữa đều đặn mỗi ngày. Vua thấy tâm thành nên cho phép ngài được gặp Phật. Ngài đem việc chăn trâu thưa hỏi, nhân đó Phật đã thu-yết kinh Phóng ngưu (佛說放牛經). Ngài kính phục nên xin được xuất gia tu học từ đó.
[16] Tôn-đà-la Nan-đà (H. 孫陀羅難陀, S. Sundara-nanda), là em trai cùng cha khác mẹ với thái tử Tất-đạt-đa. Ngài có dung nhan rất đẹp, đủ 30 tướng tốt, là người ưa thích nữ sắc, lại cưới người vợ rất đẹp là Tôn-đà-lợi (Sundarī). Sau khi xuất gia vẫn không quên được người vợ nên nhiều lần quay về nhà. Đức Phật dùng phương tiện chỉ ra cho thấy sự vô thường của thế gian, khiến ngài trừ được ái dục, từ đó tinh tấn tu hành.
[17] Phú-lâu-na Di-đà-la-ni tử (H. 富樓那彌多羅尼子, S. Pūrṇa-maitrāyaṇīputra), Hán dịch là Mãn Từ Tử (滿慈子), một trong 10 đại đệ tử của Phật, có tài biện luận, giỏi việc thuyết pháp, được Phật khen ngợi là Đệ nhất Thuyết pháp (說法第一).
[18] Tu-bồ-đề (H. 須菩提, S. Subhūti), Hán dịch là Thiện Hiện (善現) hoặc Không Sanh (空生), một trong 10 đại đệ tử của Phật. Ngài sinh trong nhà bà-la-môn, thông minh xuất chúng nhưng tính tình nóng nảy, sân hận. Sau được Phật giáo hóa tự biết lỗi lầm, sám hối, từ bỏ tánh xấu, sau chứng quả A-la-hán, được Phật khen ngợi là người thấu hiểu về nghĩa Không giỏi nhất, gọi là Đệ nhất Giải không (解空第一).
[19] A-nan, tức A-nan-đà (H. 阿難陀, S. Ānanda), Hán dịch là Khánh Hỷ (慶喜), là em họ của Thái tử Tất-đạt-đa, một trong 10 đại đệ tử của Phật và cũng là thị giả theo hầu bên Phật. Ngài giữ vai trò quan trọng nhất trong việc truyền lại kinh điển, vì có điều kiện nghe tất cả các kinh Phật thuyết cũng như có trí nhớ siêu việt để truyền lại không sai sót, được Phật khen ngợi là Đệ nhất Đa văn (多聞第一).
[20] La-hầu-la (H. 羅睺羅, S. Rāhula), là con trai của Thái tử Tất-đạt-đa, xuất gia nhân dịp Phật quay về thăm Ca-tỳ-la-vệ và trở thành sa-di nhỏ tuổi nhất khi đó. Về sau, ngài là một trong 10 đại đệ tử của Phật và được Phật khen ngợi là Đệ nhất Mật hạnh (密行第一).
[21] Nguyên tác là “眾所知識 - chúng sở tri thức”, chỉ đến việc nhiều người trong đại chúng đều nghe danh biết đến. Văn cú của ngài Trí Khải cũng đưa ra cách hiểu: “Nghe danh là tri, được gặp gỡ nhìn thấy là thức.” Như vậy, tri thức ở đây chỉ đến danh tiếng được đại chúng biết đến.
[22] Hữu học (H. 有學, S. śaikṣa) và vô học (H. 無學, S. aśaikṣa). Hữu học nghĩa là còn phải học tập; vô học là không còn gì phải học, vì đã đoạn trừ hết mọi sự nghi hoặc. Trong 4 thánh quả Tiểu thừa thì cả 3 quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm đều là hữu học, riêng quả A-la-hán là bậc vô học.
[23] Ma-ha Ba-xà-ba-đề (H. 摩呵波闍波提, S. Mahāprajāpatī), Hán dịch là Đại Ái Đạo (大愛道), di mẫu của Thái tử Tất-đạt-đa, em gái của Hoàng hậu Ma-da. Vì hoàng hậu qua đời chỉ 7 ngày sau khi sinh thái tử, nên bà là người thay thế nuôi dưỡng thái tử đến khi trưởng thành. Sau khi Phật thành đạo được 5 năm, vua Tịnh Phạn băng hà, bà và Da-du-đà-la cùng 500 phụ nữ khác cùng xin xuất gia tu tập và được Phật cho phép, trở thành những tỳ-kheo-ni đầu tiên. Bà cũng là người đầu tiên đứng đầu Ni giới trong đạo Phật. Bà nhập diệt trước khi Phật nhập Niết-bàn 3 tháng.
