Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Hạnh phúc giống như một nụ hôn. Bạn phải chia sẻ với một ai đó mới có thể tận hưởng được nó. (Happiness is like a kiss. You must share it to enjoy it.)Bernard Meltzer
Kẻ ngốc nghếch truy tìm hạnh phúc ở xa xôi, người khôn ngoan gieo trồng hạnh phúc ngay dưới chân mình. (The foolish man seeks happiness in the distance, the wise grows it under his feet. )James Oppenheim
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tu tập Phật pháp »» Cái gốc của tất cả điều lành »»

Tu tập Phật pháp
»» Cái gốc của tất cả điều lành

Donate

(Lượt xem: 4.958)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Văn học Phật giáo - Cái gốc của tất cả điều lành

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Phật dạy chúng sanh nếu muốn mau chóng xuất ly tam giới thì phải cầu sanh Tịnh Ðộ! Kinh chép: “Người hay tự độ, qua lại giúp nhau. Chí tâm cầu nguyện, chất chứa gốc lành, tuy cả một đời, tinh tấn cần khổ, chỉ trong khoảnh khắc. Sau được sinh về, nước Vô Lượng Thọ, vui sướng không cùng. Vĩnh viễn nhổ tận, cội gốc sinh tử, chẳng còn khổ lo, sống ngàn vạn kiếp, tự tại tùy ý.”

Thế nào là người hay tự độ? Phật bảo Di Lặc Bồ-tát, người hay tự độ chính là người đã dứt đoạn hồ nghi, nhổ gốc ái dục, ngăn các nguồn ác, người ấy đã rửa sạch tâm nhơ, nói làm trung tín, trong ngoài tương ứng. Sau khi họ đã được tự lợi, bèn thực hành hạnh lợi tha, lần lượt cứu độ những người khác. Câu “qua lại giúp nhau, chí tâm cầu nguyện” chính là lời nguyện thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.” Người tu tịnh nghiệp phải phát khởi cái tâm to lớn tự giác, giác tha, niệm danh hiệu Phật, mới khế hợp được tông thú của bản kinh Vô Lượng Thọ: Phát Bồ-đề tâm, một bề chuyên niệm. Nếu hành nhân muốn thành tựu hai hạnh tự lợi lợi tha, thì hãy “chí tâm cầu nguyện, chất chứa gốc lành.” Mà “chí tâm cầu nguyện” chính là cái tâm nguyện được vãng sanh và “gốc lành” chính là một bề chuyên niệm A Di Đà Phật! Vì sao? Bởi vì xưng danh niệm Phật là chánh nhân để được vãng sanh Cực Lạc, một đời thành Phật; cho nên, xưng danh niệm Phật chính là cái gốc sanh ra tất cả các điều lành và cũng là việc lành tối thượng không có việc lành nào sánh bằng. Như vậy, câu “chất chứa gốc lành” ở trong đoạn kinh văn trên chính là một bề chuyên niệm A Di Đà Phật!

Đức Phật khuyên người đời tuy cả một đời siêng năng vất vả tu Tịnh độ, một bề chuyên niệm A Di Đà Phật để tích chứa gốc lành thù thắng, nhưng thật ra đó chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi, thế mà thân sau lại được sanh về Cực Lạc, thọ hưởng cái vui chân thật chẳng hề chấm dứt, mầu nhiệm vô biên vượt trỗi mười phương không cùng tận. Trong tác phẩm Khuyến Tâm Vãng Sanh Luận của Ngài Sa Môn Nhẫn Không, thuộc tông Thiên Thai có câu: “Một trận vinh hoa đời này kết thành khổ quả ức kiếp. Ðời này siêng tu trong khoảnh khắc, nở nhụy giác tam minh.” Ấy chính là nói đến pháp môn Niệm Phật, tuy gieo nhân nhỏ, chỉ cần một đời tinh tấn cần khổ xưng danh niệm Phật trong một thời gian ngắn ngủi; thế mà lại được cái quả to lớn, vãng sanh Cực Lạc, vĩnh viễn nhổ tận cội gốc sinh tử, chẳng còn khổ lo, sống ngàn vạn kiếp, tự tại tùy ý. Hơn nữa, Tịnh độ Di Ðà là cảnh giới lạ lùng tuyệt diệu, thánh hiền cùng hội tụ nơi ấy nghe pháp ngộ đạo, thọ mạng vĩnh cửu, đắc Bất Thoái Chuyển cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì có nỗi vui sướng nào khác hơn được niềm vui này? Thật thà mà nói, chỉ cần không có cái khổ vô thường đã là đáng vui rồi, huống gì còn có các sự vui sướng trang nghiêm thanh tịnh thù thắng, chẳng cùng tận, chẳng đâu bằng. Sở dĩ người vãng sanh Cực Lạc được thọ hưởng các điều vui sướng ấy đều do nhờ vào công đức bố thí vô lượng, vô biên, vô cùng sâu rộng của Phật A Di Đà.

