Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Điều bất hạnh nhất đối với một con người không phải là khi không có trong tay tiền bạc, của cải, mà chính là khi cảm thấy mình không có ai để yêu thương.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Tôi phản đối bạo lực vì ngay cả khi nó có vẻ như điều tốt đẹp thì đó cũng chỉ là tạm thời, nhưng tội ác nó tạo ra thì tồn tại mãi mãi. (I object to violence because when it appears to do good, the good is only temporary; the evil it does is permanent.)Mahatma Gandhi
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tu học Phật pháp »» Năm sự ác »»

Tu học Phật pháp
»» Năm sự ác

Donate

(Lượt xem: 6.442)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Văn học Phật giáo - Năm sự ác

Font chữ:

Phật gọi thế gian này là Trược Thế Ác Khổ, bởi vì thế gian này gồm có đủ năm thứ ác, năm thứ đau đớn khổ đau và năm điều thiêu đốt. Phật khuyên dạy chúng sanh nên bỏ ác, làm lành hầu lìa khổ được vui. Bỏ năm điều ác chính là gìn giữ năm giới cấm: không giết chóc, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nghiện ngập, mà đấy cũng chính là làm năm điều thiện! Vậy, bỏ ác làm lành chính là giữ gìn thân, ngữ, ý sao cho không phạm năm giới cấm.

Nói theo luật pháp thế gian, nếu ai tạo năm điều ác ấy, hiện đời phải bị luật pháp trị tội, thân gặp ách nạn, phải lãnh chịu năm sự đau đớn thống khổ. Nói theo luật nhân quả, nếu ai tạo năm điều ác ấy, trong đời vị lai phải lãnh chịu quả báo trong tam đồ, Phật gọi năm điều ác ấy là năm thiêu đốt. Năm điều đau đớn thống khổ trong hiện đời là hoa báo, năm điều thiêu đốt sau lúc lâm chung là quả báo. Vì sao Phật chỉ nói đến năm điều ác này? Vì thế nhân thường tạo năm điều ác này, nên Phật mới đặc biệt chỉ nêu lên năm điều ác này để chúng sanh biết mà xa lìa. Phật dạy, nếu muốn tránh tạo ra năm điều ác này thì phải khéo giữ gìn tâm đoan, ý chánh, tức là phải giữ ý niệm của mình thật thà, chân chánh, trung trực, chẳng nên nghĩ tưởng đến việc tà ác, xa lìa ba độc tham, sân, si. Chẳng nghĩ tưởng đến việc tà ác là ngay cả việc lầm lổi, tà ác của người khác cũng không nên nghĩ tưởng, bàn soạn đến, huống gì là tự mình nghĩ sanh ra những điều tà ác. Hiểu đến mức sâu xa hơn nữa, “tâm đoan, ý chánh” là tâm luôn hướng đến Bồ-đề, chẳng cầu bất cứ việc nào khác. Nếu có thể đoan chánh thân tâm như vậy, tự nhiên chẳng dám làm các điều ác; đó mới thật sự là điều thiện đức to lớn cùng tột. Do đó, bỏ ác chính là làm thiện, làm thiện chính là bỏ ác!

Phật nói, việc khai ngộ và giáo hóa chúng sanh trong các cõi khác thật là dễ dàng, nhưng riêng cõi Sa-bà này lại rất khó khăn. Vì sao? Vì trong các cõi phương khác có nhiều duyên thù thắng và thiện báo mạnh mẽ, riêng cõi Sa-bà này chẳng có hai thứ duyên thù thắng ấy, lại thêm trong cõi này có ngũ ác kịch khổ, nên việc khai ngộ và giáo hóa chúng sanh rất khó khăn. Hai thứ nhân duyên thù thắng mà Phật nói ở đây là gì? Chính là “tâm đoan ý chánh” và “không làm việc ác.” Người trong cõi Sa-bà tâm chẳng đoan, ý chẳng chánh, lại thường hay làm việc ác, nên Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mới thị hiện nơi đây để phá mê, khai ngộ, giáo hóa quần sanh, khiến cho chúng sanh bỏ ác tu thiện, diệt trừ thống khổ, xa lìa ác đạo. Phật hàng phục, giáo hóa tâm ý chúng sanh nhằm làm cho tâm chúng sanh nhập đạo, vâng giữ năm điều lành, thuận theo lời Phật dạy tu hành chánh đạo. Năm điều thiện ấy chính là ngũ giới: không sát sanh, không dâm dục, không trộm cắp, không vọng ngữ và không nghiện ngập. Phật nói, nếu thế nhân giữ được năm điều thiện hạnh này sẽ đặng nhiều phước đức. Phước đức có cả hai quả gần và xa: Quả gần là do trì ngũ giới nên trong đời hiện tại thân được yên ổn không khổ, quả xa là cuối đời này hay đời sau gặp được Phật Di Đà, sanh về Cực Lạc, quyết định chứng Niết-bàn.

· Trong năm điều ác, trước hết, Phật dạy về tội ác sát sanh. Cái mà người ta sợ nhất là chết, cái mà người ta quý nhất là sinh mạng. Do vậy, sát hại sinh mạng kẻ khác là điều ác lớn nhất trong các điều ác. Trong thế gian này, kẻ mạnh thường hay bức hiếp kẻ yếu, chúng sanh thay nhau gây thù, kết oán, phá hoại, tàn hại, sát thương, ăn nuốt lẫn nhau. Con người hay thú vật cũng đều là như thế! Như chim nuốt bọ ngựa, người lại giết chim; như rắn nuốt cóc, cóc lại ăn giun đất v.v... Con người cho đó là thuận với định luật sinh tồn tự nhiên, họ nói: “vật sanh ra là để cho con người dưỡng nhân!” Chúng ta hãy tự hỏi: Con người cũng là loài động vật thì tại sao lại phân ra vật với người, rồi tùy ý sát hại sanh mạng?

