I. CƠ DUYÊN VÀ PHƯỚC LÀNH CỦA TÔI Sau nhiều năm sống long đong, cơ cực và nặng nhọc về nhiều phương diện vì chiến tranh triền miên, gia đình gặp nhiều khó khăn. May sao, khoảng 1965, tôi được nhận vào làm việc tại Tòa Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, và sau đó được ở tại nội xá của Viện phòng 412 (222 Trương Minh Giảng, Sài Gòn).
Tại đây, tôi được Thượng tọa Thích Minh Châu, Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh giao cho việc in ấn, phát hành toàn bộ Kinh, sách của Viện. Tiếp đó Thượng tọa giao tôi làm Thư ký tòa soạn tạp chí Tư Tưởng - cơ quan luận thuyết của Viện Đại học Vạn Hạnh và Van Hanh Bulletin (chọn lọc một số bài trong tạp chí Tư Tưởng, viết tóm tắt lại bằng tiếng Anh). Hội đồng Viện bổ nhiệm tôi làm Trưởng phòng Tu Thư chuyên lo in ấn, phát hành Kinh sách Phật học, sách giáo khoa, sách tham khảo thuộc về nhiều lĩnh vực cho các Phân khoa thuộc Viện và nhiều Kinh, sách khác do Tu Thư Đại học Vạn Hạnh xuất bản và phát hành.
Viện Đại học Vạn Hạnh có truyền thống rất tốt đẹp và có ý nghĩa, đó là trong những dịp trọng đại như: Ngày khai giảng năm học mới, Đại lễ Phật Đản, Vu Lan, ngày Đức Phật Thích Ca thành Đạo, ngày Lễ tốt nghiệp… (Cao học Phật học cho các tăng, ni và sinh viên Phân khoa Phật học; Cử nhân cho các phân khoa khác) đều phát hành và giới thiệu một tác phẩm mới, phần lớn là những tác phẩm thuộc loại phiên dịch hoặc biên khảo của Thượng tọa Thích Minh Châu. Cụ thể: Trường Bộ Kinh tập III phát hành nhân Đại lễ Phật Đản 2516 - 1972; Trường Bộ Kinh tập IV nhân Lễ Vu Lan 2516 - 1972; Trung Bộ Kinh tập II, Phật Đản 2518 - 1974 và Trung Bộ Kinh tập III ngày Đức Phật Thành Đạo 2518 - 1974… Các tập Kinh này đều hơn 1.000 trang/tập.
Với trọng trách Viện trưởng Viện Đại học Phật giáo đầu tiên của cả nước, Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong bối cảnh chính trị, kinh tế còn nhiều khó khăn và phức tạp cả về đối nội và đối ngoại, cộng với nhiều công tác về giáo dục, văn hóa, xã hội và Phật sự. Vì vậy mà Thượng tọa Minh Châu rất bận rộn. Nếu không có một phương pháp làm việc nghiêm túc, đam mê, tâm huyết và khoa học ở mức độ cao nhất thì Thượng tọa khó có thể hoàn thành được một khối lượng công việc đồ sộ và giá trị như thế!
Ý chí, nghị lực, tài năng, trí tuệ, đạo hạnh và phương pháp làm việc của Thầy đã dạy cho tôi những bài học vô cùng quý giá và việc làm của Thầy vì lợi ích cho đời này và đời sau đã lôi cuốn tôi lao vào công việc, đã làm cho tôi cảm thấy thích thú và ý vị. Vì thế, nhiều đêm thức trắng, nhiều buổi trưa ngủ ngay trên đống giấy vụn ở nhà in, nhiều lần chở Kinh sách đi phát hành… tôi vẫn thấy khỏe khoắn, vui tươi và tâm hồn rất nhẹ nhàng, thanh thản.