Khi xưa, Ấn Quang Đại sư thấy chúng sanh tu hành tuy đông đảo, nhưng chẳng có mấy ai thật sự tích cực cầu giải thoát sanh tử, nên Ngài cả đời chỉ dạy chúng sanh niệm sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật,” nhằm giúp họ chất chứa gốc lành bậc nhất bằng cách kết pháp duyên cho họ với A Di Đà Phật để có thể tiếp nhận được ân đức bố thí của Phật. Chúng ta phải nên hiểu tâm ý của Ấn Tổ là muốn giúp chúng sanh phát khởi một đại sự nhân duyên, đó là quay trở về với Chân tâm Bổn tánh của mình bằng cách dùng cái tâm buông xả vạn duyên, thật thà niệm Phật để chứng nhập vào tri kiến Phật; đó là: “Tâm này là Phật, tâm này làm Phật. Tâm, Phật và chúng sanh là một không hai.” Vì thế, Ngài dạy chúng ta phát khởi lòng Tín-Nguyện-Hạnh cầu sanh Cực Lạc, bởi vì chỉ khi nào chúng ta có Tín-Nguyện kiên định, chẳng có mảy may hoài nghi, thì lúc ấy mới có thể thật sự buông xuống vạn duyên, một dạ niệm Phật, quyết định trong một đời này vãng sanh Cực Lạc. Ấn Quang Tổ sư dạy chúng ta phải dùng cái tâm buông xả vạn duyên, thật thà niệm Phật để chứng nhập vào tri kiến của Phật, đó cũng chính là dạy chúng ta làm thế nào để trở về với Chân tâm Bổn tánh của mình. Căn tánh của chúng sanh tuy có khác nhau, nhưng tổng mục tiêu, tổng phương hướng của chư Phật lại là nhất trí. Ngàn kinh, vạn luận tuy khác đường, nhưng đều cùng quy về cùng một chỗ cuối cùng; đó là trở về Tịnh Độ. Do vậy, kinh Vô Lượng Thọ mới bảo: “Giống như biển lớn là vua của nước, muôn sông đổ về, đều vào biển cả, mà nước biển lớn nào có tăng giảm!”

