Việc người khác ca ngợi bạn quá hơn sự thật tự nó không gây hại, nhưng thường sẽ khiến cho bạn tự nghĩ về mình quá hơn sự thật, và đó là khi tai họa bắt đầu.Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta không thể giải quyết các vấn đề bất ổn của mình với cùng những suy nghĩ giống như khi ta đã tạo ra chúng. (We cannot solve our problems with the same thinking we used when we created them.)Albert Einstein
Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tu học Phật pháp »» Kiến tánh »»

Tu học Phật pháp
»» Kiến tánh

Donate

(Lượt xem: 6.684)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Văn học Phật giáo - Kiến tánh

Font chữ:

Phàm phu chúng ta thường hay chấp trước đối với những gì tai nghe mắt thấy, rồi cho đó là hiện thực, nên chẳng có tầm nhìn xa để lý giải thật tướng của vũ trụ nhân sinh. Tâm thái thanh tịnh đối với những gì tai nghe mắt thấy chính là Căn Bản trí. Chúng ta chỉ có thể dùng Căn Bản trí mới có tầm nhìn xa rộng như các bậc thượng căn thượng trí. Căn bản trí là gì? Căn bản trí là tâm thanh tịnh bình đẳng. Khi chúng ta nghe những luận định ứng hợp với sở thích của mình, liền cảm thấy rất vui vẻ và bằng lòng tiếp nhận, đó là tâm phân biệt chấp trước, chẳng phải tâm thanh tịnh bình đẳng. Để thuận theo cái tâm phân biệt chấp trước của phàm phu, trong kinh Vô Lượng Thọ Đức Phật phô bày hiển thị hai thứ cảnh giới khổ và vui khác nhau để chúng ta trông thấy sự sai biệt giữa hai cảnh giới ấy mà biết phải lấy bỏ như thế nào mới được giải thoát. Thế mới biết, đối tượng chủ yếu mà Đức Phật muốn độ khi giảng kinh Vô Lượng Thọ chính là bọn lục đạo phàm phu chúng ta, Bồ-tát và Thanh văn chỉ là kèm thêm mà thôi chứ không phải đối tượng chánh mà Phật muốn độ khi nói kinh này.

Trong kinh này, Đức Phật nói: “Giàu sang thương muốn chẳng thể bền vững phải nên lánh xa, chẳng thể an vui.” Đức Phật nói lời này cho ai nghe? Câu nói này chắc chắn là cho hàng lục đạo phàm phu chúng ta nghe, chẳng phải là cho các vị Bồ-tát, Thanh văn nghe. Vì sao? Bởi vì các vị Bồ-tát, Thanh văn đã đoạn hết kiến tư hoặc, chẳng còn tham sân si mạn nữa thì Phật cần chi phải nói ra những thứ này với họ. Ngẫm nghĩ, hiện thời cuộc sống của chúng ta ở đây quá khổ, chẳng khác gì đang sống trong căn nhà lửa đang bốc cháy tới đầu. Thế giới này chẳng có chỗ nào tốt đẹp thật sự. Dẫu hiện thời chúng ta có nhiều tiền lắm bạc, nhưng lúc có một sự khổ xộc tới, tiền bạc chẳng giải quyết được gì, nhiều khi tiền bạc lại chính là nguyên nhân gây ra bao nhiêu nổi khổ ấy. Chúng ta tra xét cặn kẽ sẽ thấy, phần đông những người có nhiều tiền lắm bạc thường hay tác oai tác quái, gây ra biết bao điều ác, khiến cho gia đình và xã hội động loạn bất an, khổ sở, ngay cả bản thân họ cũng chẳng cảm thấy an vui. Lúc ấy mới biết thế giới này chẳng phải là một thế giới tốt đẹp thật sự. Lại nữa, những người giàu sang, sung sướng thường hay sợ chết, nhưng chúng ta có thể sống trường sanh bất lão, bất tử trong thế gian không? Xưa nay, chẳng thấy có một ai sống trường sanh, bất lão, bất tử trong thế gian này cả, chúng ta chỉ nghe qua trong các câu truyện thần thoại mà thôi.

