AcknowledgmentsSách này được dâng cúng cho các vị Thầy của tôi – hai cố Thiền sư Thích Tịch Chiếu và Thích Thường Chiếu; hai Thầy Thích Thiền Tâm và Thích Tài Quang; và tất cả quý Thầy có sách mà tôi đã đọc và học từ đó, trong đó có Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 14, quý Thầy Thích Thanh Từ, Thích Nhất Hạnh, Thích Minh Châu, Thích Duy Lực, Lê Mạnh Thát, Tuệ Sỹ, vân vân. Sách này cũng xin dâng cúng tới ba mẹ tôi trong kiếp này và các kiếp khác, và tới tất cả các chúng sinh.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn tới Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn, Thanissaro Bhikkhu, Bhikkhu Bodhi, Bhikkhu Sujato, Tỳ kheo Nguyễn Thế Đăng (vị này cũng là Pháp huynh cùng Thầy của tôi) và nhiều vị khác với các văn bản mà tác phẩm này tham khảo.
Thêm nữa, tác giả xin cảm ơn Cư sĩ Tâm Diệu, người đã đăng các bài tôi viết lên Thư Viện Hoa Sen (thuvienhoasen.org) trong nhiều thập niên và bây giờ giúp phát hành sách này qua Ananda Viet Foundation.
Cuối cùng, tác giả xin nói lời cảm ơn đặc biệt tới Dan Phan đã giúp dò lỗi chính tả và văn phạm cho sách này.
This book is dedicated to my teachers -- The late Zen Masters Thich Tich Chieu and Thich Thuong Chieu; the late Dharma Masters Thich Thien Tam and Thich Tai Quang; and all the teachers whose books I read and learned from, including H.H. the 14th Dalai Lama, Thich Thanh Tu, Thich Nhat Hanh, Thich Minh Chau, Thich Duy Luc, Le Manh That, Tue Sy, etc. This book is also dedicated to all my parents in this life and other lives, and to all other sentient beings.
Specifically, I am indebted to the Zen Master Thich Thanh Tu, Prof. Le Manh That, researcher Tran Dinh Son, Thanissaro Bhikkhu, Bhikkhu Bodhi, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Nguyen The Dang (who is also my elder Dharma brother), and many others whose works I relied on while working on this book.
Also, I would like to thank the layperson Tâm Diệu, who posted my articles on Thư Viện Hoa Sen (thuvienhoasen.org) for decades and now helped publish this book via the Ananda Viet Foundation.
Lastly, the author would like to say a special thanks to Dan Phan for helping to check the spelling and grammar of this book.
PREFACEEveryone can see that Vietnamese Zen has played a significant role in the history of Vietnam in all aspects, especially in Vietnamese Buddhism. How exactly did this transpire? Some have said that after being transmitted from China to Vietnam, the Zen doctrine has blended into the Vietnamese culture, being constantly accompanied by the Vietnamese people, becoming a uniquely Vietnamese Zen.
According to Prof. Le Manh That in his studies of the book Thiền Uyển Tập Anh (A Collection of Outstanding Figures of the Zen Garden), before arriving in China, Buddhism had spread in the second or third century CE from India to Vietnam. During this time, the two best known Buddhist Masters were Mau Tu and Khuong Tang Hoi.
In the sixth century, Chinese Zen was introduced into Vietnam by the Zen Master Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinītaruci), a native South Indian and a student of the Third Chinese Patriarch Tăng Xán (Sengcan). This Zen sect lasted nineteen generations. Their students studied and practiced mostly in accordance with the scriptures of Northern Buddhism, the Six Paramitas, the Prajna Wisdom, and the meditation of contemplating the Buddha's mind-seal.
In the eighth century, the Zen Master Vô Ngôn Thông (Wu Yantong), a student of Bách Trượng Hoài Hải (Baizhang Huaihai), came to Vietnam and introduced the Zen tradition inherited from the sixth Chinese Zen Patriarch Huệ Năng (Hui Neng) that emphasized the ideas of sudden enlightenment and mind-to-mind transmission. This Zen sect lasted fifteen generations.