Phật nói, phần đông chúng sanh trong cõi này không tin đạo đức, chẳng biết làm thiện, lại còn làm ra đủ mọi điều ác, sát hại sanh mạng, nên đời sau phải chịu ương phạt như nghèo cùng, ăn xin cô độc, đui điếc câm ngọng, si ác điên cuồng v.v... Thế nhưng, ở trong đời này cũng có những người hiền minh trưởng giả, giàu sang phú quý, trí dũng tài đạt..., họ đều do ở trong đời quá khứ đã từng từ ái, tận hiếu, tu thiện, tích đức, nên mới đạt được những điều lành như thế! Mọi người trong chúng ta đều có thể thấy rành rành trước mắt những chuyện lành, dữ, họa phúc trong thế gian, làm ác phải lãnh chịu ác báo, nhân quả chẳng hề hư dối! Người làm ác, trước hết phải thọ quả báo nhẹ trong hiện đời như bị tù tội, nghèo cùng, ăn xin cô độc, đui điếc, câm ngọng, si ác, điên cuồng v.v..., đó chỉ là những loại ương phạt dễ thấy trong đời, có mấy ai biết rằng sau khi tuổi thọ dứt, còn có các nỗi khổ sở khác nặng nề hơn nữa, vừa mới thoát ra khỏi thân người liền khoác lên cái thân ngạ quỷ, súc sanh, biến dạng cải hình trong tứ sanh (noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh), sống đi chết lại vô lượng lần, cứ thế mà xoay vần mãi trong sáu đường, lãnh chịu sự khổ đau sầu thống cùng cực, chẳng biết làm sao mà thoát ra. Giống như luật pháp thế gian trừng trị tội phạm sát nhân, trước hết người ấy bị nhốt trong ngục tối, thân bị gông xiềng, chịu đựng các khổ lớn. Tối hậu lại bị các cực hình giết mất sanh mạng. Sau khi chết đi, liền bị đọa vào tam đồ, nên có địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú các loài, bò bay máy cựa v.v... Trong đó, địa ngục là chỗ khổ sở nhất, là đại cực hình. Lúc xả mạng, thức thứ tám, còn được gọi là A-lai-da thức, Tinh thức, hoặc Mạng tinh, sẽ làm vị chủ nhân quyết định chỗ mình sanh về, hễ chỗ nào nghiệp nặng nhất thì nó lôi ta vào trong đó, rồi tùy theo tội báo đã tạo tác mà sa đọa vào trong đường ác thú. Nếu tội quá nặng nề, liền bị hãm vào trong ngục vô gián, muôn kiếp khó ra. Nếu sanh trong tám đại địa ngục hay loài quỷ trường thọ thì mạng sống rất dài lâu. Nếu sanh làm các loài thiêu thân, phù du v.v… thì thọ mạng sống rất ngắn ngủi. Nếu sanh làm các loài vi khuẩn thì chết sống trong từng mỗi sát na. Trong các đường ác thú, vô lượng thọ mạng sai khác đều do túc nghiệp cảm vời. Trong đường lành coi sống lâu là phước, nơi nẻo ác coi sống lâu là họa lớn!

Những kẻ sát sanh đời đời sanh ra cùng một lúc, cùng một nơi với nhau, oan oan tương báo, người này giết hại người kia để báo đền nỗi oán hận. Chẳng hạn như kẻ bị giết vì muốn đòi nợ mạng ắt không ngừng theo đuổi kẻ oán đối, đôi bên phải đồng thời xuất hiện trong thế gian cùng một lúc, cùng một chỗ, mới mong báo oán nổi. Đời này người giết dê, tương lai người chết thành dê, dê chết thành người; lại như mèo chết thành chuột, chuột chết thành mèo v.v..., đời đời sanh cùng với nhau để đoạt mạng, đòi nợ lẫn nhau. Lại nữa, do kẻ đòi nợ phải trải qua thật nhiều đời để báo thù, họ kết thành kẻ oán, người thân, nợ này chưa trả hết, nợ khác lại sanh ra, chẳng biết lúc nào đền trả cho xong. Những ương ác đã tạo chưa đền trả hết nên cứ mãi xoay vần trong các đường ác, chẳng có lúc nào thoát ra khỏi, đau đớn không nói nổi nên lời. Ở trong trời đất, nghiệp vận tự nhiên là như thế đó! Nhân quả tất ứng tơ hào chẳng sai trật! Làm ác dẫu chẳng muốn chịu quả khổ, quả khổ vẫn tự đến. Tu thiện dẫu chẳng mong cầu quả vui, quả vui vẫn tự đến, khác nào như bóng theo hình, như tiếng vọng theo âm thanh. Kẻ dữ làm ác phải chịu quả báo, tuy quả báo chẳng ứng hiện ngay lập tức trong hiện tại, nhưng nhân quả chẳng dối, ắt trong đời sau sẽ phải chịu khổ báo.

· Kế tiếp, Phật nói về tội ác trộm cắp. Ðối với vật có chủ dù ít hay nhiều, nếu chẳng cho mà lấy thì đều là trộm cắp. Hạnh trộm cắp vốn bắt nguồn từ tam độc tham, sân, si. Các ác này hỗ trợ lẫn nhau thành ra tội trộm cắp! Trong kinh Phật nói, người tham dục keo kiết dễ sanh tâm trộm cắp. Những người có địa vị lợi dụng quyền thế lươn lẹo, dung túng thuộc hạ bắt muôn dân đút lót, đoạt ngang của người, vơ vét, tổn người lợi mình, hại nước, hại dân, tạo đủ các thứ ác nghiệp, chính là người trộm cắp. Đó là do nhà nước cầm quyền không sáng suốt, các quan lại và công chức không chánh trực, nên mới có những việc trộm cắp này xảy ra ngay trong chính quyền nội bộ. Ăn hối lộ đã thuộc về hạnh trộm cắp, huống hồ là còn hay ganh ghét đố kỵ người hiền, hãm hại người trung lương để bảo vệ, che lấp tội ác trộm cắp của mình. Kẻ đó ắt lời nói xảo ngụy chẳng trung, a dua để cầu tự lợi, phỉ báng người lương thiện, vu oan tội cho người lành, tâm khẩu bất nhất. Những kẻ lọc lừa, mưu mô, dối trá này thường hay khéo nói lời nịnh bợ cho đẹp lòng người, nhằm lung lạc ý người để làm chuyện gian trá. Những kẻ ác như thế nào chẳng cần biết đến tôn ty, thượng, hạ, nội, ngoại, thân, sơ; đối với ai họ cũng đều dối trá, lừa lọc cả.