Do tính chất chuyên môn của công việc, tôi có nhiều cơ hội và điều kiện tiếp cận, đọc, in ấn, phát hành kinh sách Phật giáo và các công trình nghiên cứu, dịch thuật về Phật học, văn học, khoa học xã hội… của quý Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Giáo sư, Học giả như Thích Minh Châu, Thích Mãn Giác, Thích Trí Tịnh, Thích Đức Nhuận, Thích Quảng Độ, Thích Nguyên Hồng, Thích Chơn Thiện, Thích Nữ Trí Hải, Tuệ Sỹ, Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát, Thích Nguyên Tánh (Phạm Công Thiện), Học giả Trúc Thiên, Giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Giáo sư Trần Ngọc Ninh, Kỹ sư Ngô Trọng Anh, Học giả Giản Chi, Giáo sư Lê Tôn Nghiêm, Giáo sư Dương Thiệu Tống; các nhà nghiên cứu Phật học như Tống Hồ Cầm, Nguyễn Bá Lăng, Nguyễn Hữu Ba, Võ Đình Cường… v.v và v.v. Tôi lại được sống những năm tháng thơ mộng, chân tình, có ích và đáng nhớ ở nội xá, Thiền viện Vạn Hạnh với những con người trí thức, đạo hạnh như các Thầy Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Phạm Công Thiện, Thích Phước An, Thích Chơn Nguyên, nhà thơ kỳ dị, tài hoa bậc nhất: Bùi Giáng… và với các bạn vốn rất đam mê nghiên cứu Phật học như Trần Xuân Kiêm, Trần Tuấn Mẫn.
Thời gian này tôi khá bận rộn vì ngoài công việc chính đã nêu, tôi còn phải sắp xếp thời gian theo học Cử nhân Xã hội học, Cử nhân Báo chí học, sau đó là Cao học Sử học, cùng lúc làm Hiệu trưởng một trường Bồ Đề tại Bảy Hiền, quận Tân Bình và theo học nghề in tại Ấn quán Nguyễn Bá Tòng (quận Nhứt). Tuy bận bịu với công việc và lo toan nhiều bề cho cuộc sống đời thường, đặc biệt là sợ bị “bắt lính”, nhưng do cảm thấy tâm hồn thoải mái và niềm say mê thực sự với công việc, nên nay - hơn bốn mươi năm - nhìn lại, tôi cảm nhận sâu sắc và chân tình rằng đây là những năm tháng tôi sống vui vẻ, thanh thản, hạnh phúc và có ích nhất trong cuộc đời của mình. Trong thời gian làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh, tôi và người bạn rất thân là Nguyễn Văn Long đã in ấn, trình bày bìa, phát hành các tác phẩm trong tủ sách Kinh Tạng Pàli do Thượng tọa Thích Minh Châu phiên dịch (Pàli - Việt đối chiếu) và rất nhiều tác phẩm khác của Thượng tọa.
Tôi rất may mắn và được hưởng cơ duyên lớn là được gần gũi, được làm việc nhiều năm liên tục ở Tòa Viện trưởng, trực tiếp nhận việc do Thầy Minh Châu giao, được đọc nhiều tác phẩm của Thầy kể cả các bản thảo, được nghe Thầy giảng dạy về Phật học, được Thầy làm lễ quy y Tam bảo và ban cho Pháp danh là Nguyên Tánh… Nói chung, tôi hưởng được nhiều lợi ích và phước lành không nói được bằng lời. Vì vậy, tôi xin phép được ghi lại vài điều mà tôi biết và cảm nhận về Hòa thượng Thích Minh Châu, nguyên Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh (1965-1975), người Thầy mà tôi thực sự ngưỡng mộ và tôn kính.
- Ôn làm việc rất điều độ với sự say mê, yêu thích công việc mình làm cộng với một năng lực và ý chí phi phàm. Ôn ăn uống đơn giản. Người thị giả phục vụ cho Ôn là anh Hồng. Ôn dùng bữa một mình, không cho ai hầu hạ đứng một bên quạt cho mình. Tiêu chuẩn phần ăn của Ôn cũng giống như các Thầy và anh chị em nhân viên Vạn Hạnh ở nội xá chỉ “hơn” chúng tôi 1 - 2 trái chuối hoặc 1 đĩa trái cây nhỏ và 1 khăn lạnh. Chỉ có như vậy và đó là sự thật!