In the 11th century, the Vân Môn Zen sect (Unmon Zen) was brought into Vietnam by the Zen Master Thảo Đường, a student of Tuyết Đậu Trùng Hiển (Xuedou Chongxian). Thảo Đường, who had traveled from China to Chiêm Thành (Champa) to introduce Zen, was captured as a prisoner of war by Vietnamese soldiers in the war between Vietnam and Champa, only being released after the war. After establishing the Thảo Đường Zen school in Trấn Quốc Temple, Thảo Đường was consecrated by King Lý Thánh Tông as the Kingdom's Supreme Master. Arguing that Buddhism should cherish Confucianism, literature and academic achievement, the Thảo Đường Zen School became fondly acquainted with the era’s scholars and nobility. Ultimately, the Thảo Đường Zen School greatly influenced the Buddhist landscape in the Trần Dynasty.
In the 13th century during Trần Dynasty, King Trần Nhân Tông studied Zen under the guidance of Tuệ Trung Thượng Sĩ, who was considered an enlightened person. Years later, King Trần Nhân Tông voluntarily relinquished the throne to his son, and went forth as a monk named Trúc Lâm Đầu Đà. He then established Trúc Lâm Zen, a meditation school that blended Vietnamese culture with socially engaged spirituality. Thus, Trúc Lâm Zen inherited and combined the ideas of the three previous Zen schools --- Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, and Thảo Đường. The most important three patriarchs of Trúc Lâm Zen were Trần Nhân Tông, Pháp Loa, and Huyền Quang.
In the 17th century, the Tào Động Zen (Japanese: Soto School; Chinese: Caodong School) was brought to North Vietnam by the Zen Master Thông Giác Thủy Nguyệt. Prior to this, he had traveled from Vietnam to China to study with the Zen Master Nhất Cú Trí Giáo for six years, becoming a dharma heir of the Chinese Tào Động Zen in the process. The main practice of this Zen school was Thiền Mặc Chiếu (the Silent Illumination Meditation) through which the practitioners could attain enlightenment. Also in this century, the Chinese Zen Master Thạch Liêm, a 29th-generation Dharma successor of Caodong School, came to Central Vietnam, taught Zen meditation that mixed with the Huatou practice of the Lâm Tế School (Japanese: Rinzai School), and declared that "the three teachings (Confucianism, Buddhism, and Taoism) are harmonious as one."
Also in the 17th century, the Chinese Zen Master Chuyết Chuyết came to North Vietnam and introduced the Lâm Tế Zen School, which later had a dharma successor named Chân Nguyên, who revived the Trúc Lâm Zen School.
Due to frequent conflicts and wars, the Vietnamese people constantly wished for peace and stability. The two Zen schools above gradually intertwined with the Pure Land School, and their monastics later practiced both meditation and chanting the Buddha's name.
Nowadays, the Zen Master Thích Thanh Từ (b. 1924) has led the effort to revive the spirit of Trúc Lâm Zen, built dozens of Zen monasteries, and adapted the teaching methods of the Zen Master Khuê Phong Tông Mật (Guifeng Zongmi) for his followers who try to recognize the mind's empty and luminous nature, and practice in accord with that recognition. Thus, these practitioners study the scriptures and ancient Zen records, constantly keep their mind out of any false thought and meditate as instructed in Lục Diệu Pháp Môn (the Six Wonderful Ways).
Recently the Zen Master Thích Duy Lực (1923 - 2000) --- a dharma successor of Ven. Thích Hoằng Tu, who came from China to South Vietnam to introduce the Thiền Tào Động (Caodong Chan) as a branch founded by the Zen Master Vĩnh Giác Nguyên Hiền (1578-1657) --- taught his followers Thiền Khán Thoại Đầu (Huatow Meditation), a method of Lâm Tế School, now a popular method in South Vietnam.
The summary above shows that several branches of Zen Buddhism (i.e., Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Tào Động, and Lâm Tế) spread to Vietnam from overseas, three of which blended into the Vietnamese culture to become Trúc Lâm Zen. A question should be raised: what is the Way of Zen in Vietnam? Should there be one or many answers? Should the answer be a wordless gesture? Who has the authority to answer those questions?