Chúng ta sống ở trong thế giới này, cuộc sống quá khổ sở, người giàu có quyền thế còn sống không nổi, phải đi dân từ chỗ này sang chỗ khác để tìm nơi tốt hơn, huống gì là kẻ nghèo khổ, bần cùng. Người nghèo khổ bần cùng thì hết cách, họ chẳng có cách chi để di dân ra khỏi khu vựt khổ nạn mà họ đang ở. Trong nhiều quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, độc tài bất công, con người dường như chẳng thể nào sống được và cũng chẳng có cách chi ngóc đầu ra khỏi hoàn cảnh sống ấy. Thậm chí có biết bao nhiêu người cảm thấy thế giới này chính là địa ngục, chẳng phải là cõi người nữa. Nếu đã biết thế giới này đã thay đổi, không còn thích hợp với cuộc sống của con người nữa, thì hãy nhanh chóng niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, chớ nên mong muốn ở lại đây với niềm hy vọng là thế giới này sẽ có ngày tốt đẹp hơn. Vì sao chẳng thể hy vọng thế giới này có ngày tốt đẹp hơn? Vì trong các kinh, Đức Phật đã huyền ký cho chúng ta biết, khi thời Mạt pháp hết, chúng sanh sẽ rơi vào thời kỳ Chánh pháp tận diệt, lúc ấy nhân dân tà ngụy càng làm ra biết bao điều ác không sao kể xiết, ngũ thống ngũ thiêu lâu sau càng nguy ngập hơn, chẳng hề suy giảm. Nếu chúng ta thật sự tin tưởng Phật, thật sự biết dùng pháp Quán chiếu Bát-nhã sẽ thấy rõ tình hình tai họa trong thế giới hiện nay ngày càng nguy ngập hơn, không còn hy vọng cứu giản được nữa, thì tất nhiên phải có cảm xúc nhàm chán cõi này, vui thích sanh về cõi Cực Lạc kia, thì đó chính là bắt đầu giác ngộ!

Hiện nay, chúng ta quá khổ, có người khổ về vật chất, có người khổ về tinh thần nhân sự, có người khổ về cả hai mặt vật chất và tinh thần. Chúng ta lúc nào cũng phải lo toan, suy nghĩ tìm đủ mọi cách để thoát khổ, nhưng càng tìm càng thêm khổ hơn, dường như chẳng thể nào tìm ra được một lối thoát thật sự. Nay, trong kinh này, đức Phật chỉ cho chúng ta một con đường giải thoát thật sự, dễ dàng nhất, đơn giản nhất, nhanh chóng nhất và viên mãn nhất; đó là tu pháp niệm Phật vãng sanh Cực Lạc. Điều kiện để niệm Phật được vãng sanh mà Đức Phật nói ra trong kinh này là: “Chớ nên phóng tâm vào chỗ ham muốn, phụ kinh bỏ giới, phải đứng sau người.” “Không phóng tâm vào chỗ ham muốn” là buông xả. “Không phụ kinh bỏ giới” là nương theo kinh này tu hành cho đúng như lý như pháp. “Không đứng sau người” là niệm Phật được công phu đắc lực, bảo đảm vãng sanh. Nói cách khác, nếu chẳng thể buông xả vạn duyên trong thế gian, không nương theo kinh này để tu hành, thì chẳng thể niệm Phật được tâm thanh tịnh mà đắc đạo vãng sanh, nên đành phải ở lại trong lục đạo tu tiếp tục; đấy gọi là “đứng sau người.” Người ta tu hành đúng như lý như pháp được giảng dạy trong kinh nên vạn người tu vạn người chứng, muôn người tu muôn người vãng sanh, thứ lớp thành Phật đồng một danh hiệu Diệu Âm Như Lai. Còn ta do chẳng chịu trì kinh, chẳng chịu căn cứ theo kinh Phật để tu hành, chạy theo nghiên cứu các pháp tu phước báo nhân thiên, tham cầu sự giàu sang và ân ái của thế tục, nào ngờ những thứ ấy lại chính là nguyên nhân gây ra biết bao phiền não và chướng ngại, khiến mình mãi mãi trói buộc trong tam giới, chẳng thể vãng sanh, chẳng thể vĩnh viễn giải thoát.

Trong kinh Tịnh độ, Đức Phật nói cho chúng ta nghe y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, với hy vọng rằng sau khi chúng ta biết được bên kia có cõi an vui, bên đây chỉ là cõi khổ nạn, thì phải phát lòng nhàm chán Sa-bà cầu sanh Tịnh độ. Nếu không phải vậy thì Phật chỉ cần giảng đạo lý về Chân Như Thật Tướng là được rồi, cần gì phải nói ra những sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo trong Tây Phương Cực Lạc Thế Giới làm gì? Tây Phương Lạc trang nghiêm thù thắng đến mức như vậy, bất luận người giàu hay nghèo, thông minh hay ngu độn, già hay trẻ, nam hay nữ v.v..., hễ ai muốn sanh về đó đều được toại nguyện. Cõi ấy thật sự rất dễ đến nhưng lại có rất ít người muốn đến, nên trong kinh này Phật mới than thở: “Ðạo thù thắng vô biên, dễ đến mà không người.” Vì sao cõi ấy dễ đến mà lại có rất ít người muốn đến? Vì con người trong thế gian này không có mấy ai giác ngộ lẽ vô thường, cái họ cầu đều là những sự giàu sang, thương muốn không bền vững của thế tục.