- Cả một đời Ôn tập trung sức lực, tâm huyết và trí tuệ cho sứ mệnh phát triển nền giáo dục nước nhà nói chung và đặc biệt cho nền văn hóa giáo dục Phật giáo Việt Nam nói riêng. Với cương vị và trách nhiệm nặng nề của Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Giáo dục thuộc Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Ôn đã xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống trường Bồ Đề trên phạm vi cả nước. Là Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh, Ôn đã góp phần đáng kể nếu không muốn khẳng định là phần quan trọng nhất, quyết định nhất trong việc duy trì, phát triển thế, lực vững chắc của một cơ sở giáo dục Đại học Phật giáo, trong việc thực hiện tôn chỉ, phương châm: “DUY TUỆ THỊ NGHIỆP” để khẳng định uy tín và chất lượng giáo dục của Viện Đại học Vạn Hạnh trong và ngoài nước. Nếu không kiên trì và quyết tâm thực hiện bằng được tôn chỉ, mục đích đó với cái tâm cực kỳ thanh tịnh và trong sáng, với một bản lĩnh và trí tuệ siêu việt thì người chèo chống con thuyền Vạn Hạnh nếu không phải là Ôn thì Viện Đại học Vạn Hạnh chắc chắn khó có thể tồn tại sau những biến động chính trị dữ dội và những toan tính của nhiều phe nhóm…
Được gần gũi bên Ôn, tôi hiểu phần nào tâm trạng của Ôn. Ngoài sự kính trọng và lo lắng, tôi chẳng biết làm, biết nói gì với Thầy tôi cả! Tôi chẳng làm được một điều gì đó dù rất nhỏ nhoi cho Thầy tôi cả! Đáng tiếc và cũng đáng thương cho tôi!
- Hình ảnh ấn tượng nhất mà hầu như tất cả sinh viên Vạn Hạnh đều nhớ đến Thầy Minh Châu là cứ mỗi chiều vào một giờ nhất định, Ôn đi bộ rất nhiều vòng ở hành lang rộng, thoáng và khá dài của Viện Đại học Vạn Hạnh. Với phong thái tự tại, đĩnh đạc, với nụ cười hiền hòa và thái độ cởi mở, dễ gần, chân tình như một vị Cha già; anh chị em sinh viên Vạn Hạnh với đủ mọi lứa tuổi, nhiều thành phần xã hội, với nhiều tôn giáo khác nhau, nhưng hầu như tất cả đều thực lòng kính mến, quý trọng và khâm phục Ôn - Nhiều người gọi Ôn là Ôn Di Lặc!
Từ tháng 5 năm 1975, tuy không còn được tiếp tục học tập dưới mái trường Vạn Hạnh thân thương nữa, nhưng các thế hệ sinh viên Vạn Hạnh, anh chị em làm việc tại Vạn Hạnh và kể cả rất nhiều giáo sư Vạn Hạnh ở trong hay ngoài nước thông qua Hội Cựu Sinh viên Vạn Hạnh mỗi năm đều hội tụ về Thiền viện Vạn Hạnh để tham dự các ngày Lễ: Phật Thích Ca Thành đạo, Đại lễ Phật Đản và ngày kỷ niệm sinh nhật Ôn.
Ôn mang đến sự an lạc, vui vẻ cho mọi người nên khiến chúng tôi thấm thía hơn, tâm đắc hơn khi cảm nhận lời của tướng Mac Arthur: “… điều vĩ đại chính là điều đơn giản và sức mạnh chân chính nằm trong sự dịu dàng”.
II. VỀ VIỆC DỊCH KINH TẠNG PÀLI RA VIỆT VĂN Trường Bộ Kinh tập I được in năm 1965. Trong Lời Giới thiệu, (Phật lịch 2508. Sài Gòn 01.02.1965) Thượng tọa Thích Trí Quang, Tổng thư ký Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có viết:
“Trước ngày trăng tròn 2508, Viện Tăng Thống quyết định khuyến khích sự phiên dịch Tam Tạng thuộc văn hệ Pàli và Hoa văn. Riêng văn hệ Pàli, Thượng tọa Minh Châu phát nguyện phiên dịch, và sẽ được xuất bản tuần tự từng tập một.
Tam Tạng thuộc văn hệ Pàli là tài liệu tương đối chính xác của tư tưởng hệ Phật giáo Nguyên Thỉ, hiện vẫn là kinh sách căn bản của hết thảy Phật giáo ở các quốc gia Tích Lan, Thái Lan, Ai Lao, Miến Điện, Cao Miên và quốc mẫu Phật giáo là Ấn Độ.