The author of this book tries to answer these questions via poems and verses of the Zen masters who laid the foundation for the Zen practices in Vietnam. He hopes to provide a generally correct view of the Way of Zen in Vietnam.
This bilingual book in English and Vietnamese is a collection of 95 poems and verses which were translated into modern Vietnamese by the Zen Master Thích Thanh Từ, Prof. Lê Mạnh Thát, and the researcher Trần Đình Sơn. This collection was then translated into English by the author Nguyên Giác, whose commentaries are provided below the translations. The 95th piece, a long verse by King Trần Nhân Tông (who was the founder of the Trúc Lâm Zen School), shows the practice methods of this Zen school --- from which the last four lines is a famous poem that is learned by most Buddhists, scholars, and writers in Vietnam.
It is an honor to write the preface to this book, which would help those who want to understand the Way of Zen in Vietnam.
Ananda Viet Foundation Publisher | Tâm Diệu
Published by Ananda Viet Foundation – 2020
GIỚI THIỆUThiền tông Việt Nam chiếm một vai trò trọng yếu trong lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng và trong lịch sử nước nhà nói chung là một sự thật mà ai nấy đều công nhận. Nhưng hỏi vì sao nó được địa vị như thế thì có người nói tư tưởng Thiền tông Việt Nam thoát thai từ tư tưởng Thiền tông Trung Hoa nhưng khi qua Việt Nam, Thiền tông Việt Nam hoà đồng cùng với văn hoá Việt và đồng hành cùng với dân tộc Việt tạo nên một sắc thái riêng rất Việt Nam.
Theo lịch sử Phật Giáo qua qua cuốn Nghiên Cứu về Thiền Uyển Tập Anh của GS. Lê Mạnh Thát, Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ Ấn Độ rất sớm, vào thế kỷ thứ 2 và thứ 3 trước cả Trung Hoa với các thiền sư như Mâu Tử và Khương Tăng Hội.
Mãi cho đến thế kỷ thứ 6 Thiền Tông Trung Hoa mới được truyền sang Việt Nam bởi Thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi, người nước Nam Thiên Trúc, đệ tử của Tam tổ Tăng Xán. Tư tưởng chính là tu tập theo các kinh Phật Giáo Bắc Truyền, Lục Độ Ba La Mật và Trí Tuệ Bát Nhã, cùng pháp Thiền quán về tâm ấn chư Phật. Thiền phái này được truyền qua 19 thế hệ.
Vào thế kỷ thứ 8 đệ tử của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải là Vô Ngôn Thông sang Việt Nam truyền pháp Thiền Nam Phương của Lục Tổ Huệ Năng, với chủ trương đốn ngộ và “dĩ tâm truyền tâm” (tâm truyền tâm). Thiền phái này được truyền qua 15 thế hệ.
Đến thế kỷ thứ 11 thiền phái Vân Môn được Thiền sư Thảo Đường, đệ tử của Thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển nhân đi qua nước Chiêm Thành truyền giáo bị Việt Nam bắt làm tù binh trong cuộc chiến tranh Việt - Champa, sau đó sư được phóng thích. Sư tu tại chùa Trấn Quốc, thành lập phái Thiền Thảo Đường và được vua Lý Thánh Tông phong làm Quốc sư. Thiền phái Thảo Đường chủ trương Nho Giáo đồng hành và có khuynh hướng thiền học trí thức và văn chương nên rất gần gũi với các tầng lớp trí thức và quý tộc, điều này đã làm ảnh hưởng nhiều tới Phật giáo thời Trần.
Đến thế kỷ thứ 13 vào thời đại nhà Trần, vua Trần Nhân Tông thường tham học Thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ, người được xem là đã kiến tánh giác ngộ, sau đó vua nhường ngôi vua cho con và xuất gia tu hành theo đạo Phật, hoằng pháp với hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam với tinh thần nhập thế. Là sự kết hợp và kế thừa Tư tưởng của ba thiền phái là Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, và Thảo Đường. Ba vị tổ quan trọng nhất của Thiền phái này là Trần Nhân Tông, Pháp Loa, và Huyền Quang.
