Thuở ấy ngài A Nan cùng thính chúng đồng nghe mười phương chư Phật bảo rằng: “Này ông A Nan, cái gì khiến cho ông không chứng vô thượng bồ đề? Đó chính là sáu căn của ông chứ không phải cái gì khác! Cái gì làm cho ông luân hồi sanh tử? cũng chính sáu căn của ông chứ chẳng phải vật gì khác”
Nói vậy hóa ra toàn bộ việc tu học Phật pháp không ngoài việc tu sáu căn của mình! Dễ vậy sao? Đơn giản vậy sao? Tưởng là vậy nhưng muôn vàn khó khăn, bởi vậy mà bao đời rồi chúng ta vẫn cứ mãi sanh tử luân hồi trong ba ngã sáu đường. Nếu dễ thì chúng ta đã liễu sanh thoát tử hết cả rồi! Tu sáu căn hay nói bằng ngôn từ Phật học là thu nhiếp lục căn, đây là một quá trình dài lâu, gian khó để thanh tịnh tâm, để chuyển phàm thành thánh và đi đến niết bàn tịch tịnh, ra khỏi sanh tử luân hồi.
Sáu căn gồm: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Trong sáu căn đó thì năm căn đầu là vật chất nhận biết và nắm bắt được. Riêng ý căn là khái niệm trừu tượng, khó hình dung nhưng chính ý căn lại là chủ, nếu không có ý căn thì năm căn kia cũng vô dụng.
Nhãn căn (mắt) nhờ ý căn (tánh thấy) tiếp xúc với ngoại vật nhận biết sắc màu: xanh, đỏ, tím, vàng…Biết được vật chất hình thù to, nhỏ, vuông, tròn… Khi tiếp xúc với sắc trần, đồng thời những chủng tử trong A Lại Da thức lập tức khởi dụng; vừa thọ nhận là lập tức tưởng… vì thế sanh ra phân biệt: xấu – đẹp, tế - thô và đi đến yêu – ghét, thích – chán, lấy – bỏ…Và rồi ta chấp chặt, dính mắc vào đó. Điều này không chỉ trong phút giây hiện tại, không chỉ trong đời này mà đã từng vô số kiếp như thế và sẽ còn tiếp tục như vậy (khi mà chưa ra khỏi sanh tử luân hồi).
Nhãn căn đã thế nên nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn.. cũng y như thế! Vì thế mà Phật nói sáu căn tiếp xúc sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) thì sanh ra sáu thức tức 18 giới. 18 giới chính là tâm cảnh chứ không phải vật cảnh. 18 giới là dòng ý thức liên lỉ không dừng dứt bao giờ, nó chính là mạt na thức, là bản ngã còn những dữ liệu (hạt giống – chủng tử) của nó tức ký ức thì là ở A Lại Da thức. 18 giới tâm cảnh luân lưu chuyển tiếp vô cùng tận ngay cả khi xác thân vật chất tức năm căn kia đã tan hoại. Năm căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đã tan rã không còn nhưng ký ức (hạt giống) ở A Lại Da thức tức nghiệp lực thiện – ác vẫn không mất đi mà nó lại nhờ nhân duyên hội tụ để có một xác thân vật chất tương ưng với hành nghiệp thiện – ác cũ.
Mười tám giới tâm cảnh, tức sáu thức do sáu căn tiếp xúc sáu trần là nói giản lược, tóm gọn. Nếu mở rộng ra thì mười pháp giới, vô tận pháp giới bao trùm cả trời, người, phi nhơn, vạn vật muôn loài, sơn hà đại địa cho chí vũ trụ hư không.
Chúng ta là những kẻ vô minh, vì không nhận biết cái thân của ta là giả hợp, là duyên tụ hội của các yếu tố: đất, nước, gió, lửa, không đại, thức đại… Nó không thật có, nó không phải là ta không của ta, không tự ngã ta…Nhưng bản ngã mê lầm chấp là ta, của ta, bản ngã ta… nên mới cầu cho nó như thế này đừng như thế kia. Nó đã tụ hội vì duyên thì nó cũng sẽ tan hoại vì duyên. Chúng ta chấp chặt cho là thật. Sáu căn chấp sáu trần đầy mờ ảo, vọng tưởng. Chúng ta chấp vật chất là thật, danh tiếng ngôi vị là thật, tài sắc, ăn uống, ngủ nghỉ là thật nên tranh đoạt, giữ lấy… tiếc thay không thể được nên chúng ta đau khổ, sân hận, si mê. Mắt thích đẹp ghét xấu, tai thích âm thanh êm ái ghét âm không vừa ý, mũi thích thơm ghét thối, lưỡi thích vị hợp ý ghét vị không vừa lòng, thân thích xúc chạm cảm giác sướng ghét xúc chạm cảm giác không như ý…Chúng ta chấp chặt vào đó, thèm khát, (nhất là với tình dục), thèm khát mà khó có thể thõa mãn hay vừa ý… ấy chính là cái gốc sanh tử luân hồi. (không thõa mãn nên tâm thức tiếp tục duy trì sự tìm kiếm ở kiếp tiếp theo).