Buông xuống vạn duyên không có nghĩa là phải bỏ hết chuyện gia đình, sự nghiệp, công ăn việc làm v.v..., chỉ biết niệm Phật. Buông xuống vạn duyên là như kinh Kim Cang nói: “Tâm vô sở trụ,” tức là đoạn trừ tâm ý thức. Vì sao phải đoạn trừ tâm ý thức? Vì tâm ý thức chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, là bờ đê ngăn cách muôn sông đổ về biển cả. Con sông ấy ví cho tâm ý thức của chúng ta, biển cả ví cho Chân tâm Bổn tánh. Chân tâm Bổn tánh của ta và A Di Đà Phật vốn là cùng một bản thể. Thế nhưng, do bởi tâm ý thức ngăn cản nên tâm ta và tâm Phật bị cách ly, không thể hòa nhập thành một. Khi nào bờ đê bị phá, muôn sông sẽ tự nhiên đổ xuôi về biển cả; tức là ta đã quay trở về với Chân tâm Bổn tánh, khi ấy tâm ta và tâm Phật trở thành một thể không hai. Buông xuống vạn duyên cũng có nghĩa là tùy duyên, không nên phan duyên, Đức Phật dạy chúng ta phải biết tùy duyên trong mọi việc làm, phải biết lúc nào cần phải tiến lên phía trước, lúc nào phải ngừng lại tại chỗ và lúc nào phải thụt lùi về phía sau. Ví như dòng nước khi chảy xuống đồi núi, nước sẽ chảy với vận tốc rất nhanh, nhưng khi nước tới đồng bằng, tự nhiên nước chảy chậm lại, khi nước chạm vào một chướng ngại vật nào, nó tự biết uốn lượn qua vật đó mà tiếp tục chảy theo dòng của nó. Nếu chúng ta biết sống tùy duyên như dòng nước, uyển chuyển thay đổi thích hợp với mọi hoàn cảnh sinh hoạt trong đời và đạo, chúng ta sẽ có thể chèo lái chiếc thuyền đời vượt qua những chướng ngại trong cuộc sống và tránh được những khó khăn, đau khổ không cần thiết. Chúng ta chẳng nên phan duyên đắp đê, xây bờ làm ngăn chặn dòng nước xuôi chiều trở về biển cả, hãy để nó tự nhiên đổ xuôi về biển cả. Nói đơn giản cho dễ hiểu, buông xả vạn duyên chính là giữ gìn tâm ý và thái độ tự nhiên, bình thản đối với mọi sự, vật và hiện tượng xảy ra trong đời mình.

Hòa Thượng Tịnh Không dạy, trong Phật pháp chẳng cần biết chúng ta tu hành theo tông nào, phái nào hay pháp môn nào, đều bắt buộc phải có ba khoa mục chung; đó là giới luật, lý luận và quy túc:

· Giới luật là cơ sở, là nền móng, là khoa mục chung trong Phật giáo. Nếu không có giới luật thì điều gì cũng chẳng thể thành tựu. Giống như khi xây nhà, bất luận xây nhà cao đến đâu và kiểu nào, trước hết cơ sở nền móng phải được đắp cho thật vững chắc. Nếu không làm như vậy, sau khi xây xong căn nhà, nó bèn sụp đổ. Đấy chẳng phải là công dã tràng xe cát đó sao?

· Lý luận cũng là khoa mục chung trong Phật giáo. Hoa Nghiêm là một bộ kinh trọng yếu trong Pháp Tướng Duy Thức, chuyên giảng về căn nguyên của vũ trụ. Trong Hoàn Nguyên Quán giảng rất hay: “Hiển lộ một thể, khởi lên hai tác dụng.” Hai tác dụng ở đây có nghĩa là bất luận là y báo hay chánh báo, bất luận là nhỏ như vi trần hay lớn như hư không pháp giới, hết thảy đều có ba thứ trọn khắp chẳng thể nghĩ bàn; đó là: trọn khắp pháp giới, sanh ra vô tận và chứa đựng không và có. Ba thứ trọn khắp này chính là lý luận chung của tất cả pháp môn trong Phật giáo. Mỗi một pháp môn trong tám vạn bốn ngàn pháp môn trong Phật giáo chẳng thể vượt ra ngoài ba thứ này. Chúng ta phải dựa vào lý luận này để học Phật pháp, rời khỏi lý luận này, bèn chẳng phải là Phật pháp.

