Thế rồi những ngày mưa gió thất thường cũng qua đi, những hôm nóng lạnh trồi sụt cực đoan cũng lắng dịu. Đất trời vào xuân, cả một vùng Bắc Mỹ lộng lẫy sắc hương hoa lá. Hoa đào về đến bến xuân, hoa khắp trong thành ngoài bãi, hoa bạt ngàn trang trại đồng quê…
Sắc hồng ửng lên rực rỡ dưới vòm trời xanh miên man. Hoa là pháp thân Phật hiển hiện khắp mọi nơi. Cánh hoa đào có nắng ấm mùa xuân, có nước mát trong tinh khiết từ suối nguồn, có dưỡng chất của đất mẹ và dĩ nhiên không thể thiếu hơi thở trong lành trong trời đất thiên nhiên.
Cả một năm biền biệt không thấy bóng dáng, ấy vậy mà khi trời vừa chớm xuân đã thấy xuất hiện trên cành. Mình không thấy hoa là lỗi ở mình nào phải ở hoa. Mình mê mờ quá chứ hoa vẫn đấy. Hoa đến từ đất, nước, gió, lửa. Hoa vẫn muôn đời kia mà. Pháp thân Phật hay pháp thân hoa bất sanh bất diệt, bất khứ bất lai, sanh diệt chỉ là cái tướng mà thôi!
Hoa đào đẹp quá, ừ thì đẹp thật! nhưng hoa nào cũng đẹp, làm gì có hoa xấu ở trên đời! Hoa đào không sanh không diệt, không đến không đi thì làm sao bảo về đến bến xuân? Ấy là vì người mà nói, vì đời mà mơ. Bến xuân ở đâu? Bến xuân ngay trong tâm ý mình! Bến xuân cũng không sanh không diệt. Xuân, hạ, thu, đông là cái tướng của sanh diệt, cái tướng đến đi, là cái tâm phân biệt của mình. Thiên nhiên chẳng có xuân, hạ, thu, đông. Thời gian chẳng có quá khứ, hiện tại, tương lai. Hư không làm gì có đông, tây, nam, bắc. Mười ngàn thế giới không ngoài một niệm tâm.
Hoa mai của thiền sư không rụng thì hoa đào ngoại phương cũng không tàn. Hoa vĩnh viễn là hoa, dù là đất – nước – gió – lửa hay là trong tâm tưởng. Hoa bất sanh bất diệt trong trời đất. Hoa về đến bến xuân hay mình về đến bến xuân? Bến xuân ở đâu? Bến xuân không ngoài đông – tây – nam – bắc, chẳng ngoài xuân – hạ - thu – đông, càng không thể ngoài quá khứ - hiện tại – vị lai. Bến xuân ngay bây giờ và ở đây. Bến xuân trong đất trời. Bến xuân trong lòng mình.
Hoa đào đẹp thế, muôn hoa lộng lẫy sắc hương. Bến xuân thơ mộng như mơ. Ấy vậy mà con người vô minh rất mực, chẳng biết thưởng xuân mà nào chỉ xuân gấm hoa rực rỡ. Ngay cả hạ căng mọng sức xanh, thu cẩm tú long lanh, đông nguyên sơ trinh bạch cũng chẳng động tâm bọn người vô minh. Bọn chúng bất chấp tất cả, đang tâm tàn hại nhau, gây đau khổ cho nhau. Những chính phủ cực hữu, những chính quyền độc tài sống trong sự hoang tưởng về quyền lực, tham vọng, của cải… mà gây ra chiến tranh xâm lược, gây ra động loạn xã hội. Bọn người tham lam – sân hận – ngu si không từ bất cứ thủ đoạn tàn độc nào để đạt cho được cái tham vọng ngông cuồng. Bọn người vô minh đã và đang giết hại sinh mạng người, tổn hại đời sống sinh vật, tàn phá môi trường tự nhiên… Chúng sẵn sàng hủy diệt tất cả! Lịch sử loài người từ xưa đến nay là lịch sử của chiến tranh. Những khoảng thời gian bình yên rất ít và rất ngắn. Phải chăng đó là nghiệp của con người? Con người tạo tác nghiệp và chịu tác động của nghiệp. Con người cộng nghiệp với nhau nên chịu đau khổ chung với nhau.