Phật nói ông A Nan thăng hay đọa, liễu sanh thoát tử hay sanh tử luân hồi là do chính sáu căn của ông chứ không có một vật nào khác hay một ai khác! Phật pháp chính là buông xả, xả thọ tức là thu nhiếp lục căn, tu sáu căn. Sống chanh niệm, thấy biết nó như là nó (look as is it), không để cái ý thức, tâm ý của ta thêm vào đó nào là xấu – đẹp, thô – tế, lợi – hại, yêu – ghét, lấy – bỏ…Sáu căn dính sáu trần mà ra sáu thức, mười tám giới nhưng chung quy chính là một niệm tâm. Một niệm tâm sanh ra mười pháp giới, một niệm tâm bao hàm khắp các pháp giới. Bởi vậy mà nhà Phật mới có chuyện hạt cải chứa núi Tu Di, núi Tu Di trong hạt cải. Một hạt cải hay hạt bụi cũng thế thôi, mở ra trùng trùng vô tận pháp giới nhưng quy về thì một niệm tâm vo tròn trong hạt bụi. Hòa thượng Điểu Khòa thời nhà Đường, khi có kẻ hỏi Phật pháp là gì thì ngài bứt một sợi lông thổi. Một hạt bụi, một sợi lông hay một niệm tâm ấy chứa vô tận pháp giới thì Phật pháp cũng không ngoài.
Tu học Phật pháp là tu tập sáu căn của chính mình. Các tông môn pháp phái khác nhau. Các dòng truyền thừa sai biệt nhau về phương pháp hành trì, khác về hình thức hay hình tướng… nhưng chung quy cũng không ngoài tu tập sáu căn để quy về một niệm tâm. Nguyên Thủy – Nam tông tu phương pháp Tứ niệm xứ quy về một niệm tâm. Thiền tông Đông Độ tu thiền, tham khán thoại đầu, công án cũng quy về một tâm. Tịnh Độ tông tu niệm Phật nhất tâm bất loạn cũng là một niệm tâm. Kim Cang thừa tu niệm kinh – chú cũng quy về một niệm tâm. Thậm chí phương pháp vô cùng đặc dị của các hành giả thượng thừa của Phật giáo Tây Tạng là dùng phương pháp giao hợp mà không sanh khởi một niệm tâm…Tu sáu căn chính ta tu hành vi, ứng xử, nhận thức, làm chủ dòng tâm thức của mình. Thấy, biết bản chất thật của sự vật, sự việc đúng như nó, không để sáu trần mê hoặc sáu căn, không để tâm ý thức làm loạn. Tu sáu căn là không phóng dật, ly dục, ly ác pháp… muốn phòng hộ sáu căn thì sống độc cư, tu chánh cần, tứ niệm xứ, pháp thân hành niệm…Trong kinh Vô Ngã Tướng đức Phật nói rõ: “tâm nhàm chán đối với sắc, thọ, tưởng hành, thức… do nhàm chán nên ly tham, do ly tham nên tâm được giải thoát. Khi tâm được giải thoát vị ấy chứng đắc tuệ giải thoát và biết rõ sự sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm và không còn tái sanh nữa”.