· Quy túc có nghĩa là kết quả cuối cùng của sự tu học Phật pháp. Kinh Hoa Nghiêm tuy là lý luận chung của tất cả pháp môn trong Phật giáo, nhưng không phải là chỗ quy túc của Phật pháp. Vì sao? Bởi vì đến cuối cùng, kinh quy kết hết thảy sự tu hành về một môn Vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Từ kinh Hoa chúng ta thấy, hết thảy tám vạn bốn ngàn pháp môn đến cuối cùng đều quy vào thế giới Hoa Tạng, sau khi đến Thế Giới Hoa Tạng rồi, sẽ được Ngài Văn Thù và Phổ Hiền Bồ-tát dẫn về Thế giới Cực Lạc. Như vậy, Thế giới Cực Lạc chính là nơi quy túc chung của tất cả thế giới trong mười phương. Trong phẩm Chỉ Lưu Lại Một Kinh Này của kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo: “Ở trong đời sau, kinh đạo tận diệt, ta vì tấm lòng từ bi thương xót, đặc biệt lưu lại chỉ một kinh này trụ thế trăm năm.” Phẩm Nguyện Lực Hoằng Thâm cũng nói: “Giống như biển lớn là vua của nước, muôn sông đổ về, đều vào biển cả, mà nước biển lớn nào có tăng giảm.” Đấy cho chúng ta thấy, suốt cả một đời thuyết pháp của Phật, rốt cuộc chỉ quy về một bộ kinh Vô Lượng Thọ này thôi. Tám vạn bốn ngàn pháp môn của Phật Thích Ca Mâu Ni ví như các dòng nước khác nhau, nhưng rốt cuộc đều xuôi về biển cả, biển cả ví cho kinh Vô Lượng Thọ. Thế giới Cực Lạc là nơi quy túc chung của mười phương thế giới, đây là nguyện lực hoằng thâm của Phật A Di Đà đúng như kinh này đã chép: “Phật Vô Lượng Thọ, ý muốn độ thoát các loại chúng sanh mười phương cõi nước, đều khiến vãng sanh nước Cực Lạc kia, tất khiến đặng chứng vào đường Niết-bàn, tất khiến cho người hành đạo Bồ-tát, đều đặng thành Phật.”

Vì kinh Vô Lượng Thọ là chỗ quy túc của tất cả các kinh, Thế giới Cực Lạc là nơi quy túc chung của mười phương thế giới, nên Liên tông Nhị Tổ Thiện Đạo Đại sư mới bảo: “Như Lai sở dĩ xuất hiện trong đời chỉ là để nói biển bổn nguyện của Phật A Di Ðà. Chánh thuyết xuất thế thuộc riêng trong kinh này.” Biển bổn nguyện và chánh thuyết của Phật A Di Đà là gì? Chính là những điều đã được ghi chép trong kinh nhỏ Vô Lượng Thọ. Tương tự với ý kiến của Thiện Đạo Đại sư, Hòa Thượng Tịnh Không nói: “Hết thảy chư Phật thị hiện thân Phật đến thế gian này để làm gì? Chỉ để nói biển bổn nguyện của Phật Di Đà! Có nghĩa là gì? Nói kinh Vô Lượng Thọ.” Như vậy, trong cả một đời thuyết pháp, rốt cuộc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ quy về một bộ kinh Vô Lượng Thọ. Nếu nói như vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói hết thảy các kinh khác để làm gì? Hòa Thượng Tịnh Không trả lời: “Cũng chính là nói đến kinh Vô Lượng Thọ, ngàn kinh muôn luận chỗ nào cũng chỉ quy về kinh Vô Lượng Thọ này.” Nhưng tại sao Thế Tôn không chỉ nói riêng kinh này mà lại nói quá nhiều kinh khác như vậy để làm chi? Hòa Thượng đáp: “Bởi vì có người chẳng ưa thích pháp môn này, không hợp khẩu vị của họ! Nên Đức Phật bèn tùy thuận khẩu vị của người ấy mà giảng cho kẻ ấy nghe pháp môn thích hợp với họ, giảng đến cuối cùng, Phật lại quẹo trở về Vô Lượng Thọ, đây gọi là phương tiện thiện xảo của Đức Phật.” Thật vậy, lời Thiện Đạo Đại sư và Hòa Thượng Tịnh Không nói chẳng sai, hết thảy chư Phật thị hiện trong thế gian này chỉ là để nói biển bổn nguyện của Phật Di Đà. Kinh Hoa Nghiêm nói nhiều đến ngần ấy nhưng đến cuối cùng đều quy về Mười Đại Nguyện Vương của Bồ-tát Phổ Hiền dẫn về Cực Lạc.