Chúng ta hãy quay đầu nhìn lại Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, nơi đó ai nấy đều thọ mạng vô lượng, chẳng có hiện tượng sanh, trụ, dị, diệt. Đời sống vật chất và tinh thần nơi ấy tốt đẹp bậc nhất chẳng đâu sánh bằng, chẳng có ưu lự, chẳng có vướng mắc, chẳng có phiền não. Ăn, mặc, ở, đi lại tự nhiên, không cần phải sắp đặt, lo liệu, không cần quan tâm. Người trong thế giới ấy thần thông quảng đại, sáu căn thanh triệt, thiên nhãn thấy thấu suốt, thiên nhĩ nghe thấu triệt v.v... Năng lực ấy do đâu mà có? Do từ tâm thanh tịnh chẳng có phiền não mà tự nhiên được. Nói thật ra, chúng ta cũng có năng lực ấy, nhưng đã đánh mất từ lâu lắm rồi. Vì sao đánh mất? Bởi vì mỗi ngày đều phải lo ăn, lo mặc, mỗi ngày bụng dạ đều vướng mắc với các thứ giàu sang, thương muốn, khiến cho tâm thanh tịnh của mình bị khuấy trộn nháo nhào, khuấy trộn đến nỗi trở thành mê hoặc, điên đảo, khiến cho toàn bộ năng lực sẵn có bị mất đi. Nay, chúng ta do học kinh Phật tìm thấy lời Phật dạy: “Dùng trí phương tiện, tăng trưởng rõ biết, vốn tự xưa nay, an trụ thần thông, đắc đạo Nhất Thừa, liễu ngộ do đấy, không do gì khác!” mà ngộ ra lẽ thật là Tự tánh vốn sẵn đầy đủ các món thần thông trí huệ. Chúng ta phải từ trong trí tuệ ấy mà tìm biết phải làm thế nào để vĩnh viễn giữ được sự thanh tịnh quang minh trong tâm mình, một dạ chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh Cực Lạc, nhằm khôi phục những năng lực sẵn có đã đánh mất.

Tây Phương Cực Lạc là nơi rất dễ đến, bất luận ai muốn sanh về cõi đó chỉ cần tuân thủ ba điều kiệu: Tín, Nguyện, Hạnh. Thế mà chẳng có bao nhiêu người thật sự phát tâm cầu vãng sanh, nên Phật mới bảo: Người trong thế gian này phần đông là chẳng có trí huệ, nên bị rơi vào nghi lầm. Thật tình mà nói, chỉ có những người di dân đến Thế giới Cực Lạc mới là thông minh bậc nhất. Khắp mọi nơi trong thế giới ấy đều là tốt đẹp bậc nhất như nhau, chẳng có sai khác. Đó là cộng thiện nghiệp của A Di Đà Phật và nhân dân cõi ấy cảm vời! Nghiệp báo của chúng ta chẳng thể nào sánh bằng chư Bồ-tát trong cõi Cực Lạc, thế mà một khi sanh về đó tự nhiên thụ hưởng được phước báo giống hệt như Phật; đó chẳng phải là thông minh bậc nhất hay sao? Chẳng giống các cõi Phật độ khác trong mười phương thế giới, chẳng hạn như cõi Sa-ba này của Thích Ca Mâu Ni Phật, đều là do nhiễm nghiệp của chúng sanh cảm vời. Trên lẽ thật, cõi nước chẳng có tịnh hay uế mà do lòng người có tịnh hay uế. Tâm thanh tịnh cảm vời Tịnh độ, tâm xấu ác cảm vời uế độ. Cõi nước mình đang sống là y báo của chính mình, y báo chuyển theo chánh báo. Mỗi người trong thế giới Tây Phương đều do tu tâm thanh tịnh mà được vãng sanh, cho nên cõi ấy là thuần tịnh vô uế. Trong cõi Cực Lạc, ngay cả danh từ ác khổ còn chưa từng nghe đến, ngay cả giả sử về ác khổ cũng không có, thì làm sao có ác khổ thật sự!

Phật ví chúng sanh trong cõi này tu hành được tâm thanh tịnh cũng giống như là “lửa hóa hồng liên.” Chúng ta có bao giờ thấy đóa hoa sen mọc ra từ đống lửa chưa? Vẫn chưa bao giờ được thấy phải không? Vì sao không thấy? Vì đó không phải là chuyện dễ dàng! Chúng ta ở đây tu hành thật sự rất khó thành công giống như lửa hóa hồng liên, nên đành phải di dân qua cõi Cực Lạc để tu mà thôi. Trừ di dân ra, chẳng có cách nào tốt đẹp hơn để thực hiện cái tâm thanh tịnh của mình. Trong cõi này, dù chúng ta rất mong muốn thanh tịnh, nhưng người khác không muốn nên chúng ta bị ảnh hưởng lây, đành phải di dân sang cõi Cực Lạc để tu. Thậm chí, các vị Bồ-tát trong các cõi Tịnh độ khác trong mười phương thế giới muốn tu tâm thanh tịnh cũng phải đến Tây Phương Cực Lạc, chớ chẳng phải riêng gì chúng ta trong cõi uế độ này.