Tu sáu căn là chuyển đổi tâm niệm, thanh tịnh hóa tâm niệm. Mình nhìn nhận ra cái sự thật của chính thân mình, tâm mình cũng như của vận vật muôn loài cho đến sơn hà vũ trụ… Cơ bản là không có một vật gì tồn tại độc lập, tất cả là do duyên hợp, do những nguyên tố hợp thành. Ví dụ từ một nguyên tố ô xy với hai nguyên tố hydro mà thành nước (H2O), nếu tách hydro và ô xy ra thì cũng chẳng có nước! Vật chất không thực sự tồn tại, nó là kết hợp của những proton, neutron, electron tạo ra nguyên tử các nguyên tố, các nguyên tử hợp thành các phân tử vô cơ hoặc hữu cơ… Màu sắc, thanh âm cũng không thật, đó là những bước sóng mà tai và mắt ghi nhận được. Tai mắt chúng ta cũng rất hạn chế chỉ có thể nhận biết được ở một mức độ nhất định. Ví dụ tai ta chỉ có thể nghe được sóng âm trong ngưỡng 20 hertz đến 20 hertz, mắt chỉ nhìn thấy ánh sáng trong ngưỡng 380 nm – 720 nm còn ngoài cái ngưỡng ấy ra thì đành chịu thôi! Xác thân vật chất cấu tạo từ những nguyên tố cơ bản nhất như các acid Amin và các phân tử nước. Tất nhiên sự cấu thành vô cùng phức tạp bởi vô số điều kiện cần và đủ, điều này nhà Phật gọi là trùng trùng duyên khởi. Đấy là những sự thật mà chúng ta mê mờ nên cho thân ta thật, sáu căn thật, rồi dính vào sáu trần, rồi chấp vào sáu thức mười tám giới và vì thế mà sanh tử luân hồi không bao giờ dứt.
Chúng ta có xác thân, có tâm ý đã trôi lăn ba ngã sáu đường ở cõi dục giới. Nếu sáu căn thanh tịnh thì sau khi bỏ xác thân có thể tái sanh ở sắc giới, nghĩa là chỉ có tâm cảnh chứ không còn xác thân vật chất. Càng thanh tịnh hơn nữa thì nhập vào vô sắc giới và tột đỉnh thì tịch tịnh niết bàn. Nói thì đơn giản vậy nhưng thực hành là cả một hành trình vô lượng kiếp. Tu sáu căn để thanh lọc tâm ý vì từ sáu căn mà tạo ra những nghiệp lực thiện – ác. Chính nghiệp lực thiện – ác đưa ta vào luân hồi hay ra khỏi sanh tử luân hồi. Kinh Thập Nhị Nhân Duyên nêu rõ: “Không thức không danh sắc/ không danh sắc không lục nhập/không lục nhập không xúc/ không xúc không cảm thọ/ không cảm thọ không ái/ không ái không thủ/ không thủ không hữu/kông hữu thời không sanh/ không sanh không lão tử/sầu bi khổ ưu não/ toàn bộ khổ uẩn này/ không hình thanh tập khởi”
Tu tập sáu căn là vậy nên các thiền sư bảo “mặc áo ăn cơm cũng là Phật pháp”. Khi xưa Phật còn tại thế chế ra pháp khất thực, ngày ăn một bữa, thức ăn trong một bình bát, đêm ngủ gốc cây, một gốc cây không được quá ba đêm… Tất cả đều nhằm mục đích không để sáu căn dính mắc sáu trần. Thiền tông Đông Độ có chuyện kể một vị sư Nhật Bản đến Trung Hoa tham học. Ông thấy người điển tòa suốt ngày chẻ củi, gánh nước, nấu cơm nên cười chê là không biết Phật pháp. Vị điển tòa ấy bèn bảo với vị thiên sư Nhật kia: “Ơ ông khách này không biết đấy là Phật pháp à!”. Chính những việc nhỏ nhặt tầm thường ấy cũng là Phật pháp vì hành giả đang thu nhiếp lục căn của chính mình, tất nhiên Phật pháp hay tu học không chỉ có mỗi mặc áo ăn cơm hay chẻ củi gánh nước.
Tu tập sáu căn, thu nhiếp sáu căn tưởng dễ mà không dễ tí nào, tưởng khó nhưng cũng có thể thực hành. Chính sáu căn của ta chấp vào sáu trần nên dòng tâm thức của chúng ta loạn động không bao giờ ngưng dù chỉ là khoảnh khắc. Sáu căn dính sáu trần nên ngay cả khi ngủ (tức năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đã hoàn toàn khép lại) nhưng ý căn không hề nghỉ, nó vẫn âm thầm hoạt động. Nó chính là tánh thấy, tánh nghe, tánh ngửi, tánh biết… vẫn âm thầm túc trực ở các căn. Ý căn vẫn hoạt động nên mới có những giấc mơ, mơ lành hay mơ dữ tùy vào sự khởi dụng của những hạt giống thiện – ác trong A lại Da thức. Dòng tâm thức không bao giờ dứt khi nào mà chúng ta còn chưa chấm dứt sanh tử luân hồi. Chính vì vậy mà đức Phật mới bảo với ngài A Nan và đại chúng rằng chính sáu căn của ông làm cho ông chứng đắc vô thượng bồ đề hay sanh tử luân hồi.
Lãng Thanh
Ất Lăng thanh, 1025