Cổ đức có câu: “Đói gặp cỗ vua mà chẳng dám ăn” là nói lên điều gì? Đây là nói đến những chúng sanh thiếu phước, gặp kinh Vô Lượng Thọ là kinh bậc nhất, là chỗ quy túc của hết thảy các kinh mà chẳng chịu tiếp nhận. Hết thảy chư Phật ứng hóa trong mười phương pháp giới lục đạo đều dùng kinh này để phổ độ chúng sanh; thế mà họ chẳng tin, chẳng tiếp nhận, chẳng nghe và chẳng hiểu, nên chưa thể giải thoát sanh tử trong một đời này. Tại sao xảy ra cớ sự này? Kinh Vô Lượng Thọ giải thích rành rõ: “Nếu nghe hiệu Phật, trong lòng hồ nghi, lời kinh Phật dạy, thảy chẳng lòng tin, đều do ở trong đường dữ mà tới, tai ương đời trước, chưa được dứt tận, chưa được độ thoát, nên tâm hồ nghi, chẳng hướng tin vậy.” Người ấy đối với pháp môn này còn hoài nghi, chưa thể tiếp nhận lời giáo huấn của Phật, thì làm sao Phật có thể giáo hóa cứu độ họ đây? Chúng ta tặng họ một quyển kinh bậc nhất của chư Phật Như Lai, họ không tiếp nhận, họ không thèm đọc, thì thật sự là quá thiếu phước báo, đúng như là lời nhận định của cụ Hoàng Niệm Tổ: “Cấu nặng, chướng sâu, tâm thô, trí kém, đúng là giống như gặp được thức ăn của quốc vương mà chẳng dám xơi!”

Chúng ta khổ hay sướng đều do một niệm mê hay ngộ mà ra. Chúng ta đau khổ là do thường tạo nghiệp bất thiện. Chúng ta tạo nghiệp bất thiện là do mê hoặc, điên đảo, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà phải cảm lấy ác báo. Chúng ta vui sướng là từ khai ngộ mà có, bởi vì sau khi đã ngộ chắc chắn không còn tạo ác nghiệp nữa. Nhưng thật ra, cái vui sướng đó cũng chỉ là tiểu ngộ, khi đại ngộ rồi thì thiện lẫn ác đều mất hết, chẳng còn tác tạo các nghiệp nữa, nên vui và khổ cũng chẳng còn, cái còn lại chỉ là thường, lạc, ngã, tịnh. Lạc trong thường, lạc, ngã, tịnh là cái vui sướng chân thật thường hằng có mặt trong nội tâm, chẳng phải là cái vui vô thường do những yếu tố bên ngoài gây ra. Đối với người đại ngộ thì đoạn ác tu thiện chỉ là trong tâm như như bất động, thanh tịnh bình đẳng, chẳng có dấu vết gì. Chỉ có đoạn ác tu thiện của người đại triệt đại ngộ mới đích thực là tịnh nghiệp trong Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế. Lúc đã thật sự đại ngộ rồi thì Phật pháp chỉ còn vỏn vẹn là một niệm thanh tịnh mà thôi! Đây chính là Nhất Hạnh Tam Muội của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát mà kinh Vô Lượng Thọ giải thích rất rõ ràng, minh bạch: “Nếu các hữu tình sẽ làm Phật, vượt hạnh Phổ Hiền lên bờ giác. Thế nên rộng nghe chư Trí sĩ, nên tin ta dạy lời như thật. Diệu pháp như thế may được nghe, phải thường niệm Phật mà sinh hỷ. Thọ trì rộng độ dòng sinh tử, Phật nói người này thật bạn hiền.” Ba câu “Các hữu tình sẽ làm Phật,” “Vượt hạnh Phổ Hiền lên bờ giác” và “Phải thường niệm Phật mà sinh hỷ” đã nêu rõ pháp môn Nhất Hạnh Tam Muội của Ngài Văn Thù Sư Lợi cũng chính là pháp Niệm Phật Viên Thông của Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử: “Thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, chẳng nhọc phương tiện, tự được tâm khai.”