Thuở xưa, lúc vua Nghiêu còn tại thế, suốt đời ông ta sống trong một túp lều đắp đất làm tường, nóc nhà lợp bằng cỏ tranh. Còn Trụ Vương thì quá ưa chuộng hưởng thụ xa hoa phú quý, chén rượu đều làm bằng vàng, bạc, ngọc, ngà quý báo, lại được chạm trổ, điêu khắc hoa mỹ, tinh xảo. Có người nhìn vào các kinh Tịnh độ, cảm thấy dường như cuộc sống bên ấy quá sức xa xỉ, phú quý, lộng lẫy hoa lệ, còn xa xí hơn cả vua Trụ trăm ngàn vạn ức lần, dường như chẳng phải lẽ! Lại nữa, họ lại thấy thánh nhân trong thế giới này đều tôn trọng cuộc sống đơn giản, thuần phác, chẳng chú trọng hưởng thụ vật chất, chỉ chú trọng hưởng thụ cuộc sống tinh thần, nên nghĩ rằng đạo Bồ-tát trong cõi Cực Lạc chẳng bằng đạo thánh nhân trong cõi người. Đây chính là ý nghĩ chấp trước! Người thượng trí đã thông đạt, hiểu rõ đạo lý, quyết định chẳng có ý nghĩ chấp trước như vậy. Người có trí huệ cao nhất thì phải biết: Tâm đã tịnh, cõi nước nhất định thanh tịnh, y báo quyết định chuyển theo chánh báo. Chánh báo thù thắng bao nhiêu thì y báo nhất định cũng sẽ thù thắng bấy nhiêu. Đây là đạo lý đương nhiên! Những sự trang nghiêm bằng bảy báu trong Tây Phương Cực Lạc Thế Giới dựng lập tự nhiên, chẳng phải do toan tính, xây cất mà thành. Còn đền đài lầu các, đồ dùng mỹ lệ của vua Trụ là do bốc lột xương máu của người dân mà tạo thành, là những thứ tạo ra từ ác nghiệp, thì sao có thể đem ra so sánh với y báo trang nghiêm thanh tịnh tột bậc nơi cõi Cực Lạc được chứ? Thật thà mà nói, vua Nghiêu thuở xưa muốn xây cất một túp lều tranh vẫn phải trù tính, vẫn phải có sắp đặt và tốn công hao sức mới xây cất được cái lều tranh ấy. Tây Phương Cực Lạc Thế Giới không cần thiết phải làm vậy, hết thảy nhà cửa, lầu các, lan can, điện đường, phòng gác v.v… trong cõi Cực Lạc đều là tự nhiên hóa thành, còn đơn giản và nhanh chóng hơn việc xây cất cái lều tranh của vua Nghiêu rất nhiều! Lại nữa, chúng ta ở nơi đây coi trọng y báo, cảm thấy đó là phú quý, giàu sang nhưng người trong Tây Phương Cực Lạc Thế Giới chẳng có ý niệm ấy. Do đó, chúng ta học Phật phải biết tâm cảnh cho rõ ràng, chẳng nên chấp trước nơi cảnh mà sanh ra hiểu sai lầm về tâm.

Sách Diễn Nghĩa nói: “Bậc thượng trí ngộ cảnh là duy tâm. Nếu tâm chẳng thấy tâm, thì không có tướng gì để đạt được.” Tâm thanh tịnh thì quyết định chẳng có chấp trước đối với cảnh giới. Người nơi cõi Cực Lạc thấy hết thảy trân bảo trang nghiêm hoàn toàn giống như mộng, huyễn, bọt, bóng, nên dù họ sống trong hoàn cảnh phú quý, sung sướng tột bậc không đâu sánh bằng, nhưng họ chẳng hề có quan niệm tham đắm. Đấy đều là do các nguyện thành tựu của Phật A Di Đà nên hễ ai vãng sanh về đó đều chứng Lậu Tận thông, tức là đắc được cái tâm luôn trụ trong Chánh Định Tụ, luôn mát mẽ dứt sạch các lậu hoặc, chẳng hề khởi lên những ý niệm bất thiện, tham thân, chấp ngã. Như vậy, khi chúng ta đọc kinh, thấy cảnh giới thọ dụng nơi cõi Cực Lạc, chúng ta liễu ngộ được điều gì? Tất cả cảnh giới đều giống như mộng, huyễn, bọt, bóng. Hết thảy sự thọ dụng trong cõi Cực Lạc đều là tùy thuận lòng ưa muốn của từng mỗi chúng dân trong cõi ấy, chớ chẳng có gì là nhất định cả. Tỷ dụ, ta ở trong một cung điện, muốn nó to hơn một chút thì nó bèn tự nhiên to hơn một chút, muốn nó nhỏ hơn một chút thì nó bèn tự nhiên nhỏ đi một chút, muốn nó ở trên không thì nó ở trên không, muốn nó ở trên mặt đất thì nó ở trên mặt đất, v.v…. Như vậy, chẳng phải là giống như mộng, huyễn, bọt, bóng đó ư?