Với Tam Tạng quan trọng như vậy, ban đầu Viện Tăng Thống nghĩ tổ chức một hội đồng phiên dịch và kiểm duyệt cho viên mãn. Nhưng sau thấy như vậy sẽ khó thực hiện được trong tình trạng Phật giáo hiện tại, một tình trạng “cây muốn lặng mà gió không ngừng”. Viện lại thấy công tác phiên dịch Tam Tạng Pàli không thể trì hoãn nên thà tạm làm bởi một người, huống chi người ấy là Thượng tọa Minh Châu, bác sĩ văn học Pàli xuất xứ từ Nalanda, nơi xưa kia đào tạo ra ngài Huyền Trang. Về sự nhuận sắc, Viện Tăng Thống có ý kiến hãy để y nguyên dụng ngữ và văn khí của Thượng tọa Minh Châu, vì lẽ ai đã từng đọc dịch văn của ngài La Thập và ngài Huyền Trang thì thấy rõ là có những văn khí và từ ngữ mà nhìn vào là tức khắc biết của ngài nào, chứa đựng ý nghĩa gì.
Viện Tăng Thống thiết tha cầu nguyện Phật giáo Việt Nam song song phát triển 3 mặt: học lý, tổ chức, và hộ pháp. Phải có ba phần ấy, Phật giáo Việt Nam mới có nội dung và hình thức mới có bề sâu và bề rộng, mới còn và còn một cách có ý nghĩa. Công tác phiên dịch nằm trong công tác hoằng pháp, trở nên tối trọng đại chính là vì thế”.
Trong Lời Tựa Trường Bộ Kinh, tập I, (ngày 28/5/1965), Thượng tọa Thích Minh Châu viết (trích):
“Ba Tạng Pàli gồm Kinh, Luật và Luận. Kinh tạng có 5 bộ: Digha Nikàya (Trường Bộ Kinh), Majjhima Nikàya (Trung Bộ Kinh), Samyutta Nikàya (Tương Ưng Bộ Kinh), Angutta Nikàya (Tăng Nhứt Bộ Kinh) và Khuddaka Nikàya (Tiểu Bộ Kinh hay Tạp Bộ Kinh).
“… Để khuyến khích học giả, sinh viên và Phật tử nghiên cứu kinh điển chữ Pàli, chúng tôi cho in bản Pàli, song song với bản chữ Việt, một sự cố gắng cần nhiều thiện chí mới có thể thực hiện trong khi ở Việt Nam rất ít nhà in có thể in được chữ Pàli. Chúng tôi dùng bản Pàli của hội Pàli Text Society, một bản tương đối chính xác hơn cả. Lẽ dĩ nhiên, khi in chữ Pàli thì giá sách tăng lên gấp hai ba lần. Nhưng trong vấn đề nghiên cứu và phụng sự học vấn, giá tiền không thể là một trở ngại cho những ai tha thiết hiểu biết và nghiên cứu.
“Tập sách này nằm trong loại Tùng thư tiếng Pàli của Viện Đại học Vạn Hạnh tuần tự xuất bản. Trung thành với tôn chỉ thống nhất của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Viện Đại học Vạn Hạnh dạy cả hai hệ thống Nam Tông và Bắc Tông với hy vọng đi đến một sự dung hòa thống nhất thực sự giữa hai tông phái căn bản của đạo Phật. Và bước đầu đi đến sự thông cảm là sự hiểu biết kinh điển lẫn nhau. Cho in tập Trường Bộ Kinh này là hướng đến mục đích ấy. Chúng tôi cho in Pàli Việt đối chiếu từng trang để dễ so sánh tìm hiểu. Nhưng vì chữ Việt dài hơn, nên nhiều khi phải dùng thêm trang Việt, và do vậy phải đánh số trang trùng nhau, mong độc giả chú ý. Ở đây chúng tôi xin ghi ân Viện Tăng Thống và Thượng tọa Thích Trí Quang đã khuyến khích, giúp đỡ tôi dịch và xuất bản tập này. Cử chỉ cao đẹp ít có ấy chỉ có thể đến với những vị chân thành yêu quý văn hóa và tha thiết phụng sự hiểu biết.”
Ở đầu tập Kinh này, Thượng tọa Thích Minh Châu có ghi Lời nguyện của dịch giả như sau: “Tiền bán được tập Kinh này sẽ cúng tất cả vào quỹ Tu Thư của Viện Đại học Vạn Hạnh để tiếp tục in các tác phẩm khác.”