[24] Da-du-đà-la (H. 耶輸陀羅, S. Yaśodharā), vợ của Thái tử Tất-đạt-đa và là mẹ của La-hầu-la, xuất gia cùng lúc với bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề sau khi Phật thành đạo 5 năm.
[25] Nguyên tác dùng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (H. 阿耨多羅三藐三菩提, S. anuttara-samyak-saṃbodhi), Hán dịch là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (無上正等正覺), cũng tức là quả Phật.
[26] Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi (H. 文殊師利, S. Mañjuśrī), Hán dịch là Diệu Đức (妙德) hoặc Diệu Cát Tường (妙吉祥), được xem là bậc đệ nhất trí tuệ trong hàng Bồ Tát.
[27] Bồ Tát Quán Thế Âm (H. 觀世音, S. Ava-lokiteśvara), là vị Bồ Tát sẽ được nói đến trong phẩm Phổ Môn của kinh này.
[28] Bồ Tát Đắc Đại Thế (H. 得大勢, S. Mahā-sthāma-prāpta), cũng được gọi là Bồ Tát Đại Thế Chí. Trong Tịnh độ tông, Bồ Tát Đại Thế Chí và Bồ Tát Quán Thế Âm cùng với đức Phật A-di-đà được tôn xưng là Tây phương Tam thánh.
[29] Bồ Tát Thường Tinh Tấn (H. 常精進菩薩, S. Nityāyukta).
[30] Bồ Tát Bất Hưu Tức (H. 不休息菩薩, S. Ani-kṣiptadhura).
[31] Bồ Tát Bảo Chưởng (H. 寶掌菩薩, S. Ratnapāṇi).
[32] Bồ Tát Dược Vương (H. 藥王菩薩, S. Bhaiṣa-jyarāja).
[33] Bồ Tát Dũng Thí (H. 勇施菩薩, S. Pradānaśūra).
[34] Bồ Tát Bảo Nguyệt (H. 寶月菩薩, S. Ratnacandra).
[35] Bồ Tát Nguyệt Quang (H. 月光菩薩, S. Candraprabha).
[36] Bồ Tát Mãn Nguyệt (H. 滿月菩薩, S. Pūrṇacandra)
[37] Bồ Tát Đại Lực (H. 大力菩薩, S. Mahāvikrāmin).
[38] Bồ Tát Vô Lượng Lực (H. 無量力菩薩, S. Anantavikramin).
[39] Bồ Tát Việt Tam Giới (H. 越三界菩薩, S. Trailokyavikrāmin).
[40] Bồ Tát Bạt-đà-bà-la (H. 跋陀婆羅菩薩, S. Bhadrapāla), tức Bồ Tát Hiền Hộ (賢護菩薩).
[41] Bồ Tát Di-lặc (H. 彌勒菩薩, S. Maitreya), Hán dịch là Từ Thị (慈氏), là vị Bồ Tát Nhất sinh bổ xứ, sẽ thành Phật tiếp theo sau đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Hiện nay ngài đang thuyết pháp ở cung trời Đâu-suất.
[42] Bồ Tát Bảo Tích (H. 寶積菩薩, S. Ratnamakuṭa).
[43] Bồ Tát Đạo Sư (H. 導師菩薩, S. Susārthavāha).
[44] Thích-đề-hoàn-nhân (H. 釋提桓因, S. Śakra devānām indraḥ), cũng gọi là Đế-thích (帝釋) hay Thiên đế thích (天帝釋), là vị Thiên chủ ở cõi trời Đao-lợi.