Hai độc sân và si khiến tâm tham của con người càng thêm tăng trưởng. Ba ác tham, sân và si hỗ trợ lẫn nhau khiến tà dục càng thêm lừng lẫy, ham hố tài vật của người khác, chỉ muốn tom góp về cho riêng mình, biển dục sâu rộng chẳng biết chán đủ. Dẫu là tôn quý hay thấp hèn, dù là nghèo hay giàu, không ai lại chẳng mong tom góp, chộn rộn, bôn ba cầu cho được nhiều. Do tranh nhau lợi hại, tổn người ích mình, nên lúc nào cũng tính toán hơn thua lợi hại mà kết những nổi sân giận thành hận thù. Căm hận đến mức làm cho nhà tan, mạng mất, chẳng nề hà gì hết, chẳng chịu cẩn thận suy nghĩ nhân trước, quả sau. Trước chẳng nề hà việc làm và lời nói của mình đúng hay sai; sau lại chẳng quan tâm lời dạy dỗ, chê trách của các bậc hiền trí, cũng chẳng ngại quỷ thần thường luôn ngầm quán sát và ghi chép. Trước chẳng quan tâm đến tội lỗi nơi ba nghiệp thân-ngữ-ý, sau lại chẳng tính đến quả báo trong tương lai, người như thế chỉ mong tranh thắng lợi về mình, chỉ cốt để khoái ý, chẳng sợ cả hai bên cùng thua thiệt, tổn thương lẫn nhau, chẳng quản ngại hết thảy, cứ mặc sức tạo đủ các chuyện ác. Dẫu là kẻ giàu có nhưng vì lòng tham lam keo kiệt đã thành tánh, chẳng chịu đem tài vật ra để bố thí cho người khác mà chỉ thích giữ rịt cho riêng mình. Do tâm tham sâu nặng như thế nên trọn đời phải chịu khổ sở nhọc nhằn; cho đến khi chết đi cũng chỉ là một mình mình đến, một mình mình đi, chẳng mang theo được gì! Mọi thứ đều chẳng cùng đi theo lúc lâm chung, chỉ có mỗi cái nghiệp tùy thân cứ mãi theo đuổi bên mình như hình với bóng. Những nghiệp thiện hay ác đã tạo lúc sống và cái quả phước hay họa do nghiệp cảm thành chẳng hề lìa bỏ mình, cùng đi theo mạng căn đến chỗ mình sanh về; cho nên, đời sau mới có lúc sanh vào chỗ vui như trời, người, a-tu-la; hoặc có lúc phải sanh vào nơi khổ độc như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Lại nữa, người đời thường thấy kẻ khác làm thiện, không hâm mộ, bắt chước, mà lại sanh tâm ganh ghét, hủy báng, những người như vậy chẳng có thiện niệm lẫn thiện hạnh, trong bụng ôm ấp toàn là những ý nghĩ tranh đua, xâm đoạt của cải, đất đai của người khác, luôn tìm cách tổn người lợi mình, mong mỏi hưởng cái lợi của người khác để cung cấp cho bản thân mình. Đó cũng là phạm giới trộm cắp! Của bất nghĩa dễ dàng đạt được nên cứ mặc tình tiêu xài hoang đàng nên nhanh chóng tiêu hết, hoặc bị kẻ khác cướp đoạt mất hết, chẳng thể giữ được bền lâu. Những điều như vậy, thần minh đều rõ biết, rốt cuộc lúc chết bị sa vào đường ác, chịu khổ vô lượng. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Người ta sanh ra, có hai vị trời thường theo sát hai bên. Một vị tên là Ðồng Sanh, vị kia tên là Ðồng Danh. Hai vị trời ấy thường thấy người đó, nhưng người đó chẳng thấy được trời.” Ðồng Sanh Nữ ở bên vai phải chép điều ác đã tạo. Ðồng Danh Nam ở bên vai trái chép điều thiện đã làm. Hai vị trời này được gọi chung là thần minh. Vì có thần minh ghi chép những điều thiện ác của mỗi người, nên báo ứng chẳng hề sai trật. Cả hai nơi, bên trong là nội thức của chính mình và bên ngoài là thần minh, đều ghi chép những việc thiện ác của mình rành rõ như nhau thì làm sao mà chối cải với vua Diêm-La đây? Thôi đành phải theo ác nghiệp đã tạo mà xoay vần trong tam đồ ác khổ, nhiều kiếp khó thoát ra, nổi đau đớn này không làm sao mà kể xiết!

· Điều thứ ba là sự dâm ác. Dâm ác là nhân dẫn khởi những cái ác tham, sân, si. Chúng sanh do nương theo các nghiệp nhân hợp lại mà sanh ra trong thế gian này. Mỗi người đều có cộng nghiệp và biệt nghiệp. Do người này kẻ kia có cùng chung nghiệp báo nên sanh ra cùng một thời kỳ trong cùng một thế giới. Nhưng lại do biệt nghiệp của mỗi người đều khác nhau, nên hoặc sanh ra làm quyến thuộc, hoặc trở thành cừu địch cùng sanh ở một chỗ để đền ân báo oán. Trăm năm ngắn ngủi như chốc lát, vô thường vùn vụt, mạng người trong hơi thở, nháy mắt liền hết, nhưng thế nhân điên đảo, chẳng biết khổ, không, vô thường, vô ngã, chỉ ham cầu cái vui huyễn vọng như con thiêu thân đâm đầu vào lửa tự đốt cháy thân mình. Phật gọi họ là “những kẻ bất lương, thân tâm bất chánh, ôm lòng tà ác, thường tưởng dâm dục.” Dâm dục là phóng đãng, tham sắc, chẳng kể lễ nghĩa. Dâm dục là cái nhân dẫn khởi các ác tham, sân, si. Dâm chính là một trong mười điều ác, là gông cùm trói buộc chúng sanh. Dâm là cội nguồn tội lỗi sanh ra các nạn. Người đời do dâm dục mà mất mạng, tan nhà. Thậm chí, hết thảy chúng sanh đều do dâm dục mà bị sanh tử trong sáu đường thống khổ. Trong căn bản của sanh tử, dâm dục là bậc nhất. Vì thế, kinh dạy: “Sống dâm dục chẳng bằng chết trinh khiết.” Người xưa lại nói: “Trong vạn ác, dâm đứng đầu. Ðó là đường chết, không thể đi. Bạn cứ làm chuyện dâm dục thì cũng như đi vào đường chết.”

Trong năm giới của kẻ tại gia, Phật chỉ cấm tà dâm, nhưng trong mười giới của người xuất gia, Phật bảo phải đoạn hẳn dâm dục. Người xuất gia không được phạm vào hết thảy chuyện trai gái trong đời, đó đều là phá giới. Do vậy, người bỏ tục làm tăng lẽ đâu lại còn phạm giới dâm dục? Dâm dục tuy chẳng bức não chúng sanh, nhưng nó trói buộc chúng sanh trong sanh tử luân hồi nên vẫn coi là đại tội. Dâm dục là cội nguồn lưu chuyển sanh tử, là nhân duyên khiến chúng sanh xa lìa giải thoát, thì lẽ đâu ta vì tham đắm cái vui trong sát na mà phải chịu đại khổ trong bao kiếp? Bậc đại hiền bảo: “Trong lao ngục sanh tử, dâm làm gông cùm trói chặt hữu tình, là nạn khó thoát.” Luận Du Già ghi: “Trong các thứ ái, dục là nặng nhất. Nếu đối trị được nó, tự nhiên điều phục được các thứ khác; như chế ngự được kẻ mạnh mẽ thì những kẻ yếu hơn tự khuất phục. Mà dục pháp này có đến ba tội lỗi: Khổ mà tưởng như vui; chút ít ngọt ngào nhưng lắm tai hại; bất tịnh mà tưởng như là tịnh.” Kinh Ha Dục dạy: “Nữ sắc là gông cùm trong thế gian. Phàm phu tham luyến chẳng thể dứt bỏ nổi. Nữ sắc là tai họa lớn trong thế gian, bởi phàm phu cho đến chết chẳng thoát nổi nữ sắc. Nữ sắc là suy họa của thế gian. Phàm phu gặp phải thì không tai nạn nào lại không xảy đến!”