Khi ta vừa nghĩ cung điện là màu vàng ròng thì toàn thể cung điện lập tức biến thành vàng ròng rực rỡ. Khi ta không thích sắc vàng ròng nữa, muốn nó là màu bạc thì toàn bộ cung điện biến thành màu bạc mà chẳng cần bận tâm tí nào, cũng chẳng cần phải ra tay xây dựng, sửa đổi chi cả! Tâm tưởng cái gì, nó liền biến ra cái đó, mọi thứ mọi vật đúng thật là huyễn hóa tạo thành để thuận theo lòng mong muốn. Đây mới đúng thật là công đức viên mãn! Tất cả cảnh vật và hiện tượng nơi cõi Cực Lạc đều biến hóa khôn lường để thuận theo lòng người nhằm mục đích gì? Nhằm thuyết pháp độ sanh! Hiện tượng biến đổi nơi cõi ấy thuyết pháp “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến.” Từ trong cảnh sắc biến đổi đó, người đới nghiệp vãng sanh trong Phàm Thánh Đồng Cư độ liễu ngộ được Chân như Thật tướng, đó là “tất cả cảnh sắc đều chỉ là mộng, huyễn, bọt, bóng,” từ đó họ chẳng còn chấp trước đối với cảnh sắc nữa, chẳng còn ý niệm quý hèn, cao thấp, trên dưới, sạch dơ nữa, bèn đắc Pháp Bình Đẳng, trở thành một vị A Duy Việt Trí Bồ-tát (Đẳng Giác Bồ-tát). Thật vậy, nếu mọi người đều giống hệt như nhau, mọi người đều có thể thuận theo tâm nguyện của chính mình mà biến hóa thành tựu, thì đâu còn có ai hơn ai được, tất cả đều là bình đẳng như nhau.

Phàm phu chúng ta nơi cõi này chẳng được như vậy, mỗi người trong chúng ta có quá nhiều sai biệt, phước báo chẳng đồng, lại chẳng biết hết thảy các pháp đều là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến,” chẳng biết y báo chuyển theo chánh báo. Do đó, chúng ta ở chỗ nào cũng chấp trước, đối với các tướng sai biệt bèn sanh tâm phân biệt, chọn lựa, lấy bỏ mà tạo thành nghiệp luân hồi. Phật A Di Đà biết rõ tập khí phân biệt của chúng sanh, Ngài dựa vào tâm phân biệt ấy mà nói ra hai cảnh giới sai biệt của Sa-bà và Cực Lạc để cho chúng ta hoan hỷ lìa bỏ thế giới Sa-bà, cầu lấy thế giới Cực Lạc. Chúng ta phải thấy rõ dụng ý thuyết pháp của Phật trong kinh Vô Lượng Thọ, phải biết Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra kinh này hoàn toàn là vì bọn phàm phu phân biệt chấp trước, phàm phu chúng ta mới là đối tượng chánh yếu mà Phật muốn độ, còn các bậc thượng căn thượng trí chỉ là kèm thêm mà thôi.

Kinh Kim Cang bảo: “Như Lai là bậc chân ngữ, thật ngữ, như ngữ, chẳng nói sai khác, chẳng nói dối gạt.” Trước khi giảng kinh Vô Lượng Thọ, Đức Như Lai hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang để chứng minh lời nói của Ngài hoàn toàn thành thật, một chút cũng chẳng giả. Cho nên, chúng ta phải hết lòng tin tưởng những điều Phật nói về sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo trong Tây Phương Cực Lạc Thế Giới đều là sự thật, trọn chẳng phải là vọng ngữ, chẳng phải là lời lừa gạt. Sở dĩ Phật thành lập cõi Phàm Thánh Đồng Cư đẹp đẽ trang nghiêm với đầy đủ các thứ thọ dụng như vậy, trước hết là dùng lạc dục như là nhà cửa, cung điện, lầu gác, ao suối, rừng cây, hoa quả, quần áo, trang sức, thức ăn, đồ dùng v.v… để lôi kéo chúng sanh phát lòng hoan hỷ tin ưa, niệm Phật cầu vãng sanh, sau đó mới làm cho họ nhập Phật trí. Đây là phương cách hóa độ chúng sanh của A Di Đà Phật. Tuy Phật dùng dục lạc để dẫn dụ lôi kéo chúng sanh tới cõi Cực Lạc, nhưng tuyệt đối chẳng lừa dối chúng sanh, những cảnh giới đẹp đẽ trang nghiêm trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc đều vĩnh viễn là sự thật, một chút cũng chẳng dối bày.

