Vào thập niên 20 của thế kỷ XX, khi vùng đất Đà Lạt- Lâm Đồng quanh năm sương mù giá rét còn được mang tên Đồng Nai Thượng (Province du Haut-Donnaï), bốn bế hoang vu với rừng núi ma thiêng nước độc, với thú dữ đầy hung hiểm, có một tăng nhân tuổi trạc trên hai mươi lăm đã đơn thân lặng lẽ rảo những bước chân chánh niệm tinh tấn khắp lối thấp nẻo cao, khắp vùng sâu chốn vắng, và sau cùng dừng lại giữa một ngọn đồi đầy lau sậy gai cỏ. Phóng tầm nhìn thấu suốt tứ phương tám hướng, Người quyết định chon mảnh đất ngay dưới chân mình làm nơi thường trú, bắt đầu dựng một thảo am đơn sơ để tu hành, phát đại nguyện đem Chánh Pháp của Như Lai truyền bá từ nơi đây, giương ngọn Đuốc Tuệ sáng ngời soi chiếu mở đường để dẫn dắt chúng sanh tìm về với an lạc, hóa giải bớt đi những khổ đau của cuộc đời…
Ngôi thảo am được đặt tên hiệu là Linh Quang, qua một thời gian dài đã thay đổi hình hài sắc tướng, âm thầm chuyển duyên trở thành một thiền tự, cũng chính là ngôi chùa đầu tiên của vùng đất cao nguyên Lâm Viên, là Tổ Đình chung cho Phật Giáo tỉnh Lâm Đồng. Một thành tựu viên mãn đi vào những trang sử vàng của Đạo Từ Bi Hỷ Xả, và của đất nước quê hương. Vị tăng nhân có công đức hoằng dương chánh pháp, hóa đạo lợi sanh vô cùng to lớn vào buổi sơ khai ấy chính là Cố Hòa Thượng thượng Nhơn hạ Thứ, bậc danh tăng thạc đức thuộc dòng Lâm Tế Liễu Quán đời thứ 43.
Cố Hòa thượng Thích Nhơn Thứ, pháp danh Tâm Trung, tự Từ Lý, thế danh Trần Xin, sinh năm Giáp Ngọ (1894) tại xã Văn Hòa, tỉnh Phú Yên. Ngài vốn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, gặp phước duyên được một phú ông (ở thôn Đại Điền Trung, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) khi ra Phú Yên mua bò, nhận thấy Ngài bộc lộ tư chất thông minh lanh lợi khác người, nên nhận về làm nghĩa tử, lo cho ăn học tử tế. Thuở thiếu thời, cậu bé họ Trần nhờ thuận duyên gần gũi với chốn già lam ở vùng quê quạnh quẽ, nên thường qua lại vào ra chùa Linh Quang ở Đại An Núi Chúa (huyện Diên Khánh – Khánh Hòa) do Tổ Tu Rau (tức Hòa thượng Thích Nhơn Nguyện) trụ trì, và dần dà gắn bó với câu kinh tiếng kệ, thân quen với tiếng mõ hồi chuông, cũng như những bữa cơm chay rau tương thanh đạm, để rồi niềm tin Phật Pháp, niềm tôn kính Tam Bảo ngày càng tăng trưởng… Và khi đã hội đủ nhân duyên tốt lành, ngày trọng đại của một người con Phật cũng đã đến: Ngài phát nguyện thế phát quy y, xin xuất gia tu học, hầu Thầy từ khi chùa Linh Quang còn là một ngôi chùa nghèo mái tranh vách đất.. Ngài được được Tổ Tu Rau thâu nhận làm đệ tử, ban cho pháp danh là Tâm Trung, tự Từ Lý. Sau này, Ngài còn có thêm pháp tự nữa là Nghĩa Đạo – Minh Đạo.
Trong thời gian từ năm 1920 đến 1927, vì Hòa thượng Nhơn Nguyện liên tục nhập thất tham thiền nhập định, nên đã gửi hai đệ tử ra Tổ Đình Thiên Bửu (Điềm Tịnh, Ninh Hòa) thọ pháp nơi Hòa thượng trụ trì Thích Phước Tường.
Hòa thượng Thích Phước Tường chính là bổn sư của Hòa Thượng Nhơn Nguyện, đã dang rộng tay thâu nhận hai người học trò của đệ tử mình, ban pháp hiệu cho đệ tử Tâm Trung (vai sư huynh) là Nhơn Thứ, và Tâm Đạo (sư đệ) là Nhơn Hưng. Vì lẽ này mà các vị Tỳ Kheo đệ tử của Hòa Thượng Phước Tường trước kia vốn hàng thúc bá, sau lại trở thành sư huynh đệ của hai vị Nhơn Thứ và Nhơn Hưng.
Trong suốt thời gian nhập thất, khoảng năm 1924, Hòa thượng Nhơn Nguyện đã trao nhiệm vụ trông nom thờ phụng ngôi Tam Bảo ở chùa Linh Quang ở Đại An Núi Chúa cho hai đệ tử. Cho đến ngày 12, tháng 7 năm Đinh Mão 1927, Hòa thượng Nhơn Nguyện thiêu thân viên tịch, tông môn đã sắp xếp đề cử ngài Nhơn Thứ trở về chùa Linh Quang để cư tang cho bổn sư, và chính thức trụ trì ngôi già lam này. Ngoài ra, ngài còn được cung thỉnh kiêm trụ trì chùa Sắc Tứ Liên Hoa tọa lạc tại thôn Xuân Lạc ( thuộc xã Vĩnh Ngọc - Thành phố Nha Trang), vốn là một ngôi cổ tự tổ đình danh tiếng có từ hằng trăm năm qua.