Khi lửa dâm dục nung nấu bên trong, khiến bụng dạ nóng nảy, tâm cuồng loạn dâng lên tới ngực, lại hiện rõ ra bên ngoài bằng những tánh cách dâm tà, phóng đãng, buông tuồng, lả lơi. Trong cuộc sống thế nhân có biết bao nhiêu chuyện tốt cần nên làm lại chẳng chịu làm, chẳng cầu tự lập, chẳng chịu chăm chỉ làm những việc chánh đáng, chẳng cầu xuất ly tam giới, chẳng biết cầu phước, cầu huệ, cầu sanh Tịnh Ðộ mà lại đi cầu dâm, làm cho phiền não dâng tràn đến đầy cả ngực. Cầu dâm sẽ dẫn đến những việc chẳng lành như lời Phật bảo: Người dâm dục thường hay kết giao tụ tập với bọn tà ác, dấy binh đánh nhau, công kích sát phạt, bức hiếp cưỡng đoạt. Những việc công hãm, cướp đoạt, giết chóc, đâm chém chính là tội lỗi do dâm dục gây ra! Trong lịch sử nhân gian có biết bao nhiêu chuyện xảy ra, như người ỷ vào oai lực để đe dọa, cướp đoạt tình cảm của người khác bằng oai thế, hoặc kẻ đem cả gian sang đất nước đánh đổi lấy nữ sắc làm cho muôn dân thống khổ. Ðấy đều là do lòng dâm ác tràn ngập đầy ngực và cũng chính là trộm cắp! Thế nhân làm đủ những việc trộm cắp, giết hại như thế chỉ cốt muốn chiếm đoạt hay làm vui lòng người mình yêu thương, nên dẫu cực thân làm bao nhiêu tội ác, vẫn lấy đó làm vui; đó là hậu quả của dâm dục! Do những điều ác như thế nên mắc vào cái vòng lao lý, phải lãnh chịu sự trừng phạt của người lẫn quỷ thần. Nếu làm điều ác công khai thì bị vướng vào sự trừng phạt của người đời và quan quyền, người người đều chán ghét, luật pháp trừng trị, tai ương khổ nạn dồn dập. Nếu làm điều ác kín đáo thì bị vướng vào sự soi xét của cõi âm, thần minh và chư thiên đều thấy biết rành rõ và âm thầm ghi chép. Kẻ tạo tội ác ấy mong chi thoát khỏi sự trừng phạt của quỷ thần? Bởi thế nên bị rơi vào ba đường ác, vô biên khổ não, xoay vần trong đó, nhiều kiếp khó ra, đau không kể xiết!

· Thứ tư là tội ác vọng ngữ. Vọng ngữ là lời lẽ nghịch tâm, sai vạy, chẳng đúng với sự thật, chẳng thấy dám nói thấy, thấy nói chẳng thấy. Vọng ngữ thốt ra là do từ cái tâm bất tịnh muốn dối gạt người, che giấu sự thật, nói ra chuyện khác tạo thành khẩu nghiệp. Vọng ngữ được phân ra làm ba thứ loại khác nhau; đó là lưỡng thiệt, ác khẩu và thêu dệt. Lưỡng thiệt còn gọi là nói lưỡi đôi chiều, lời nói làm khích động ly gián, hý lộng thị phi, khiến cho người này kẻ kia đấu loạn với nhau, làm người bị tổn hoại, phá hòa hợp tăng. Ác khẩu còn gọi là thô ác ngữ vì đó là những lời nói thô ác thốt ra từ miệng làm người khác buồn tức, đau khổ. Thêu dệt là tà ngôn bất chánh giống như các sắc pha trộn bóng bảy nhằm mê hoặc người nghe. Hành Cơ Bồ-tát nói: “Con cọp lỗ miệng hại người, gươm lưỡi đoạt mạng. Nếu cái miệng giữ được như cái mũi thì chết đi chẳng lo tai vạ gì!” Người giữ được cái miệng im lặng như lỗ mũi mới khỏi sanh ra các họa hại; thế mà con người lại thường thích phạm tội vọng ngữ, chẳng đoái hoài quả báo mai sau, ấy là do vọng nghiệp chất chứa sâu nặng, hạt giống vọng nghiệp trong tạng thức rất nhiều, nên cứ gặp trần cảnh liền phát động, tạo nên lời dối trá.