[45] Tứ đại thiên vương (H. 四大天王, S. Caturmahārājakāyikās), cũng gọi Hộ thế tứ vương (護世四天王), là bốn vị trời ở 4 phương lưng chừng núi Tu-di, hộ trì Phật pháp và che chở chúng sinh trong 4 châu, bao gồm: Trì Quốc Thiên (H. 持國天, S. Dhṛitarāṣṭra) ở phương đông; Tăng Trưởng Thiên (H. 增長天, S. Virūḍhaka) ở phương nam, Quảng Mục Thiên (H. 廣目天, S. Virūpākṣa) ở phương tây và Đa Văn Thiên (H. 多聞天, S. Vaiśramaṇa) ở phương bắc.
[46] Phạm thiên vương (H. 梵天王, S. Sahāṃpati), là vị Thiên chủ ở cõi trời Sơ thiền thuộc Sắc giới, được xem là chủ thế giới Ta-bà.
[47] Đại Phạm Thi-khí (H. 尸棄大梵, S. Śikhin).
[48] Đại Phạm Quang Minh (H. 光明大梵, S. Jyotiṣprabha).
[49] Long vương (H. 龍王, S. nāgarāja), chúa loài rồng, một trong 8 bộ chúng.
[50] Tên các vị này lần lượt là: Nan-đà (H. 難陀, S. Nanda), Bạt-nan-đà (H. 跋難陀, S. Upananda), Sa-già-la (H. 娑伽羅, S. Sāgara), Hòa-tu-cát (H. 和修吉, S. Vāsuki), Đức-xoa-ca (H. 德叉迦, S. Takṣaka), A-na-bà-đạt-đa (H. 阿那婆達多, S. Anavatapta), Ma-na-tư (H. 摩那斯, S. Manasvin), Ưu-bát-la (H. 優鉢羅, S. Utpalaka).
[51] Khẩn-na-la (H. 緊那羅, S. kiṃnara), là một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là nhạc thần, được xem là thần phục vụ âm nhạc cho Thiên đế.
[52] Càn-thát-bà (H. 乾闥婆, S. gandharva), là một trong 8 bộ chúng, chỉ dùng hương thơm làm thức ăn nên được gọi là hương thần, cùng với khẩn-na-la phục vụ âm nhạc cho Thiên đế.
[53] A-tu-la (H. 阿修羅, S. asura), một trong 8 bộ chúng, được gọi là phi thiên vì có thần thông như chư thiên nhưng kém về phước đức. A-tu-la là loài nhiều sân hận, thường gây chiến tranh với chư thiên. A-tu-la được xếp vào một trong lục đạo, bao gồm: trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
[54] Ca-lâu-la (H. 迦樓羅, S. garuḍa), một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là ca-lâu-la điểu (迦樓羅鳥) hay kim sí điểu (金翅鳥) vì là loài chim lớn có cánh màu vàng. Do nghiệp lực nên loài này lấy loài rồng làm thức ăn.
[55] Vua A-xà-thế (H. 阿闍世王, S. Ajātaśatru), con vua Tần-bà-sa-la (H. S. Bimbisāra) và hoàng hậu Vi-đề-hy (H. 韋提希, S. Vaidehī). Tên của ông có nghĩa là “vị sinh oán” (未生怨), nghĩa là chưa sinh ra đã có sẵn mối oán cừu, vì khi còn trong bụng mẹ có một vị thầy đoán là sau này ông sẽ giết cha nên được đặt tên như vậy. Về sau quả nhiên ông giết vua Tần-bà-sa-la để soán ngôi. Do tội giết cha nên hối hận lo sợ, cuối cùng tìm đến đức Phật, nghe pháp được giác ngộ và từ đó trở thành một vị đại hộ pháp.
[56] Kinh Vô lượng nghĩa (無量義經), tuy được nhắc đến trong kinh Pháp Hoa này nhưng phải đến đời Tiêu Tề (479-502) mới được ngài Đàm-ma-già-đà-da-xá (曇摩伽 陀耶舍) Hán dịch. Hiện còn trong Đại Chánh tạng ở Tập 9, kinh số 276.
[57] Hoa mạn-đà-la (H. S. māndāra), một loại hoa cõi trời màu đỏ tươi, rất đẹp, khiến người nhìn thấy sinh tâm vui thích. Cùng loại hoa này nhưng lớn hơn gọi là ma-ha mạn-đà-la (摩訶曼陀羅華).