Từ những mối nhân duyên kể trên, chúng ta quay trở lại với chùa Linh Quang trên vùng đất sương mù lạnh lẽo, mới thấy rõ căn nguyên vì sao chùa cũng mang tên hiệu Linh Quang. Thật ra, từ trước năm 1920, ngài Nhơn Thứ đã vâng lệnh bổn sư là Tổ Tu Rau lên khai phá vùng đất mệnh danh “Hoàng Triều cương thổ”. Như nhận một mệnh lệnh thử thách để ấn chứng Đạo Tâm, thể hiện chí nguyện xuất gia tu hành, ngài đã không chút e dè ngại sợ, mà đã dấn thân nhập cuộc một cách vô ngại tự tại. Bằng chí nguyện rộng lớn kiên cường, và tâm bồ đề kiên cố, giữa những khó khăn vây bủa, thiểu thốn ngáng đường, trở ngai mắc giăng tứ phía, ngài đã từng bước tạo dựng nên một ngôi tự viện trang nghiêm vào năm 1921.
Vào những năm xa xưa ấy, khi chùa Linh Quang hiển hiện trên đồi hoang đất vắng, cảnh vật xung quanh đã trở mình trước một cuộc biến đổi lớn, ánh quang minh của ngôi Tam Bảo chừng như xua tan hết sương mờ và rét lạnh, đẩy lùi ám chướng và tối tăm dạt hết ra xa xa… Ngày mà ngôi thảo am nhỏ trước kia chính thức mang tên hiệu Linh Quang Tự, có sự hiện diện chứng minh của chư tôn đức: Hòa thượng Thích Phước Tường (chùa Thiên Bửu –Ninh Hòa- Khánh Hòa), Hòa thượng Thích Từ Nhãn (chùa Sắc Tứ Long Sơn Bát Nhã- Tuy An- Phú Yên), và Hòa thượng Bổn sư Thích Nhơn Nguyện.
Năm 1933, khi chùa Linh Quang đã trở nên một tự viện thanh tịnh khang trang, Hòa thượng Nhơn Thứ được triều đình nhà Nguyễn phong chức “Tăng Cang”, để tạo điều kiện thuận lợi cho Ngài hoằng truyền chánh pháp trên vùng đất cao nguyên Đà Lạt. Đến ngày 28, tháng 9, năm Mậu Dần 1938, vua Bảo Đại đã ban hiệu “Sắc Tứ” cho chùa. Đến nay, tuy biển ngạch Sắc Tứ đã không còn, do bị cháy trong cuộc binh lửa Tết Mậu Thân 1968, nhưng bản “Quyết định ban Sắc Tứ” do Tham Tri Bộ Lễ ấn ký vẫn còn nhà chùa lưu giữ cẩn thận. Trong đó ghi rõ: “Thần bộ khâm phụng ý chỉ Đoan Huy Hoàng Thái Hậu nên Sắc Tứ biển ngạch cho chùa Linh Quang thuộc làng Đà Lạt ở Haut-Donnai- Khâm thử khâm tuân- Tham Tri Bộ Lễ Tôn Thất Quảng”.
Nhờ đức độ và công hạnh sáng ngời, nên Hòa thượng Nhơn Thứ được triều đình Huế, và tông môn đã cung thỉnh làm “Đàn Đầu Hòa Thượng” vào sau những năm 1938. Công đức của Ngài thật to lớn trong công cuộc hoằng hóa lợi sanh, với đạo hạnh trang nghiêm cùng lòng từ bi rộng trải, nên Ngài đã cảm hóa và giúp đỡ rất nhiều người. Ngài được mọi người biết đến như một vị “ lương y thiền sư” rất “mát tay” trong việc chữa các bênh nan y bằng thuốc Nam, và cả chế ngự được các bệnh điên tà trong dân gian. Tiếng lành đồn xa, hương đạo hạnh tỏa lan khắp chốn, hàng hàng lớp lớp người tin Phật đã tìm về xin quy y thọ giáo Ngài mỗi ngày càng đông, đạo tràng ngày càng phát triển lớn mạnh…
Ngày 10 tháng 3 năm Tân Tỵ (1941), sau một cơn cảm sốt nhẹ, Hòa thượng Nhơn Thứ nhận biết ngày ra đi của mình sắp đến, liền gọi đồ chúng vào dặn dò cặn kẽ, sắp đặt chu đáo hết mọi việc trong ngoài trước sau. Sau đó, Ngài bảo thị giả để một tượng Phật Di Đà ở trước ngực, rồi từ giấy phút ấy Ngài chuyên tâm chú niệm, tay lần xâu chuổi, theo dõi những chuyển biến trong nhục thể của mình, gạt bỏ và quên hết ngoại cảnh.
Ba hôm sau, vào lúc 21h 45 phút, ngày 13 tháng 3, Ngài bảo đệ tử chong đèn đốt nhang, xông trầm trên chánh điện, rồi cử ba hồi chuông trống Bát Nhã. Vừa dứt hồi trống, Ngài đã xả thân ngũ uẩn, an nhiên thị tịch đúng vào 22 giờ, trong tiếng niệm Phật râm ran của môn đồ tăng chúng, trụ thế 48 năm. Bảo Tháp của Ngài được xây lên ngay trong khuôn viên chùa, đó chính là Tháp Tổ Sư Khai Sơn Sắc Tứ Linh Quang Tự.
Kế tục Tổ Sư giương cao ngọn Đuốc Tuệ quang minh, hàng đệ tử của Cố Hòa thượng Thích Nhơn Thứ đã luôn giữ thanh quy nghiêm túc, đạo hạnh sáng trong, luân phiên nhau phụng thờ ngôi Tổ Đình, cùng nối tiếp công cuộc hoằng pháp lợi sanh mà Thầy Tổ đã một đời tâm nguyện trăn trở.