Khi xưa, lúc Đức Phật còn là một thái tử, tên Tất Đạt Đa, kết hôn cùng công chúa Da Du Đà La, sau khi Thái Tử xuất gia, công chúa hạ sanh một người con trai tên là La Hầu La. Lúc nhỏ, La Hầu La đã theo Phật xuất gia làm chú tiểu và thường ở bên cạnh Phật học tập. La Hầu La thường hay tinh nghịch, thích nói dối gạt người làm trò vui. Có lần có người hỏi: “Chú có biết Đức Phật bây giờ ở đâu không?” Mặc dầu La Hầu La biết Phật ở phòng bên trái, nhưng cố tình chỉ tay bên phải và nói: “Đức Phật ở bên kia.” Khi người ta bị mắc lừa thì La Hầu La thích chí lắm, lấy đó làm trò vui. Sau đó, có người mách bảo Phật chuyện này, Phật liền cho gọi La Hầu La vào để răn dạy. La Hầu La thấy nét mặt nghiêm nghị của Phật, không dám nói một tiếng nào, vội vả bưng chậu nước cho Phật rửa chân, chờ Phật chỉ dạy. Sau khi rửa chân xong, Phật bảo La Hầu La: “Bây giờ, con uống nước trong chậu ấy đi.” La Hầu La giật mình, thưa Phật: “Phật vừa dùng nước này rửa chân. Nước này dơ rồi làm sao con uống được.” Đức Phật dạy: “Khi con nói láo, miệng của con cũng dơ như nước trong chậu này. Con không muốn uống nước dơ này cũng như người khác không muốn nghe lời nói láo của con.” La Hầu La nghe xong, đem chậu nước ra đổ. Sau đó, Đức Phật lại bảo: “Bây giờ, con đã đổ hết nước dơ trong chậu rồi, con hãy dùng chậu này để đựng thức ăn của con đi.” La Hầu La nghe lời Phật bảo, rất lúng túng và nghĩ thầm: “Mặc dù nước dơ đã đổ ra hết rồi, nhưng chậu này còn rất dơ, đâu thể dùng để đựng thức ăn được chứ.” Phật biết ý nghĩ của La Hầu La nên dạy: “Khi con nói láo, miệng của con cũng dơ như chậu này. Con hãy suy nghĩ xem có ai lại lấy vật dơ để đựng đồ sạch bao giờ?” Từ câu chuyện này ta thấy, Đức Phật không hài lòng đối với người vọng ngữ, nói láo gạt gẫm người khác. Đức Phật nói, vọng ngữ có mười thứ tội. Những gì là mười? Một là hơi miệng hôi thối; hai là thiện thần tránh xa, phi nhân được dịp làm hại; ba là tuy có lúc nói thật người khác cũng chẳng tin nhận; bốn là khi người trí bàn soạn chẳng tham dự được; năm là thường bị phỉ báng, tiếng xấu xa đồn khắp thiên hạ; sáu là người khác chẳng kính trọng, tuy có dạy dỗ, ra lệnh người khác, họ cũng chẳng tuân theo; bảy là thường hay ưu sầu; tám là tạo thành nhân duyên của nghiệp phỉ báng; chín là khi thân hoại mạng chung sẽ đọa địa ngục; mười là nếu được thoát ra khỏi địa ngục, sanh làm con người, nhưng thường bị người đời phỉ báng. Chúng ta thấy ác nghiệp vọng ngữ sanh ra lắm thứ ương họa như thế, lúc chết lại bị đọa vào địa ngục. Cho nên, Phật thường luôn nhắc nhở, khuyên răn, phải dè chừng, chớ nên khinh thường lỗi vọng ngữ.

Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật dạy, thế nhân phạm tội vọng ngữ là do thường hay sanh lòng ganh ghét kẻ hiền, phá hoại hiền minh, bất hiếu cha mẹ, coi nhẹ sư trưởng, đối bạn chẳng tin, khó đặng thành thật, tự cao tự đại, tự cho hiểu đạo. “Ganh ghét kẻ hiền” là ác khẩu gây ra tội lưỡng thiệt. “Phá hoại hiền minh” là vọng ngữ. “Bất hiếu mẹ cha, coi nhẹ sư trưởng” cũng là ác khẩu, tạo tội ác nghịch. “Đối bạn chẳng tin, khó đặng thành thật” là bất trung, tạo thành tội vọng ngữ bậc thượng. “Tự cao tự đại” tạo ra ác khẩu. “Tự cho hiểu đạo” là nói đôi chiều, nói lời thêu dệt. Nếu chưa đắc thánh đạo mà tự bảo ta đã đắc thánh đạo thì đã phạm tội đại vọng ngữ giới, sẽ phải chịu lấy tội báo nặng hơn hết thảy các khẩu nghiệp khác. Lại nữa, vì muốn người khác kính sợ, coi mình là chủ tể, là người cầm đầu, muốn ai nấy đều nghe theo lệnh của mình, chỉ biết phục tùng mình, nên miệng chuyên nói lời ly gián, chia rẽ, phá hoại sự hòa hợp của người khác.Cũng vì muốn người khác kính sợ mình, nên bên ngoài thường hay làm bộ, làm tịch, tỏ vẻ đạo đức, nhưng bên trong lại ôm lòng tà ác, mưu mô. Cái tội mạn này đều thuộc về tư hoặc, nếu đem kết hợp với ba độc thì đều có đủ các thứ tham mạn, sân mạn và si mạn. Loại người này thường hay cậy vào địa vị, oai thế của mình sanh lòng kiêu căng, ngã mạn, chẳng biết hổ thẹn, chẳng tự răn dè, kiêng nể. Đối với hạng người ngã mạn này, Phật khó bề giáo hóa, hàng phục tâm ý điên đảo của họ. Những người hoành hành các điều ác ấy nhất thời là do phước đức đời trước giúp cho họ, nay họ có địa vị, phẩm chức, trí tuệ, nên mặc sức tạo ác. Thế nhưng, khi nghiệp lành đời trước hết sạch, thân không còn nơi nương dựa nữa, liền gặp nhiều ách nạn, lãnh chịu nhiều điều đau khổ bao vây. Thêm nữa, thần minh đem tội lỗi của kẻ ác ấy ghi vào trong sổ ghi án, sau đó trình báo với vua Diêm-La. Lúc xả bỏ thân người, liền bị quỷ thần chộp nắm, cùng đường bí lối, chẳng có chỗ trốn chạy, rốt cuộc bị thần thức của chính mình lôi mình vào trong lửa cháy, vạc nước sôi nơi địa ngục, chịu khổ bị nung đốt, thân tâm tan nát, thần hình khổ cực. Ngay lúc đó, dẫu có hối hận cũng chẳng làm gì được!

Trong kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni có ghi rằng: Khi ấy, tại cõi trời Đao Lợi, có một vị thiên tử tên là Thiện Trụ, ngự tại cung báu lớn, đang cùng với các thiên nữ dự cuộc âm nhạc ca múa vui đùa hưởng lạc, bổng nhiên giữa hư không có tiếng gọi bảo: “Thiện Trụ thiên tử! Bảy hôm nữa, ông sẽ hết phước trời, xả báo thân, đọa xuống cõi Diêm Phù Đề, bảy lần làm cầm thú, thường ăn đồ nhơ uế. Kế đó lại đọa vào địa ngục, chịu đủ các sự khổ trải qua nhiều kiếp mới được làm người. Tuy được thân người, nhưng lại đen lùn, thô xấu, mù cả đôi mắt, các căn không đủ, hơi miệng thường hôi hám, nghèo khó hèn hạ, hằng thiếu ăn mặc, mọi người đều gớm ghét, lánh xa.” Thiện Trụ thiên tử nghe lời ấy kinh hoàng tột độ, lông tóc dựng đứng, ôm lòng sầu muộn, ông vội đến chỗ Thiên Đế quì xuống, than khóc thuật lại việc trên. Thích Đề Hoàn Nhơn nghe xong, rất kinh ngạc, tự suy nghĩ: “Thiện Trụ thiên tử đời trước tu phước gì, được sanh lên cõi trời hưởng sự vui thắng diệu nhiều năm? Lại kiếp xưa tạo nghiệp nhân chi mà sau khi hết thiên phước, phải chịu bảy lần làm cầm thú, rồi đọa vào địa ngục, khi được làm thân người, đôi mắt mù lòa, thọ đủ điều xấu ác?” Nghĩ như thế rồi, Thiên Đế liền nhiếp tâm vào định, dùng thiên nhãn xem thấy Thiện Trụ thiên tử ở cõi trời mạng chung, liền lần lược bị đọa bảy kiếp là cầm thú như heo, chó, chồn, khỉ, rắn độc, kên kên, chim quạ, thường ăn những đồ nhơ uế, hôi thối. Thiên Đế lại suy nghĩ: “Thiên nhãn của ta chỉ thấy biết một ít phần, không thể hiểu được những nghiệp nhân sâu xa. Duy chỉ có Đức Như Lai là bậc Chánh Biến Tri mới có thể thấu suốt tất cả nhân quả thiện ác. Duy chỉ có Đức Thế Tôn là đấng Đại Từ mới có thể cứu vớt Thiện Trụ thiên tử thoát khỏi vòng khổ độc.” Suy nghĩ xong rồi, Ngài hướng dẫn Thiện Trụ thiên tử cùng chư thiên bay xuống vườn Thệ Đa Lâm Cấp Cô Độc gặp Phật, xin Đức Thế Tôn từ bi cứu vớt cho Thiện Trụ thiên tử được thoát vòng khổ ách.