Trong rất nhiều Kinh sách và các công trình nghiên cứu, biên khảo, dịch thuật do Tu Thư Vạn Hạnh xuất bản, trong đó có cả việc quay ronéo “cours” với số lượng rất lớn cho sinh viên tất cả các phân khoa của Viện Đại học Vạn Hạnh, tôi nhớ nhất là lần in bộ Trường Bộ Kinh (Digha - Nikaya) (4 tập), Trung Bộ Kinh (Majjhima - Nikaya) (3 tập), Tương Ưng Bộ Kinh và Kinh Lời Vàng - (Pháp Cú Kinh - Dhammapda).
* Về việc in Trường Bộ Kinh và Trung Bộ Kinh Nhiệm vụ của tôi trong thời điểm này là: cứ từ 7 giờ 00 đến 7 giờ 30 mỗi sáng, tôi tự động vào phòng làm việc của Thượng tọa Viện trưởng nhận xấp “bản thảo” do “Ôn” Minh Châu để sẵn trong một cái khay đan bằng mây rất đẹp. Ôn viết bằng bút máy, mực màu xanh trên giấy trắng khổ 21 x 33cm. Số lượng ít nhất là 20 trang, nhiều nhất 35 trang. Cứ đều đặn như thế, ngày này qua ngày khác, mỗi sáng tôi đều nhận “bản thảo” của Ôn. Tôi chú ý và nhận thấy rằng, trừ những ngày nghỉ lễ, ngày chủ nhật hoặc thời gian Ôn ra Huế hoặc đi công tác nước ngoài thì việc dịch Kinh mới tạm dừng lại; còn khi Ôn làm việc tại Vạn Hạnh thì chưa bao giờ và chưa một lần nào tôi không nhận được bản dịch mỗi sáng. Tôi hết lòng kính trọng và khâm phục ý chí, nghị lực, tâm huyết và phương pháp làm việc khoa học, nghiêm túc của Ôn. Khi đọc tác phẩm về Đại sư Huyền Trang của Thượng tọa Thích Minh Châu, của Cư sĩ Võ Đình Cường và nhất là tác phẩm: “Ý chí sắt đá” của học giả Nguyễn Hiến Lê, tôi vẫn đinh ninh rằng Ôn học được nhiều điều cụ thể, thiết thực và có hiệu quả từ việc Huyền Trang Đại sư tổ chức phiên dịch, in ấn và truyền bá Đại tạng kinh Phật giáo.
Sau khi nhận bản thảo, tôi đọc kỹ nhiều lần, sửa lại các chữ khó đọc (chữ Ôn viết rất khó đọc, ở Viện Đại học Vạn Hạnh chỉ có ba người đọc đúng chữ Ôn viết là anh Hà Xuân Kỳ - Bí thư Viện trưởng, tôi và cô thư ký đánh máy Nguyễn Thị Hồng). Từ bản viết tay của Ôn, tôi đọc, sửa kỹ hoặc viết rõ sang một tờ giấy khác trước khi giao cho nhà in sắp chữ. Xin lưu ý rằng, vào thời điểm đó, kỹ thuật ấn loát rất lạc hậu, phải xếp chữ chì bằng tay, cắt bìa carton thành những miếng mỏng để chèn các khoảng cách của từng chữ, anh chị em công nhân nhà in phần lớn đều ít học, lại phải căn cứ chữ Pàli để dàn trang tiếng Việt nên việc in Kinh càng khó khăn hơn. Tôi thường xuyên đến nhà in, cứ mỗi lần nhà in “vỗ” cho tôi 5 - 10 trang bản in thử (épreuve), tôi đối chiếu với bản thảo rồi sửa chữa cẩn thận đến lần thứ năm, thứ sáu. Nhiều buổi chiều, tôi phải chạy nhanh xuống Ấn quán Vạn Hạnh mua cafe, thức ăn để “bồi dưỡng” anh chị em ở nhà in làm thêm giờ. Những lúc như vậy, tôi đưa xấp bản vỗ để nhờ Văn Công Tuấn sửa lỗi...
Buổi tối, tôi lên Thiền viện ngồi tĩnh tâm trước khi đọc lại một lần nữa những trang kinh mà tôi đã sửa morasse trước đó. Nhiều đêm, trong giấc ngủ, tôi nghe “ai đó” mách cho tôi những chỗ sai. Tôi bật dậy và xem thì đúng là có sai như vậy. Trong quá trình in các bộ Kinh, tôi thường gặp, thường nghe việc mách bảo này và việc mách bảo này hoàn toàn đều đúng cả. Thật lạ!