Phật môn đệ tử bất luận tại gia hay xuất gia đều phải biết Đức Phật xuất hiện trong thế gian này để làm gì? Ngài dùng phương pháp gì để giúp chúng sanh khổ nạn trong lục đạo? Phật dùng giáo học, giảng kinh, thuyết pháp để giúp chúng sanh phá mê, khai ngộ, lìa khổ, được vui. Chúng ta học Phật là học những điều Phật giảng dạy trong kinh, chớ chẳng phải học những kiến thức của người thế tục. Chúng ta thấy, trong chùa chiền thời xưa, mỗi ngày họ đều giảng kinh, dạy học, rèn luyện đệ tử trong Phật môn tu theo Phật hạnh. Sư thầy chỉ chuyên dạy một môn, học trò cũng chỉ chuyên dồn hết công sức nơi một môn. Học trò chưa học xong một môn thì chẳng thể học môn thứ hai. Ngày nay, Phật giáo bị biến thành tôn giáo, nền giáo dục của Phật-đà chẳng được tuyên truyền, giảng dạy, hoặc dù có được giảng dạy cũng chẳng còn tinh nguyên như xưa nữa, đã bị biến dị mất rồi, những gì thầy và học trò tu học đều bất xứng với Thích Ca Mâu Ni Phật, khiến cho nền giáo dục của Đức Phật ngày càng suy vi, bại hoại. Chúng ta thật sự phạm lỗi với Thích Ca Mâu Ni Phật là ở chỗ này!

Đức Phật bảo: “Phải nên kiên trì, không được bỏ mất, không được khởi vọng, tăng giảm kinh pháp, thường nhớ không dứt, nhanh chứng đạo quả.” Phật nhắc nhở chúng ta hằng ngày phải thọ trì, đọc tụng kinh Phật để làm gì? Chính là để nhắc nhở chính mình ngày hôm nay đừng quên mất lời giáo huấn của Đức Phật, phải thường đề cao cảnh giác cái tâm vọng động của chính mình, y pháp tu hành, không được khởi vọng tăng giảm kinh pháp của Phật. Trong khóa tu buổi sáng, chúng ta đọc tụng phần kinh văn trong phẩm Phát Đại Thệ Nguyện mà suy nghĩ rằng: A Di Đà Phật đã phát Bốn Mươi Tám Nguyện độ sanh, vậy ta có phát nguyện như vậy chưa? Người cầu đạo vãng sanh đối với chính mình phải có lòng mong muốn biến Bốn Mươi Tám Nguyện của Phật A Di Đà thành bổn nguyện của chính mình, thì tâm nguyện của mình và A Di Đà Phật mới tương đồng. Trong khóa tu buổi tối, chúng ta nên đọc tụng phần kinh văn từ phẩm Khuyến Dụ Sách Tấn (phẩm 33) ) đến phẩm Như Nghèo Đặng Của Báu (phẩm 37). Những phẩm kinh này dạy chúng ta trì giới, phản tỉnh, sửa đổi, sám hối. Buổi sáng chúng ta vừa phát nguyện xong, buối tối nhất định phải phản tỉnh, kiểm điểm, sửa lỗi những gì mình đã tạo tác trong suốt một ngày, trái nghịch với lời thệ nguyện của mình và lời răn dạy của Phật, thì việc phụng kinh trì giới mới có lợi ích chân thật. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy chúng ta làm như thế nào, ta bèn làm như thế ấy, lấy ba chữ Tín, Nguyện và Trì danh làm trọng yếu, nắm chắc bốn chữ A Di Đà Phật, thì chắc chắn sẽ được sanh về Tịnh Độ, giải quyết vấn đề sanh tử trong một đời này.




    « Xem chương trước «      « Sách này có 1503 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Kinh Bi Hoa


An Sĩ toàn thư - Khuyên người tin sâu nhân quả - Quyển Hạ


Sống thiền


Gió Bấc

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.133.133.251 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...