Đức Thế Tôn bảo vua trời Đế Thích, trong vô lượng kiếp về trước, có một quốc gia tên Ba La Nại, trong nước đó có người Bà La Môn nghèo chỉ sanh được một con trai rồi qua đời sớm. Cậu bé ở với mẹ đến khi khôn lớn, được giao cho việc nông tác ngoài đồng. Bà mẹ ở nhà tảo tần lo thức ăn mỗi ngày đem ra ruộng cho con. Một hôm, cơm nước đưa đến trễ, đứa con đói khát, sanh lòng hờn giận, dùng lời ác độc mắng rằng: “Mẹ tôi còn thua loài súc sanh! Tôi thấy mấy con heo, chó, chồn, khỉ, rắn, kên kên, quạ, còn biết thương lo cho con của nó. Tại sao bà ấy để cho tôi đói khát mà không đem cơm nước đến?” Do lòng đợi chờ hờn giận, đứa con nói ra những lời như thế ba lần. Giây lát sau bà mẹ với dáng điệu vội vã đem cơm nước tới và nói nhiều lời an ủi khiến cho con vui mừng hết cơn buồn giận. Đứa con vừa ngồi xuống sắp dùng cơm, bổng thấy giữa hư không có vị Bích-chi Phật hình tướng sa môn bay từ phương nam qua phương bắc. Người con thấy rồi, sanh lòng kính ngưỡng, đứng lên chắp tay cúi đầu đảnh lễ, thỉnh vị Bích-chi Phật giáng lâm. Bích-chi Phật nhận lời thỉnh cầu, từ từ đáp xuống. Đứa con vui mừng, trải tranh trắng làm tòa ngồi, dâng hiến hoa sạch đẹp, giảm phần ăn của mình đem cúng dường vị Sa môn. Sau khi thọ thực xong, vị Bích-chi Phật vì đứa con này mà nói pháp yếu khiến cho người con được vui mừng. Về sau người con xuất gia, làm chức Trị Sự. Lúc ấy có người Bà La Môn xây cất tăng xá vừa xong, ngày khánh thành khách tăng hội đến, có thí chủ đem nhiều thực phẩm cúng dường. Ông Trị Sự hiềm khách tăng làm phiền rộn nên không đem thức ăn ra thết đãi. Mấy vị khách tăng hỏi: “Những thức ăn đó là của đàn việt cúng dường hiện tiền tăng, sao không thấy dọn ra?” Ông Trị Sự nóng tánh liền cả tiếng mắng rằng: “Bộ mấy ông đui mù hết sao? Có tô du và sữa đâu mà bảo tôi cất giấu? Nếu muốn đòi thêm, chỉ có phân và nước tiểu cho các ông ăn mà thôi!”

Đức Phật bảo Đế Thích, đứa con của người Bà La môn nghèo đó chính là Thiện Trụ thiên tử hiện nay. Do kiếp trước hờn giận, dùng lời ác độc gọi bảy tên loài cầm thú mắng mẹ nên phải chịu bảy phen làm cầm thú. Do lúc làm Trị Sự thốt ra những lời nhơ uế mắng chửi chư tăng nên cảm lấy tội nghiệp thường ăn đồ bất tịnh. Do bỏn xẻn giữ riêng thức ăn của hiện tiền tăng nên bị quả báo địa ngục và chịu nghèo hèn thô xấu trong kiếp người. Do mắng chư tăng là đui mù nên bảy trăm đời phải bị mù đôi mắt, sống trong cảnh tối tăm chịu nhiều khổ não. Những tội nghiệp như thế đã có nhân, tất phải trả quả, ảnh hưởng không tiêu mất. Thiện Trụ thiên tử được hưởng sự vui thắng diệu ở cõi trời là do kiếp trước trải tòa, dâng hoa, cúng dường thức ăn cho vị Bích-chi Phật, và nhờ sức ảnh hưởng của sự nghe Chánh pháp. Lại do nhờ công đức đời trước chắp tay ngửa lên hư không hết lòng kính thỉnh, cúi đầu đảnh lễ vị Bích-chi Phật, nên được nghe giữa hư không có tiếng mách bảo cho biết trước hậu hoạn sắp xảy để thành tâm sám hối. Thiện Trụ thiên tử nghe lời Phật dạy, biết nghiệp mình đều có túc nhân, hết sức ăn năn tự trách. Ông gieo mình đảnh lễ trước Phật, tỏ bày tội lỗi, cầu xin sám hối, thương khóc, sa nước mắt như mưa, huyết lệ rơi ứ đọng nơi chiếc khăn trong giỏ đựng hoa, chết ngất hồi lâu mới tỉnh lại.