Đến thế kỷ thứ 17, thiền phái Tào Động được truyền sang miền Bắc Việt Nam bởi Thiền sư Thông Giác Thủy Nguyệt, sau sáu năm tu học ở Trung Quốc với Thiền sư Nhất Cú Trí Giáo và nối pháp tông Tào Động. Pháp tu chính yếu của dòng Thiền này là Thiền Mặc chiếu với chủ trương tọa thiền để khai ngộ. Thiền Tào Động cũng được Thiền sư Thạch Liêm đời thứ 29 truyền qua miền Trung Việt Nam, tuy nhiên Thiền sư Thạch Liêm ảnh hưởng và mang đậm tư tưởng Thiền Khán Thoại Đầu của tông Lâm Tế và thuyết Tam giáo đồng nguyên.
Thiền phái Lâm Tế cũng được truyền vào miền Bắc Việt Nam vào thế kỷ thứ 17 bởi thiền sư Chuyết Chuyết người Trung Hoa và từ thiền phái này đã sản sinh ra Thiền sư Chân Nguyên là người có công khôi phục dòng Thiền Trúc Lâm.
Do chiến tranh loạn lạc liên tục, dân tộc Việt Nam thường trực ước mơ hòa bình và ổn định. Cả hai Thiền phái này có khuynh hướng hòa nhập với Tư Tưởng Tịnh Độ, vừa chuyên tâm tu thiền định vừa niệm Phật.
Trong thời hiện đại, Hòa thượng Thích Thanh Từ (sinh năm 1924) là người chủ trương khôi phục lại tinh thần của Thiền phái Trúc Lâm và xây dựng nhiều Thiền viện cùng là dạy tăng chúng tu tập theo đường lối của Thiền sư Khuê Phong Tông Mật, đó là kiến tánh khởi tu, thiền giáo song hành và thực hành phương pháp Thiền Tri Vọng (biết vọng không theo) và pháp Lục Diệu môn.
Và mới đây cũng có Thiền sư Thích Duy Lực (1923 - 2000), đệ tử Hòa thượng Thích Hoằng Tu, cao tăng người gốc Hoa sang Chợ lớn, Sài Gòn hoằng pháp, thuộc dòng Tào Động hệ phái Cổ Sơn do ngài Vĩnh Giác Nguyên Hiền (1578-1657) sáng lập, chủ trương đào tạo các đệ tử theo phương pháp Thiền Khán Thoại Đầu của tông Lâm Tế, khá thịnh hành tại miền Nam Việt Nam.
Đó là sơ lược sự truyền bá Phật giáo tại Việt Nam từ những ngày đầu lập quốc cho đến ngày nay với các dòng thiền du nhập từ nước ngoài --- Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Tào Động, và Lâm Tế -- và ba dòng Thiền trong đó hòa nhập với văn hóa Việt để trở thành Thiền phái Trúc Lâm. Câu hỏi nên nêu ra: đường lối Thiền Tông tại Việt Nam là gì? Có một câu trả lời, hay nhiều hơn? Hay là, câu trả lời nên là một cử chỉ không lời? Ai có thẩm quyền trả lời những câu hỏi đó?
Tác giả sách này đã tìm cách trả lời các câu hỏi trên qua các thi kệ thiền của chư Thiền sư, những người đã đặt nền móng cho tu học Thiền tại Việt Nam, và hy vọng trình bày được một cái nhìn chính xác và xuyên suốt về đường lối Thiền Tông tại Việt Nam.
Sách thuộc loại song ngữ Việt Anh gồm 95 bài thi kệ thiền, dịch Việt bởi Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn. Tác giả dịch sang Anh ngữ với lời ghi chú nơi mỗi bài. Đặc biệt bài 95 là bài phú khá dài của Vua Trần Nhân Tông, sáng tổ dòng Thiền Trúc Lâm, được trình bầy như là toát yếu đường lối tu hành của dòng thiền này, trong đó có bài thi kệ cuối nổi tiếng mà các nhà văn học, các văn nhân thi sĩ cũng như mọi người theo đạo Phật đều biết đến.
Trân trọng kính giới thiệu. Sách này sẽ giúp các độc giả muốn tìm hiểu về Thiền Tông Việt Nam.