Tục ngữ có câu: “Chẳng đọc Hoa Nghiêm, chẳng biết sự phú quý trong nhà Phật.” Vậy, có phải là Phật, Bồ-tát ham thích phú quý hay không? Chẳng phải vậy, kinh đã giảng rất rành mạch, hết thảy cảnh giới phú quý trong nhà Phật đều do từ tánh đức tự nhiên hiển hiện, chẳng phải tới từ bên ngoài, cũng chẳng phải do mong mỏi thế này thế nọ mà được. Hết thảy đều là tự nhiên, đều là từ Chân như Bổn tánh lưu lộ ra. Bổn Tánh là tánh đức vốn trọn đủ vạn đức, vạn năng như vậy đó! Tánh đức vốn trọn đủ mọi sự phú quý bậc nhất chẳng gì sánh bằng nổi. Chư Phật thật sự ở trong hoàn cảnh phú quý tột bậc chẳng gì sánh bằng, nhưng các Ngài trọn chẳng có cảm nhận hoàn cảnh ấy là lạc thọ hay chẳng lạc thọ giống như phàm phu chúng ta. Chư Phật, Bồ-tát đã lìa khỏi năm thứ: khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, nên dù các Ngài sống trong cõi phú quý vẫn chẳng cảm nhận vui sướng, dù các Ngài vào địa ngục trông thấy núi đao, vạc dầu vẫn chẳng cảm thấy khổ. Bởi do chư Phật, Bồ-tát chẳng hề sanh lòng tham luyến cảnh vui sướng và cũng không cảm thọ sự khổ trong sáu đường, nên các Ngài có thể rời cảnh vui sướng bất cứ lúc nào, thường xuyên vào chốn khổ nạn cứu độ chúng sanh.

Lục đạo phàm phu chưa kiến tánh, kể cả Thanh văn, Duyên giác và Quyền Giáo Bồ-tát cũng chưa thật sự kiến tánh, nên tuy có tánh đức nhưng bị vô minh phiền não chướng ngại chẳng thể hiện tiền. Do vậy, sự thọ dụng liền biến thành tu đức. Nói cách khác, hiện thời chúng ta phải tu đức đến khi nào tánh đức trong Tự tánh lưu lộ mới có thể thọ dụng phước báo giống như Phật. Nếu chúng ta chẳng tu điều lành ấy, sẽ chẳng thể có phước báo ấy, đó chính là “thiện có thiện báo, ác có ác báo.” Tuy quả báo thiện lành trong thế gian đều do tu mà có, nhưng đó chẳng phải là tánh đức. Tánh đức chẳng cần phải tu mới có, Tánh đức vốn luôn sẵn có, chỉ là tạm thời bị vô minh che lấp nên chẳng thể lưu lộ. Sau khi vãng sanh Tịnh độ, lắng nghe A Di Đà Phật thuyết pháp, thật sự giác ngộ, tánh đức bèn hiển hiện, mọi phú quý tột cùng liền xuất hiện, chẳng cần tu mà hết thảy đều viên mãn. Đây mới là phước báo thường hằng bất biến thật sự, chẳng tăng chẳng giảm cũng chẳng hề mất đi. Còn phước báo do tu thiện pháp mà có chẳng phải là tánh đức nên có thể mất đi.