[58] Hoa mạn-thù-sa (H. 曼殊沙華, S. mañjūṣaka), một loại hoa cõi trời mềm mại, có màu trắng tươi nên cũng gọi là nhu nhuyến hoa (柔軟華) hay bạch viên hoa (白圓華), được chư thiên rải xuống để cúng dường Phật, trang nghiêm các đạo tràng khi thuyết pháp. Cùng loại hoa này nhưng lớn hơn gọi là hoa ma-ha mạn thù sa (摩訶曼殊沙華).
[59] Dạ-xoa (H. 夜叉, S. yakṣa), một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là dược-xoa (藥叉), là loài quỷ hung dữ, có thể ở trên mặt đất hoặc giữa không trung, có thể dùng uy thế làm hại con người nhưng cũng có khi theo bảo hộ Phật pháp, người tu tập Phật pháp.
[60] Ma-hầu-la-già (H. 摩睺羅伽, S. mahoraga), Hán dịch là đại mãng thần (大蟒神), là loài rắn thần rất lớn, được xếp vào một trong 8 bộ chúng.
[61] Phi nhân (H. 非人, S. amanuṣya): khi dùng với nghĩa rộng, chỉ tất cả các chúng sanh không phải loài người, như trời, rồng, dạ-xoa… Trong ngữ cảnh đã đề cập đến các loài khác như ở đây thì phi nhân chỉ các loài chúng sanh không phải loài người cũng không thuộc về tám bộ chúng.
[62] Tướng bạch hào (H. 白毫相, S. uṇṇa-lakkhaṇa), một trong 32 tướng tốt của Phật. Tướng này là một sợi lông màu trắng mọc ở vị trí giữa hai chân mày, nếu kéo ra sẽ rất dài nhưng để tự nhiên thì xoắn theo chiều về bên phải như hình xoắn ốc, màu trắng tươi và có thể phát ra hào quang. Mỗi khi đức Phật phóng chiếu hào quang từ tướng bạch hào này đều là một điềm lành báo trước điều tốt đẹp.
[63] Địa ngục A-tỳ (H. 阿鼻地獄, S. Avīci), Hán dịch là Vô gián (無間), nghĩa là không gián đoạn, vì tội nhân trong địa ngục này bị hành hình liên tục không gián đoạn, không có lúc nào được dừng nghỉ. Theo thế giới quan Phật giáo thì địa ngục A-tỳ là phần thấp nhất trong cả thế giới.
[64] Cõi trời A-ca-ni-trá (H. 阿迦尼吒天, S. Akaniṣṭha-deva), cũng gọi là cõi trời Hữu đỉnh (有頂天) là cõi trời cao nhất trong 18 cõi trời của Sắc giới. Do đó, trong phần có hình sắc của thế giới này thì đây là cõi trời cao nhất, vượt lên trên nữa là phạm vi của Vô sắc giới, không có hình sắc.
[65] Tức là các thế giới về phương đông được hào quang Phật soi chiếu.
[66] Chấn động theo sáu cách là hiện tượng xảy ra khi có một sự kiện cực kỳ quan trọng trong một cõi thế giới, chẳng hạn như khi đức Phật thành đạo, đức Phật nhập Niết-bàn v.v. Pháp Hoa Văn cú giải thích là bao gồm sáu cách: động (動 - chuyển động), khởi (起 - khởi lên), dũng (涌 - vọt lên), chấn (震 - chấn động), hống (吼 - phát tiếng kêu lớn), giác (覺 - khiến cho giác ngộ). Văn Cú Ký dẫn cách giải thích khác là động (動), dũng (踊), chấn (震), kích (擊), hống (吼), bộc (爆), và giải thích ý nghĩa chi tiết rằng động là rung động, dao động, khởi là từ thấp lên cao, dũng là từ chỗ thấp vọt mạnh lên cao, chấn là rung động có âm thanh phát ra, hống là phát ra âm thanh lớn có tiếng vọng lại, giác là khiến cho chúng sanh được giác ngộ. Ngoài ra, theo kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa (摩訶般若波羅蜜經), quyển 1, thì 6 cách chấn động là: 1. Phương đông vọt lên, phương tây chìm xuống; 2. Phương tây vọt lên, phương đông chìm xuống; 3. Phương nam vọt lên, phương bắc chìm xuống; 4. Phương bắc vọt lên, phương nam chìm xuống; 5. Bốn phương vọt lên, ở giữa chìm xuống; 6. Ở giữa vọt lên, bốn phương chìm xuống. (ĐCT, T8, 223, tr.217c, d.6-8)
[67] Nguyên tác là “吹大法螺 - xuy đại pháp loa”, chữ loa (螺) chỉ loại vỏ ốc rỗng được khoét lỗ để khi thổi phát ra âm thanh lớn và vang rất xa, tức là một loại tù và. “Pháp loa” được ví với việc âm thanh thuyết pháp vang dội khắp nơi, cũng như tiếng tù và lớn được thổi lên.