Nhà xuất bản Ananda Viet Foundation | Tâm Diệu
MỤC LỤCPhần 1. (từ trang 21 đến trang 42)1. Advising People To Enter The Way | Khuyên Đời Vào Đạo 2. The Treasure | Kho Báu 3. Sitting | Ngồi 4. The Mind Seal | Tâm Ấn 5. This Land, This Mind | Đất Này, Tâm Này 6. Wordless | Không Lời 7. Rise and Decline | Thạnh Suy 8. Illusory | Huyễn 9. The Mind of Emptiness | Tâm Không 10. Serenity | Tịch Lặng
Phần 2. (từ trang 43 đến trang 59)11. Existence and Nonexistence | Có Và Không 12. True Nature | Chân Tánh 13. Crossing the Ocean | Qua Biển Sinh Tử 14. Empty Mind | Tâm Không 15. The Spring | Mùa Xuân 16. Emptiness | Không 17. At Home | Tại Nhà 18. Weird Thing | Việc Kỳ Đặc 19. The Sun | Mặt Trời 20. Wisdom | Tuệ
Phần 3. (từ trang 60 đến trang 78)21. Illusory Body | Ảo Thân 22. Breathing | Thở 23. Buddha Seed | Hạt Giống Phật 24. Learning | Học Đạo 25. Taming The Mind | Luyện Tâm 26. Watchful | Thẩm Sát 27. Dharma Friends | Bạn Đạo 28. The Present | Hiện Tại 29. Not Two Things | Không Hai Pháp 30. Swallow Flying | Nhạn Bay
Phần 4. (từ trang 79 đến trang 95)31. At Ease With Birth And Death | Sống Chết Nhàn Mà Thôi 32. Bodhi Scenes | Bồ Đề Cảnh 33. Mind Teachings | Tâm Tông 34. Death Poem | Kệ Thị Tịch 35. The Moon Shining | Trăng Sáng 36. Fire | Lửa 37. The Unconditioned | Vô Vi 38. Like An Echo | Như Vang 39. Nowhere | Không Một Nơi 40. Taming The Mud Ox | Chăn Trâu Đất
Phần 5. (từ trang 96 đến trang 115)41. Butterflies | Bướm 42. Echo In Sky | Tiếng Vang 43. In Front Of Your Eyes | Trước Mắt 44. Cessation | Tịch Diệt 45. The Thus Come One | Như Lai 46. Dharma of Equality | Bình Đẳng 47. The Way Of Patriarchs | Tổ Sư Thiền 48. Illusions | Huyễn 49. Daisies | Cúc Hoa 50. Mind Only | Duy Có Tâm Thôi
Phần 6. (từ trang 116 đến trang 142)51. The Nature Of The Mind | Kiến Tánh 52. The Buddhas Within | Chư Phật Trong Ta 53. The Lamp | Ngọn Đèn 54. Leaving The World | Xuất Thế 55. From The Emptiness | Từ Không Mà Tới 56. The Highest | Bậc Nhất 57. Practice | Thiền Tập 58. The Six Words | Sáu Chữ 59. Like A Dragon | Như Rồng 60. Birth and Death | Sinh Và Tử
Phần 7. (từ trang 143 đến trang 168)61. Not For Profit | Không Vì Lợi 62. Urgently Practice | Gấp Tu 63. The 'What Is' | Cái Đương Thể 64. Sitting Still Tĩnh Tọa 65. At Ease With Birth And Death | Sống Chết Nhàn Mà Thôi 66. Be Wise | Hãy Có Trí Tuệ 67. Nothing Attainable | Vô Sở Đắc 68. Stone Horse | Ngựa Đá 69. Outside The Scriptures | Giáo Ngoại 70. Sun Of Wisdom | Mặt Trời Trí Tuệ
Phần 8. (từ trang 169 đến trang 201)71. Foolish Si | Độn 72. Message | Lời Nhắn 73. Dharma Heir | Người Nối Dòng Pháp 74. Seeking The Mind | Tìm Tâm 75. Not A Word | Không Một Lời 76. The Three Studies | Giới Định Tuệ 77. Originally Emptiness | Vốn Là Không 78. The Iron Girl | Cô Gái Sắt 79. Seeing The Buddha | Thấy Phật 80. Always There | Thường Trụ
Phần 9. (từ trang 202 đến trang 242)81. Feeling Inspired | Phòng Núi Khởi Hứng 82. Mountain Temple | Chùa Núi 83. Going Home | Về Nhà 84. Manifesting | Hiển Lộ 85. Encouraging | Sách Tấn 86. Going Home | Về Quê 87. The True Body | Chân Thân 88. Be Awakened | Tỉnh Giác 89. The Serene Mirror | Gương Lặng Lẽ 90. No Difference Between Ignorance And Enlightenment | Mê Ngộ Không Khác
Phần 10. (từ trang 243 đến trang 283)91. Zen | Thiền 92. Bodhi | Bồ Đề 93. The Great Way | Đại Đạo 94. Song Of The Buddha Mind | Phật Tâm Ca 95. Living Amid Dust And Enjoying The Way | Cư Trần Lạc Đạo
INTRODUCTIONWhat is the way of Zen in Vietnam? Is there only one answer, or many? Should the answer be a wordless gesture? Who has the authority to answer those questions?