Mùa xuân sinh sôi nảy nở, đông điêu tàn hoại diệt. Hòa bình sinh trưởng phát triển, chiến tranh chết chóc hủy diệt. Hai mặt của một vấn đề. Dân gian cũng có câu chuyện cổ tích cây gậy sanh tử. Hễ đầu xanh chỉ vào đâu thì sẽ hồi sanh, đầu đỏ hướng đến chỗ nào thì sẽ gây ra chết chóc. Hindu giáo cho rằng thần Brahma sinh sản (sáng tạo), thần Vishnu duy trì, thần Shiva hủy diệt. Ấy chính là cái luật thành - trụ - hoại - không mà nhà Phật nói. Tuy nhiên nhà Phật thấy đến tận cùng bản thể, đạt tới chơn đế của hiện tượng, sự vật, sự việc của nhân sinh ở thế gian này. Tất cả hiện tướng đều là giả, không thật có. Kinh Kim Cang đã bảo: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” là vậy! Cái tướng sanh diệt, tướng xuân – hạ - thu – đông, tướng hoa đào hay tướng của bất cứ loài nào cũng đều là duyên sanh, mà duyên sanh thì không có tự tánh. Bởi vậy mà nhà Phật mới dạy: “Như lộ diệt như điện”, “Như mộng huyễn bào ảnh”. Những thiền sư đắc pháp sâu sắc lắm: “Thấy pháp là thấy Phật”.
Các nhà Nho thường: “Xuân du phương thảo địa/hạ thưởng lục hà trì/thu ẩm hoàng hoa tửu/đông ngâm bạch tuyết thi” chỉ là hưởng nhàn, tuy hưởng thụ có tính thanh cao, tránh danh lợi nhưng cách xa một trời một vực với việc thưởng hoa xuân của các thiền sư. Các ngài đạt đến rốt ráo buông bỏ, cách nhìn sự vật sự việc: “Vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả”. Ấy là chưa nói đến việc đắc pháp hay giác ngộ. Các ngài ngắm hoa nở mùa xuân, xem lá vàng rơi mùa thu nhưng thật ra các ngài nhìn sự vật, sự việc và con người trong dòng sanh diệt thịnh suy mà không lay động, lòng “Thịnh suy vô bố úy” vì các ngài biết rõ đó là duyên sanh, là tướng trạng giả. Các ngài giống như người ngồi xem vở tuồng bi hài kịch mà lòng không sợ hãi, không duyên theo câu chuyện của vở tuồng. Còn chúng ta như các diễn viên đào kép, khán giả mãi khóc – cười, sướng – khổ, thích ý – phẫn hận theo diễn biến của vở tuồng.
Hoa đào đẹp lắm em ơi! Bởi vậy mà người ta mới ví gái má đào. Hương hoa thơm ngọt quyến rũ, sắc hoa rạng rỡ… Biết là duyên sanh mà mình vẫn mơ và mê, đâu chỉ hoa đào hay má đào, mình còn mê cả thanh, hương, vị, xúc, tiền tài, danh lợi… Bởi vậy mà sanh tử không dứt, luân hồi bất tận, chết và tái sanh vì cái tham ái dục. Mình mê cái giả tướng, chấp vào giả tướng mà không thấy được cái bản thể duyên sanh. Mình dính mắc và mình khổ, sống trong khổ.
Hoa đào mùa xuân đẹp lắm ơi! Hơn ngàn năm trước Thôi Hộ cũng vì hoa đào, gái má đào mà ngẩn ngơ “bất tri hà xứ khứ”. Rồi đến đầu thế kỷ hai mươi này thì ông đồ Vũ Đình Liên lại ngẩn ngơ “người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ”. Hoàng Hoa trang cũng có tay du tử ngẩn ngơ suốt tháng ngày, chẳng biết đi đâu về đâu? Hỏi người không thưa, hỏi hoa đào chỉ thấy hoa lay trong gió xuân. Bọn khách thơ, khách văn hay bọn du tử dù bên Tàu hay bên ta, dù cổ hay kim cũng đều sống ngẩn ngơ đến lạ lùng. Những kẻ lạc bến xuân hay sống trong bến xuân? Hỏi thì hỏi thế thôi chứ làm sao thưa? Ai thưa bây giờ?
Bến xuân vùng phương ngoại. Bến xuân nơi cố quận. Bến xuân trong trời đất. Bến xuân trong hồn người, trong tâm tưởng…đẹp biết bao, lung linh làm sao, lộng lẫy đến vô cùng.
Tiểu Lục Thần Phong
Ất Lăng thành, 0325