[68] Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai (H. 日月燈明如來, S. Candra-sūrya-pradīpa). Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm, quyển 5, Bồ Tát Di-lặc tự kể lại đã từng xuất gia tu học với Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh. (ĐCT, T19, 945, tr.128a, d.10-12)
[69] Đây là Thập hiệu (十號) của tất cả chư Phật, vì được dùng để nêu lên các phẩm tính mà tất cả các vị Phật đều đạt được. Có thể tạm kể ra như sau: 1. Như Lai (H. 如來, S. Tathāgata), phiên âm Đa-đà-a-già-đà (多陀阿伽陀); kinh Kim cang giải thích: “Không từ đâu đến, không đi về đâu, nên gọi là Như Lai.”; 2. Ứng Cúng (H. 應供, S. Arhat), phiên âm là A-la-hán, xứng đáng nhận sự cúng dường của người và chư thiên. 3. Chánh Biến Tri (H. 正遍知, S. Samyak-saṃbuddha), phiên âm là Tam-miệu tam-phật-đà (三藐三佛陀), có năng lực trí tuệ hiểu biết chân chánh và rộng khắp các pháp; 4. Minh Hạnh Túc (H. 明行足, S. vidyā-caraṇa-saṃpanna), sáng suốt (vidyā), tức có đủ tam minh (thiên nhãn minh, túc mệnh minh, lậu tận minh) và đạo hạnh (caraṇa) viên mãn. 5. Thiện Thệ (H. 善逝, S. Sugata), khéo vượt qua, tức dùng Nhất thiết trí đi trên đường bát chánh đạo, thể nhập Niết bàn. 6. Thế Gian Giải (H. 世間解, S. Loka-vid), rõ biết thế gian nên cũng rõ biết sự diệt mất thế gian và con đường ra khỏi thế gian. 7. Vô Thượng Sĩ (H. 無上士, S. Anuttara), là đấng vô thượng, không còn ai vượt lên cao quý hơn. 8. Điều Ngự Trượng Phu (H. 調御丈夫, S. Puruṣa-damya-sārathi), có đủ từ bi, trí tuệ, phương tiện để điều phục, chế ngự, khiến cho chúng sanh có thể đạt đến Niết-bàn. 9. Thiên Nhân Sư (H. 天人師, S. śāstā deva-manuṣyāṇāṃ), bậc thầy dạy, dẫn dắt chúng sinh trong cả hai cõi trời, người. 10. Phật Thế Tôn (H. 佛世尊, S. Buddha-bhagavat), bậc toàn giác, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, tôn quý nhất trong thế gian. Có nơi xếp chung hiệu thứ năm và thứ sáu thành một: Thiện Thệ, Thế Gian Giải, và tách hiệu thứ mười thành hai: Phật Thế Tôn; hoặc cũng có khi xếp chung Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ, hoặc Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu. Nhưng tất cả đều thống nhất là có 10 hiệu.