Sau khi đã chấm morasse thật kỹ các trang Kinh, thường thì trước 10 giờ sáng hôm sau, tôi trình cho Ôn duyệt sửa một lần cuối rồi Ôn ký bon à tirer, chiều tôi đưa xuống nhà in. Vì số lượng chữ chì rất ít, nên cứ đủ 16 trang (gọi là 1 cahier) là chúng tôi phải in để có đủ số lượng chữ sắp tiếp các trang sau. Cứ thế hai thầy trò chúng tôi và cả với các anh chị em công nhân ở Ấn quán Vạn Hạnh, Ấn quán Trương Minh Giảng và Ấn quán Văn Thơ (đường Phan Thanh Giản - nay là Điện Biên Phủ) cặm cụi làm việc, say mê làm việc… và rồi mọi chuyện đều diễn ra suôn sẻ, tốt đẹp. Đến nay đọc lại mấy ngàn trang Kinh sách của Ôn và các tác phẩm của nhiều vị khác, tôi vui mừng vì không để sai sót gì nhiều trong việc in ấn này.
Kinh Lời VàngTrong suốt thời gian học tập và làm việc tại Viện Đại học Vạn Hạnh, tôi rất thích đọc và chép lại các bài kệ trong kinh Pháp Cú trích rải rác trong các bài viết trên báo chí, sách hoặc bản thảo để chọn đăng trên Tạp chí Tư Tưởng. Thời gian sau, Ôn Minh Châu quyết định in trọn bộ Kinh này có cả phần nguyên tác bằng tiếng Pàli. Đây là lần đầu tiên tại Việt Nam bộ Kinh quan trọng này được in bằng hai ngữ: Việt - Pàli và đầy chất thơ. Tôi hết sức vui mừng và đọc đi đọc lại rất nhiều lần. Tôi lại được may mắn khi học lớp Cao học Sử trong hai năm, được nghe Ôn Minh Châu giảng về bộ kinh này. Ôn gọi Kinh này là “Kinh Lời Vàng”. Khi làm tiểu luận môn Văn học Phật giáo cuối năm thứ thứ nhất và năm thứ hai Cao học Sử, tôi đều viết tiểu luận cuối khóa về Kinh Lời Vàng.
Sau đó, Thầy Chơn Nguyên (Thiền viện Vạn Hạnh) tặng tôi tập “Lời Phật Dạy - Dhammapada” do Hòa thượng Thích Thiện Siêu dịch và Hòa thượng Thích Chơn Thiện (Tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ, Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế) tặng tôi tập “Pháp Cú Thi Kệ” do nhà thơ, nhà nghiên cứu Phật học Trụ Vũ dịch và Thầy Chơn Thiện viết Lời Giới thiệu. Tôi nhận thấy:
a/ Cả ba bản dịch Kinh Pháp Cú của Hòa thượng Thích Thiện Siêu, Hòa thượng Thích Minh Châu và nhà thơ Trụ Vũ đều mang lại nhiều lợi ích cho người tu học.
b/ Bản dịch của Hòa thượng Thích Thiện Siêu xuất bản sớm nhất ở nước ta từ năm 1959. Thầy dịch theo bản chữ Hán và có nhiều chú thích hết sức rõ ràng và cần thiết (tổng cộng có 221 chú thích).
c/ Bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu có in song ngữ Việt - Pàli giúp ích rất nhiều cho những ai học Pàli, tạo thuận lợi rất nhiều cho việc học hỏi thêm chính xác và sâu sắc hơn đối với lời Đức Phật dạy. Bản dịch Kinh Lời Vàng này rất trau chuốt, dễ nhớ, dễ thuộc và dễ đi vào lòng người.
d/ Bản dịch của nhà thơ, nhà nghiên cứu Phật học Trụ Vũ có sự mới lạ về nội dung và hình thức (in ấn rất đẹp, có thêm phần thư pháp của dịch giả) nhưng rất trung thực với những lời Đức Phật dạy như ý kiến của Hòa thượng Thích Chơn Thiện trong Lời Giới thiệu.
e/ Khoảng tháng 8.2008, tôi được một người bạn tặng cuốn “Kinh Lời Vàng” (thi hóa Dhammapada-sutta) của Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh (Tỳ khưu Giới Đức) Sư trưởng Huyền Không Sơn Thượng ở Hương Trà - Thừa Thiên - Huế. Là một nhà sư lại là một nhà văn, nhà thơ, nhà thư pháp được nhiều người mến mộ nên bản dịch Kinh Lời Vàng của Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh có nhiều nét mới lạ và độc đáo.