This book is written to give a glimpse of the way of Zen in Vietnam. Personally, I am nobody. Though I have studied and practiced Zen for nearly half a century, I feel I will always remain a student of Zen. Readers can find many of the sentences here in some books of Buddhism in Vietnam; some are my memories of the things I've read or heard. The comments and the English translation in this book are mine; otherwise will be indicated.
Three of those I am indebted to are Zen Master Thích Thanh Từ, Prof. Lê Mạnh Thát, and researcher Trần Đình Sơn. In this book, I use many poems that were translated into modern Vietnamese language by the three scholars above. The ancient Zen masters in Vietnam wrote poems in the Chinese and Nôm languages. At times, I paraphrase poems into simple prose to make them easier to understand.
This book is not for profit. You are free to copy or reproduce noncommercially. May all beings be healthy and happy; may all beings be free.
Đường lối Thiền Tông tại Việt Nam là gì? Có một câu trả lời, hay nhiều hơn? Hay là, câu trả lời nên là một cử chỉ không lời? Ai có thẩm quyền trả lời những câu hỏi đó?
Sách này được viết để cho một cái nhìn về Thiền Tông tại Việt Nam. Bản thân tôi không là gì cả. Dù tôi học và thực tập Thiền trong gần nửa thế kỷ, tôi cảm thấy mình vẫn là một Thiền sinh vĩnh viễn. Độc giả có thể thấy nhiều câu nơi đây trong các sách về Phật Giáo Việt Nam; một số là ký ức tôi nhớ về những gì tôi đã đọc hay nghe. Các ghi nhận và phần Anh dịch trong sách là của tác giả, trường hợp khác sẽ kể rõ tên người ghi nhận.
Ba tác giả tôi mang ơn là Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn; trong sách này, tôi sử dụng nhiều bài thơ được ba học giả này dịch sang tiếng Việt hiện nay. Các Thiền sư tại Việt Nam nhiều thế kỷ trước đã làm thơ bằng tiếng Hán và tiếng Nôm. Có những lúc, tôi chuyển các bài thơ sang văn xuôi đơn giản để dễ hiểu hơn.
Sách này viết không vì lợi nhuận. Ai cũng có quyền tự do sao chép hay phổ biến lại, một cách phi thương mại. Xin nguyện cho tất cả chúng sinh được sức khỏe và hạnh phúc; xin nguyện cho tất cả chúng sinh được giải thoát.
*******
Mong muốn pháp được lưu truyền rộng rãi, tác giả và nhà xuất bản không giữ bản quyền sách. Giá bán khi độc giả đặt mua là giá thành tối thiểu của Amazon nhằm trang trải chi phí in ấn cho một quyển theo hình thức POD (Print on Demand).
Quý độc giả có thể tiếp cận được sách qua ba nguồn sau:
(1) Đọc online,
(2) Download phiên bản PDF về máy nhà và
(3) Đặt mua sách trên mạng Amazon: https://www.amzn.com/B089CLPVSG
https://thuvienhoasen.org/a34125/gioi-thieu-sach-moi-the-way-of-zen-in-vietnam-thien-tong-viet-nam-sach-song-ngu-