Đức Phật bảo Đế Thích và Thiện Trụ thiên tử: “Trong mười nghiệp ác, khẩu nghiệp rất mãnh liệt, phải biết lời ác còn quá hơn lửa dữ. Lửa dữ chỉ đốt tiêu tài sản của báu ở thế gian. Lửa giận ác khẩu chẳng những đốt hết thất thánh tài và tất cả công đức xuất thế mà còn chiêu cảm ác báo về sau. Thiện Trụ chỉ vì nóng giận mắng mẹ và chư tăng mà tổn bớt phước trời, phải chịu thân cầm thú và địa ngục; cho nên, đối với cha mẹ và chư tăng phải nên tôn trọng cung kính cúng dường, dùng lời dịu dàng khen ngợi, thường nghĩ đến ân đức, chớ không nên khinh hủy. Lòng từ ái giữa trần gian chỉ có cha mẹ, ruộng phước trong ba đời không chi hơn chúng tăng. Nếu cúng dường các bậc chân tăng hiền thánh thì công đức không mất, muốn cầu pháp xuất thế sẽ gặp thiện duyên có thể thành đạo. Chẳng nên đối với chúng tăng vội thốt lời khinh hủy! Còn cha mẹ công sanh dưỡng rất khó nhọc, mười tháng cưu mang khổ nặng, ba năm bú sữa, mớm cơm. Trải đủ sự lo lắng gian lao, nuôi con khôn lớn, dạy dỗ, cho học hành, mong con được thành lập, tài đức hơn người. Nếu con xuất gia, lại mong cho con đắc đạo, thoát vòng sanh tử. Ân niệm ấy cao rộng như biển trời, khó đền trả. Vì thế, ta đã bảo A Nan: Nếu có người vai bên trái cõng cha, vai bên mặt cõng mẹ, đi quanh núi Tu Di trăm ngàn vòng, máu chảy ngập cả hai bàn chân, còn chưa thể báo công ơn sanh dưỡng, huống chi lại khởi niệm hờn giận, buông lời khinh mắng cha mẹ mình ư!” Đức Thế Tôn nhìn Thiện Trụ Thiên Tử an ủi bảo rằng: “Ông nên chớ quá lo buồn thương khóc. Ta có pháp môn tên là Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni, ông trì chú này tất sẽ thoát khỏi vòng khổ ách, trừ sạch tội ngũ nghịch, thập ác, lìa tất cả sự khổ nạn trong cảnh Diêm ma, bàng sanh, ngạ quỷ, địa ngục v.v...” Nói xong, Đức Phật đọc Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni Thần Chú cho Thiện Trụ và tất cả đại chúng cùng nghe:

“Amo bhagavate trailokya prativiśiṣṭaya buddhāya bhagavate.
Tadyathā, om, viśodhaya viśodhaya, asama-sama
Samantāvabhāsa-spharana gati gahana svabhāva viśuddhe,
Abhiṣiňcatu mām. Sugata vara vacana amṛta abhiṣekai mahā mantra-padai.
Āhara āhara āyuh saṃ-dhāraṇi. Śodhaya śodhaya gagana viśuddhe.
Uṣṇīṣa vijaya viśuddhe sahasra-raśmi sam-codite.
Sarva tathāgata avalokani ṣaṭ-pāramitā-paripūrani.
Sarva tathāgata mati daśa-bhūmi prati-ṣṭhite.
Sarva tathāgata hṛdaya adhiṣṭhānādhiṣṭhita mahā-mudre.
Vajra kāya sam-hatana viśuddhe.
Sarvāvaraṇa apāya-durgati pari viśuddhe, prati-nivartaya āyuh śuddhe.
Samaya adhiṣṭhite. Maṇi maṇi mahā maṇi.
Tathatā bhūta-koṭi pariśuddhe. Visphuṭa buddhi śuddhe.
Jaya jaya, vijaya vijaya. Smara smara, sarva buddha adhiṣṭhita śuddhe,
Vajri vajragarbhe vajram bhavatu mama śarīram.
Sarva sattvānām ca kāya pari viśuddhe. Sarva gati pariśuddhe.
Sarva tathāgata siñca me samāśvāsayantu.
Sarva tathāgata samāśvāsa adhiṣṭhite.
Budhya budhya, vibudhya vibudhya,
Bodhaya bodhaya, vibodhaya vibodhaya samanta pariśuddhe.
Sarva tathāgata hṛdaya adhiṣṭhānādhiṣṭhita mahā-mudre svāhā.”

· Điều ác thứ năm trong trong ngũ khổ, ngũ thống, ngũ thiêu là nghiện ngập. Điều ác này gồm đủ cả ba nghiệp ác nơi thân là sát sanh, trộm cắp, tà dâm và bốn nghiệp ác nơi miệng (lưỡng thiệt, ác khẩu, thêu dệt, vọng ngữ). Vì sao chỉ nghiệp ngập mà lại sanh ra nhiều tội ác đến thế? Bởi vì nghiện ngập là nguyên nhân sanh ra các thứ thối hư tật xấu khác, khiến cho con người mất đi hạt giống trí huệ Phật, trở thành loạn tánh. Nghiện ngập bao gồm các lỗi tiêu biểu khác như uống rựu, bài bạc, xì ke ma túy, hành dâm, si mê v.v... Trên lẽ thật, tham đắm ngũ dục tài, sắc, danh, thực, thụy cũng chính là một thứ nghiện ngập khó dứt bỏ. Trong ngũ giới, Phật đặc biệt chỉ nêu lên lỗi uống rượu để làm đại biểu chung cho hết thảy các lỗi ham mê khác gây ra cả ba nghiệp ác tham, sân, si nơi ý. Vì sao nghiện ngập lại là tội ác tham, sân, si nơi ý? Vì ham mê chè chén, chính là tham độc. Say rồi dễ nóng tánh, đó là sân độc. Rượu khiến cho thần trí hôn ám, uống quá độ thậm chí bất tỉnh nhân sự, chính là si độc. Người đời có câu “rượu vào loạn tánh,” nghĩa là rượu có khả năng làm cho tâm ý và bổn tánh lương thiện của con người bị mê loạn, khiến con người tạo ác. Bởi thế, chỉ riêng một tội uống rựu thôi mà đã bao gồm đủ cả ba điều ác nơi ý nghiệp, thì đừng nói chi là phạm đến bốn lỗi tứ đổ tường: uống rựu, bài bạc, xì ke ma túy và hành dâm.