Đối chiếu Pháp Cú 82, các bản dịch lần lượt như sau:
- Bản dịch của Hòa thượng Thiện Siêu:
“Như hồ nước sâu, yên lặng trong sạch, những người có trí sau khi nghe Pháp, tâm họ cũng thanh tịnh và yên lặng.”- Bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu:
“Như hồ nước sâu thẳm, Trong sáng không khuấy đục. Cũng vậy nghe Chánh pháp, Người trí hưởng tịnh lạc”. - Bản dịch của nhà thơ Trụ Vũ:
“Hồ sâu thì nước lắng, Nước lắng lại, thì trong. Người trí nghe giáo lý Và trong lắng cõi lòng”. - Bản dịch của Minh Đức Triều Tâm Ảnh:
“Ví như hồ nước thẳm sâu Lắng yên, trong suốt chẳng màu bợn nhơ! Lòng người trí giả lặng tờ Khi nghe diệu pháp bến bờ như nhiên!” Như đã nói, từ lâu tôi rất “mê” kinh Pháp Cú. Vì vậy, mỗi ngày tôi đọc và đánh vi tính mấy trang “Pháp Cú Thi Kệ” để tu tâm dưỡng tánh. Khi đọc lại Pháp Cú kinh, tôi hết sức tâm đắc về ý kiến các quý Hòa thượng dịch giả bộ kinh này.
- Hòa thượng Thích Thiện Siêu:
“Đọc xong kinh Pháp Cú, độc giả sẽ thấy trong đó gồm những lời dạy về triết lý cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Những lời dạy cho hàng xuất gia tất nhiên không bao hàm tại gia, nhưng những lời dạy cho hàng tại gia đương nhiên trùm cả hàng xuất gia. Do đó, dù ở hạng nào, đọc cuốn kinh này, cũng thu thập được nhiều lợi ích thanh cao.” - Thượng tọa Thích Minh Châu:
“Nét nổi bật nữa là trong kinh Pháp Cú là dầu cho Đức Phật có đề cập đến các điều ác, các điều bất thiện, nói đến sự quyến rũ của dục lạc, sự phá hoại của Ác Ma, nhưng cuối cùng nét nổi bật lên vẫn là khả năng hướng thượng của con người, khả năng phá vỡ vô minh, vươn lên ánh sáng của giác ngộ, khả năng loại trừ các triền phược, khổ ách, vươn lên sức mạnh của giải thoát, thanh tịnh. Tiềm tàng trong những lời dạy của Đức Phật, kinh Pháp Cú đem lại cho những người Phật tử và thân hữu của Phật tử một nỗi vui nhẹ nhàng thanh thoát của những con người hướng thiện, biết tránh điều dữ, làm các điều lành, biết làm cho nội tâm, thân hành, khẩu hành và ý hành thanh tịnh, nhất là nhờ làm các hạnh lành, được hưởng viễn ly lạc, nhờ nghe Chánh pháp, được hưởng pháp lạc, nhờ hành thiền, được hưởng thiền lạc và nhờ đi gần đến giải thoát, được hưởng giải thoát lạc. Những bài kệ sau đây nói lên sự hoan hỷ, sự an lạc của những người con Phật trung thành với giáo lý Phật dạy: “Vui thay, chúng ta sống, Không hận giữa hận thù! Giữa những người thù hận. Ta sống không hận thù”. Tôi có “làm” tập Kinh Pháp Cú & Pháp Cú Thi Kệ, ở phần chính, tôi in thêm ba bài giới thiệu Kinh Pháp Cú:
1. Lời Giới thiệu bản dịch “Lời Phật dạy (Pháp Cú) - Dhammapada” của Hòa thượng Thích Thiện Siêu.
2. “Nếp sống đạo hạnh và trí tuệ trong kinh Pháp Cú” của Hòa thượng Thích Minh Châu.
3. Lời Giới thiệu “Pháp Cú Thi Kệ”, do nhà thơ, nhà nghiên cứu Phật học Trụ Vũ dịch của Hòa thượng Thích Chơn Thiện.
Tôi thiết kế bìa, in ấn rất công phu tập này để tặng bạn bè. Bạn tôi ai ai cũng thích cả; có người photocopy để tặng cho nhiều bạn khác.