Kinh Hoa Nghiêm, kinh Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà đều nói: “Do tánh đức tự nhiên lưu lộ nên thọ dụng tự nhiên, chẳng cần lo liệu, chẳng cần cầu lấy, chẳng sanh tham luyến.” Khi chúng ta thật sự hiểu được điều này mới biết vì sao học Phật chỉ để cầu kiến tánh, chẳng nên cầu phước báo nhân thiên. Tu Phật pháp chẳng kiến tánh có được không? Chẳng kiến tánh vẫn được, nhưng chưa kiến tánh thì trong cuộc sống vẫn phải lo toang, suy nghĩ, tính toán, vẫn phải tìm cách này cách nọ để sanh tồn và vẫn còn tiếp tục tạo nghiệp. Nếu kiến tánh thì hết thảy những điều ấy chẳng cần nữa, điều này cho chúng ta thấy tầm quan trọng của sự kiến tánh. Thế nhưng, tu học theo lối thông thường rất khó kiến tánh, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, nếu muốn tu đến mức kiến tánh, chẳng phải là chuyện dễ dàng, nếu chỉ dựa vào năng lực của bản thân chắc chắn chẳng thể làm nổi điều này. Thế mà trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật lại giảng rất rõ ràng: Hết thảy chúng sanh từ địa ngục trong ba đường ác đều có thể cậy vào nguyện lực gia trì của A Di Đà Phật, niệm Phật cầu đới nghiệp vãng sanh, sau khi sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới rồi, tuy chưa kiến tánh, nhưng vẫn có thể sống trong hoàn cảnh chẳng khác gì với người đã kiến tánh, nhờ đó có thể tu hành tự tại mà đạt tới kiến tánh. Kinh lại nói, đây là điều rất khó tin, khó hiểu, chỉ có chư Phật mới thấu rõ điều ẩn mật này; cho nên, nếu chúng ta đem cách suy nghĩ của Giáo Hạ để bàn luận giáo pháp của A Di Đà Phật sẽ chẳng thể nào thông suốt.

Trong kinh Di Đà Yếu Giải, Ngẫu Ích Đại sư nói: “Giáo võng sở bất năng nhiếp” (chẳng thuộc vào trong phạm vi của giáo lý thông thường). Chúng ta chẳng thể lý giải pháp môn Tịnh độ theo lý luận suông của Giáo Hạ, hễ ai thật sự quán chiếu thông suốt huyền cơ trong kinh Vô Lượng Thọ thì tự nhiên phát khởi tín huệ trong pháp khó tin này mà biết rõ: Chỉ riêng mình Tây Phương Cực Lạc Thế Giới mới có hoàn cảnh đặc thù bậc nhất, trong mười phương cõi Phật khác chẳng có chuyện này. Nói như vậy, chúng ta sống trong đời này tu hành mà muốn kiến tánh, muốn bảo đảm vãng sanh, muốn thượng phẩm thượng sanh, có được không? Phật nói được chứ! Phẩm Thọ Ký Bồ-đề của kinh này ghi: Mãi trong đời sau mãi cho đến khi Chánh pháp bị diệt, nếu có chúng sanh nào gặp kinh Vô Lượng Thọ quảng đại này mà nhiếp giữ thọ trì sẽ được rộng lớn Nhứt Thiết Trí Trí. Do đâu mà họ có thể đắc Nhứt Thiết Trí Trí? Do A Di Đà Phật gia trì uy lực ở trong kinh này, nên người nhiếp giữ thọ trì kinh này mới được rộng lớn Nhứt Thiết Trí Trí. Được Nhứt Thiết Trí Trí chính là kiến tánh!

Liên Trì Đại sư và Ngẫu Ích Đại sư đều là những bậc thông suốt cả Giáo, Mật lẫn Thiền, nhưng đến lúc cuối đời cũng phải quy hướng Tịnh độ, chuyên tu Tịnh độ và hoằng truyền Tịnh độ, và trở thành Tổ sư của Tịnh độ tông. Đấy đã chỉ cho chúng ta thấy, một khi đã quán chiếu thông suốt kinh Tịnh độ, một lòng quy hướng Tịnh độ thì đó chính là kiến tánh. Nếu quán chiếu chưa thông tức chưa kiến tánh, nên chẳng thể phát nổi lòng tin ưa chân thật đối với pháp môn này. Thật thà mà nói, những người thật sự kiến tánh, thật sự thông đạt giáo lý Tịnh độ một cách đúng đắn giống như Liên Trì Đại sư và Ngẫu Ích Đại sư chẳng có mấy ai. Kẻ chưa thông đạt, thấu triệt pháp môn Tịnh độ thì quá nhiều quá nhiều, họ thường luôn biểu lộ sự hoài nghi đối với pháp môn này nơi ba nghiệp thân, ngữ, ý. Dẫu họ chẳng hoài nghi đối với pháp môn này, dẫu họ đã phát nguyện vãng sanh, nhưng do không chịu tu học đúng theo kinh Vô Lượng Thọ, một bộ kinh được A Di Đà Phật đặc biệt gia trì oai lực, lấy lục đạo phàm phu làm đối tượng để giáo hóa và gia trì, nên Tín-Nguyện-Hạnh không thể xứng tánh, tức không tương ứng với bổn nguyện của A Di Đà Phật. Do không chịu tu học theo kinh điển này nên chẳng có tín huệ nơi pháp môn Tịnh độ. Do không có nhận thức triệt để rõ ràng về pháp môn Tịnh độ nên dẫu có tin tưởng, có phát tâm niệm Phật, nhưng đó chẳng thể gọi là tín huệ mà chỉ là lòng tin ưa phát xuất từ tình cảm nhất thời mà thôi, lúc gặp duyên khác bèn sanh tâm thối chuyển, hư ngụy. Chỉ có lòng tin phát xuất từ quán chiếu thông suốt mới gọi là tín huệ.