Chỉ nói về lỗi uống rượu thôi mà đã thấy có mười cái hại: vẻ mặt xấu ác, yếu sức, mắt nhìn chẳng rõ, hiện ra vẻ nóng giận, tổn hoại nghề nghiệp mưu sinh, tăng tật bịnh, tăng thêm tranh chấp cãi cọ, không còn tiếng tăm, trí huệ kém, khi mạng chung sẽ đọa trong ba ác đạo. Ngoài ra, người nghiện rựu chỉ cốt muốn được an nhàn tấm thân nên trong tâm thường hay do dự, phóng dật, ỷ lại, biếng nhác. Ngay cả những công việc cần phải làm để mưu sinh hằng ngày họ còn không muốn làm, huống là chịu làm thiện, tu thân sửa nghiệp. Người say ác chẳng chịu siêng tu chánh nghiệp, sửa chửa thân tâm của mình, đối với lời răn dạy của cha mẹ thường hay chống trái phản nghịch, hỗn hào, hung bạo, láo xược. Cha mẹ có con như vậy, coi như là oan gia, chẳng bằng không con. Ðứa con ác ôn, bội bạc từ ân của cha mẹ, trái nghịch lễ nghĩa như thế, đối với ân đức của cha mẹ hoàn toàn chẳng báo đáp mà lại còn phóng túng du đãng, tự tung tự tác. Đấy là do hậu quả của việc đam mê tửu sắc, tham lam rựu chè chẳng biết chán đủ. Người say rượu thường trở thành thô lỗ, khoác lác, huênh hoang, mặc sức làm những điều càn quấy, đần độn si mê, chẳng hiểu việc gì nhưng không việc gì mà chẳng dám làm. Bởi do say sưa điên cuồng, chẳng còn hiểu biết thế thái nhân tình gì nữa, nên thường biểu hiện dáng vẻ bất nhân, bất nghĩa, bất thuận, chẳng biết xấu hổ. Lại nữa, người say sưa chè chén thường hay gây gỗ xung đột, không biết tình người, vô nghĩa vô lễ. Chẳng biết quyết đoán đúng sai, phải trái, thấy cái gì thích chí thì phóng tâm làm theo, chẳng phân biện tôn ty trật tự, trái nghịch với chuẩn mực, pháp tắc, những điều xấu ác này chính là vô lễ. Không biết đúng sai, việc làm không đúng đắn chính là vô nghĩa.

Chúng ta phải biết say mê tiền tài, danh vọng và quyền lực cũng là một thứ nghiện ngập rất khó bỏ, chẳng khác gì uống rựu, bài bạc, xì ke ma túy, hành dâm. Có những kẻ vì say mê tiền tài, danh vọng và quyền lực đến mức không ngằn ngại bán nước cầu vinh, cõng rắn về cắn gà nhà. Những người như vậy thật là khó thể cản ngăn, khó thể dùng đạo lý để giảng giải, khuyên can để họ chỉnh sửa hành xử đúng đắn. Kẻ ác như vậy, đối với những vật cần thiết để duy trì cuộc sống của cha, mẹ, anh, em, vợ, con và quyến thuộc họ hàng, họ hoàn toàn chẳng thèm quan tâm đến. Ðối với công ơn cha mẹ, tình nghĩa thầy bạn, họ thản nhiên như không, chẳng thèm nghĩ tới. Đối với vận mạng hưng vong của quốc gia dân tộc và các nổi khổ của người dân, họ cũng hoàn toàn thờ ơ, chẳng chút bận lòng.

Kinh A Xà Thế Vương Vấn Ngũ Nghịch dạy: “Có năm tội nghịch nếu tộc tánh tử, tộc tánh nữ phạm những tội này thì không thể cứu được, ắt nhập địa ngục, chẳng còn nghi gì nữa. Những gì là năm? Tức là giết cha, giết mẹ, hại A-la-hán, đấu loạn tăng chúng, khởi ác ý đối với Đức Như Lai.” Năm thứ ác ấy chính là ngũ vô gián nghiệp, chiêu cảm khổ quả trong địa ngục vô gián. Người nghiện ngập, tâm thường nghĩ điều ác, miệng thường nói điều ác, thân thường làm ác, chưa từng có một điều lành nào. Họ lại chẳng tin Phật pháp, chẳng tôn thánh kính thiện, bác bỏ nhân quả, thậm chí còn hủy diệt Phật giáo, hoặc lợi dụng Phật giáo làm công cụ để đạt được những thứ mà họ say mê; đó chính là bọn nhất-xiển-đề. Những người ác như vậy thường muốn hại người chân. Ai là người chân? Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa giảng: “Người chân là A-la-hán.” Muốn hại người chân chính là muốn giết chết A-la-hán, tạo thành ngũ nghịch trọng tội. Ðối với tăng chúng hòa hợp tu hành đúng theo Phật pháp, họ lại dùng thủ đoạn để ly gián, khiến xảy ra tranh chấp, làm pháp sự bị phế bỏ, thì đó chính là phá hòa hợp tăng. Tội phá hòa hợp tăng, hủy diệt các bậc hiền trí, lợi dụng Phật giáo để duy trì một chánh thể ngu si tà vạy đồng với tội giết A-la-hán, hại A-xà-lê (thầy dạy Phật pháp), làm thân Phật chảy máu.

Các lỗi ác của sân và si mà người nghiện ngập thường phạm là do độc tố của các thứ nghiện ngập khiến cho con người trở thành si mê, vô tri. Đã si mê, vô tri lại còn tự cao tự đại, tự cho mình là có trí huệ, tự cho mình hiểu đạo, thì đúng thật là đã si mê đến mức cùng cực! Lại do vì si mê vô tri nên chẳng tin có nhân quả ba đời, chẳng biết đời này sanh từ đâu đến, cũng chẳng biết chết sẽ sanh về đâu? Chẳng hiểu rõ nhân quả, chẳng tin luân hồi, chẳng biết lợi tha chính là tự lợi, chẳng biết đảm trách cứu giúp người khác chính là cứu giúp chính mình, nên chỉ biết lo toan tự tư tự lợi, đối xử với người khác toàn là bất nhân, bất nghĩa, bất thuận. Ấy thế mà lại còn vọng cầu sống lâu nữa chứ! Đã làm những chuyện trên chẳng thuận ý trời, dưới trái nghịch lòng dân mà muốn tồn tại lâu dài thì đấy chính là vọng tưởng điên đảo đến mức tột cùng. Tâm trí si mê, hạnh đức kém cỏi như vậy mà muốn tồn tại lâu dài, khiến cho người khác bị tổn hại vì mình, thì đó chính là ác nhân bậc thượng. Dù ác nhân này có gặp được bậc hiền trí từ tâm khuyên bảo, cũng chẳng chịu tin, nên dù có đắng miệng nhọc lời khuyên lơn cũng chẳng có ích lợi gì cả. Bởi lẽ, kẻ si mê như thế, tấm lòng đã bị đóng chặt, tâm trí khó bề khai giải, nên dẫu họ có chịu lắng nghe, cũng chẳng thể lãnh hội nổi. Rõ ràng là do si độc chiêu cảm nên mới đưa đến nỗi đau khổ đến mức như vậy! Do si mê che lấp cái tâm nên trở thành vô tri, mê muội thì đây thật là nỗi đau khổ lớn lao của một kiếp làm người. Người đời chẳng biết nhân quả, lúc còn sống không lo tu sẵn việc thiện lành, đến lúc sanh tử đến kề, lửa địa ngục hiện ra thiêu đốt thân tâm, trong sự kiện ấy mới sanh lòng hoảng sợ, hối hận, thì đã muộn màng rồi, chẳng thể làm gì được!



    « Xem chương trước «      « Sách này có 1503 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.21.247.221 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...