[70] Tứ đế, tức là Tứ diệu đế (H. 四妙諦, S: catvāri ārya-satyāni), chỉ 4 chân lý do đức Phật nhận ra và thuyết dạy, luôn đúng thật trong mọi thời gian và không gian. Vì là chân lý đúng thật nên cũng được gọi là tứ chân đế (四真諦) hoặc tứ thánh đế (四聖諦). Các chân lý này bao gồm: 1. Khổ đế (H. 苦諦, S. duḥkha-satya), chỉ ra sự thật rằng mọi trạng thái tồn tại của chúng sanh hiện nay đều là khổ, hay nói cách khác thì bản chất của chúng là khổ; 2. Tập đế (H. 集諦, S. samudaya-satya), là sự thật về nguyên nhân của khổ, như phiền não, nghiệp lực, các hành vi, tư tưởng, lời nói làm sanh khởi khổ; 3. Diệt đế (H. 滅諦, S. nirodha-satya), là sự thật về việc dứt sạch mọi nỗi khổ, thông qua chấm dứt nguyên nhân gây khổ bằng con đường tu tập; 4. Đạo đế (H. 道諦, S. mārga-satya), là con đường cụ thể để chấm dứt nguyên nhân gây khổ, tức là diệt khổ, cụ thể là Bát chánh đạo. Khổ đế và Tập đế chỉ ra mối quan hệ nhân quả trong thế gian, khổ đế không tự nhiên khởi sinh mà do những nguyên nhân được Tập đế chỉ ra. Diệt đế và Đạo đế chỉ ra mối quan hệ nhân quả xuất thế gian, vì khổ có thể được dứt trừ qua sự tu tập theo Đạo đế và khi khổ được dứt trừ thì Diệt đế hiện hữu. Tuy nhiên, giáo lý Tứ đế hướng đến dứt trừ sự khổ trong luân hồi, do vậy chỉ đưa đến Thánh quả Tiểu thừa, không thể rốt ráo đạt đến quả Phật.
[71] Nguyên tác dùng Bích-chi Phật (H. 辟支佛, S. pratyeka-buddha), tức là quả Duyên giác, cũng gọi là Độc giác (獨覺) khi giác ngộ vào thời không có Phật ra đời. Trong 3 thừa thì quả vị này được xem là Nhị thừa, Thanh văn là Tam thừa.
[72] Sáu ba-la-mật (H. 六波羅蜜, S. ṣaḍ-pāramitā), Hán dịch là lục độ (六度), là 6 pháp tu tập quan trọng của hàng Bồ Tát, giúp vượt qua bể khổ luân hồi nên gọi là “độ”, cũng dịch là “到彼岸 - đáo bỉ ngạn” (sang đến bờ kia). Sáu pháp này bao gồm: Bố thí ba-la-mật (H. 布施波羅蜜, S. dāna-pāramitā); trì giới ba-la-mật (H. 持戒波羅蜜, S. śīla-pāramitā); nhẫn nhục ba-la-mật (H. 忍辱波羅蜜, S. kṣānti-pāramitā); tinh tấn ba-la-mật (H. 精進波羅蜜, S. vīrya-pāramitā); thiền định ba-la-mật (H. 禪定波羅蜜, S. dhyāna-pāramitā); trí tuệ ba-la-mật (H. 智慧波羅蜜, S. prajñā-pāramitā).
[73] Nhất thiết chủng trí (H. 一切種智, S. sarvathā-jñāna), tức trí tuệ của Phật, là trí hiểu biết tất cả, thấy rõ được nhân quả của tất cả các pháp cũng như tất cả chúng sanh.
[74] Tam-muội Vô lượng nghĩa xứ (H. 無量義處三昧, S. Anantanirdeśapratiṣṭhāna-samādhi). “Vô lượng nghĩa xứ” nghĩa là chỗ y chỉ của tất cả các nghĩa, tức là thật tướng. Đức Phật chuẩn bị huyết kinh Pháp Hoa hiển bày thật tương nên nhập vào tam-muội này.
[75] Bồ Tát Diệu Quang (H. 妙光菩薩, S. Vara-prabhā).
[76] Niết-bàn vô dư (H. 無餘涅槃, S. nirupadhiśeṣa-nirvāṇa), phân biệt với Niết-bàn hữu dư (H. 有餘涅槃, S. so-padhi-śeṣa-nirvāṇa), cũng gọi là Vô dư y Niết-bàn (無餘依涅槃), chỉ Niết-bàn của chư Phật vì hoàn toàn không còn phụ thuộc thân tướng, chấm dứt hoàn toàn cả nhân và quả. Ngoài ra cũng phân biệt việc chấm dứt nhân quả Tiểu thừa là Niết-bàn hữu dư, chấm dứt nhân quả Đại thừa là Niết-bàn vô dư. Hàng Thanh văn, Duyên giác chỉ có thể đạt đến Niết-bàn hữu dư, không có khả năng đạt Niết-bàn vô dư.
[77] Bồ Tát Đức Tạng (H. 德藏菩薩, S. Śrīgarbha).
[78] Ở đây chỉ nêu 3 đức hiệu tức là lược nói, biểu trưng cho đủ 10 đức hiệu của chư Phật.