Tỷ dụ, nếu có một địa phương gặp lúc thiên tai, mất mùa, đói lạnh, nhà cửa tiêu tan, nơi đó chẳng có cái ăn, cái mặc, cái ở, cuộc sống rất khổ sở. Bổng dưng người trong địa phương ấy nghe nói ở nơi khác có hoàn cảnh sống hết sức tốt đẹp, họ nhất định tìm đủ mọi cách để rời khỏi chỗ đói lạnh này, đến nơi no ấm kia. Đây là tỷ dụ để cho chúng ta thấy vì sao Đức Phật phải đồng thời nói ra cả hai cảnh giới Sa-bà và Cực Lạc. Phật thuật lại hoàn cảnh sinh hoạt của hai cõi này để cho phàm phu chúng ta thấy rõ bên đó là chỗ no ấm an vui, nơi đây là chỗ đói lạnh khốn khổ. Nếu chúng ta hoàn toàn tin tưởng lời Phật nói là sự thật bằng trí tuệ quán chiếu thông suốt, chẳng mảy may hoài nghi, thì tất nhiên phải biết chọn bên nào rồi. Lại nữa, nếu có người bị nhốt trong vách núi tối tăm, không thấy chỗ thoát ra, bổng dưng thấy quang minh từ nơi nào đó soi vào, lẽ đâu người ấy chẳng theo quang minh ấy mà bò ra? Tuy đây đều là lý lẽ thường tình của con người nhưng lại chính là tín huệ. Tín huệ là niềm tin dựa trên cái thấy biết như thật của một người rất bình thường, chẳng đòi hỏi phải có trí thông minh, học vấn cao của thế tục mới gọi là tín huệ. Đức Phật thấu rõ tâm lý của chúng sanh, Ngài chẳng hề nói gì khác với lý lẽ thường tình mà con người chẳng thể hiểu được, mà lý lẽ thường tình đó lại chính là chân tướng của sự thật.

Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật đặc biệt nói rất cặn kẽ rõ ràng về y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương, dụng ý là dùng lạc dục để lôi kéo chúng sanh thoát ra khỏi tam giới, rồi sau đó mới ban cho chúng sanh cái lợi chân thật. Lợi ích chân ấy là gì? Chính là sự giác ngộ viên mãn thành Phật! Giống như trong kinh Pháp Hoa, vì muốn lôi kéo các con trẻ ham chơi ra khỏi căn nhà lửa, ông trưởng giả phải dùng những thứ bình thường mà trẻ con ưa thích như là xe dê, xe lừa, xe trâu trắng lớn để dẫn dụ chúng. Sau khi các con chịu ra khỏi nhà lửa rồi, ông trưởng giả bèn trao cho các con cùng một xe trâu trắng lớn giống hệt như nhau. Người hạ căn muốn pháp nhỏ, Phật ban cho pháp nhỏ. Người thượng căn muốn pháp lớn, Phật ban cho pháp lớn. Nhưng cuối cùng ai nấy đều được cái quả cao tột nhất, đó chính là Nhứt Thiết Trí Trí, cũng tức là Phật quả cứu cánh. Phật A Di Đà biết rõ tâm lý bình thường của phàm phu chúng sanh ưa thích pháp nhỏ phước báo nhân thiên, e sợ pháp lớn Vô Thượng Bồ-đề, cũng giống như ông trưởng biết rõ tâm lý của các con chỉ ưa thích xe dê nhỏ, chẳng dám nhận xe trâu trắng lớn, nên mới hóa hiện ra cõi Phàm Thánh Đồng Cư có đầy đủ vô lượng các thứ lạc dục trang nghiêm như trong cõi trời Dạ Ma để lôi kéo chúng sanh về đó. Một khi được vãng sanh về đó, liền được nghe Phật A Di Đà giảng pháp, bèn triệt khai triệt ngộ, kiến tánh thành một vị A-Bệ-Bạt-Trí Bồ-tát, một đời thành Phật, chứng luôn ba cõi Tịnh độ kia. Cho nên, chúng ta không thể xem Phàm Thánh Đồng Cư chỉ là một coi trời như nhiều người trong Phật môn lầm tưởng, mà đây chính là một trường học để thành Phật thù thắng độc nhất, chẳng có trong các cõi Phật phương khác.






    « Xem chương trước «      « Sách này có 1496 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.16.47.89 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (251 lượt xem) - Hoa Kỳ (16 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Đức quốc (3 lượt xem) - Saudi Arabia (3 lượt xem) - Nga (2 lượt xem) - Hungary (1 lượt xem) - ... ...