Nguyện thứ 18 của Phật A Di là: “Lúc con làm Phật, chúng sanh mười phương, nghe danh hiệu con, chí tâm tin vui, có được căn lành, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh nước con, cho đến Mười Niệm, nếu không được sanh, con thề quyết không giữ ngôi Chánh Giác, duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.” Thế nào gọi là “Mười Niệm Tất Vãng Sanh”? Chữ “niệm” ở đây là chỉ cho xưng câu Phật hiệu “Nam Mô A Di Ðà Phật.” Ðọc hết sáu chữ ấy một lần là một niệm, đọc hết mười lần là mười niệm. Câu “cho đến Mười Niệm” là nói về mức độ thấp nhất, dẫu chỉ xưng niệm danh hiệu Phật có mười lần cũng được vãng sanh. Còn nếu chúng ta có thể niệm nhiều hơn thì càng nhiều càng tốt; chẳng nên chấp giữ lấy chữ “Mười Niệm” tối thiểu này mà giới hạn sức niệm Phật của mình.
Hỏi: Tại sao kinh này chỉ khuyên xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà mà thôi, không niệm danh hiệu của các chư Phật khác?
Đáp: Nguyện thứ 19 của Phật A Di Đà ghi: “Mười phương chúng sanh, nghe danh hiệu con... nguyện sinh nước con, nhất tâm niệm con ngày đêm không dứt, đến khi lâm chung, con và Bồ-tát hiện tiền nghinh tiếp, trải qua khoảnh khắc liền sinh cõi con.” Kinh Bát Châu nói: “Lúc bấy giờ, A Di Ðà Phật bảo Bồ-tát ấy rằng: Muốn sanh về cõi ta, nên thường niệm danh ta chẳng ngớt. Làm như vậy thì được sanh về cõi ta.” Trong phần Hạ Phẩm Hạ Sanh của kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật cũng nói: “Nếu có chúng sanh tạo nghiệp chẳng lành: ngũ nghịch, thập ác, làm đủ các việc chẳng lành. Đến lúc sắp chết, gặp thiện tri thức dạy cho diệu pháp ‘quán tưởng niệm Phật.’ Nếu chẳng thể quán tưởng niệm Phật nổi thì chỉ nên xưng danh hiệu Phật. Chí tâm niệm Phật, chẳng để dứt tiếng, đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Ðà Phật. Do xưng Phật danh như vậy, nên trong mỗi niệm, trừ được tội nghiệp trong tám mươi ức kiếp sanh tử, sau khi mạng chung liền được vãng sanh.” Cuối cùng, kinh Vô Lượng Thọ bảo: “Pháp ta như thế nên nói như thế, chỗ Như Lai làm phải nên làm theo tu trồng gốc thiện cầu sanh Tịnh độ.” Những đoạn kinh văn trên đã sát định rõ ràng là: Người cầu vãng sanh Cực Lạc, phải nhất tâm niệm một hồng danh của A Di Đà Phật, chẳng thể xen tạp với bất cứ danh hiệu của vị Phật nào khác; đấy là bởi do pháp của A Di Đà Phật là như thế nên Thích Ca Mâu Ni Phât dạy như thế! Từ những đoạn kinh văn ấy, chúng ta cũng thấy rõ Mười Niệm được nói trong kinh này chính là chấp trì một danh hiệu A Di Đà Phật, chớ chẳng phải danh hiệu của một vị Phật nào khác.
Ý nghĩa của Mười Niệm Tất Vãng Sanh có thể chia ra làm hai thứ bậc: Mười Niệm Tất Vãng Sanh của bậc Thượng Phẩm và Mười Niệm Tất Vãng Sanh của bậc Trung và Hạ phẩm. Đối với những vị thuộc về ba phẩm bậc thượng (thượng thượng, thượng trung và thượng hạ) mà Quán kinh nói ở đây là dựa vào Mười Pháp Khởi Niệm được ghi trong kinh Di Lặc Sở Vấn, chứ chẳng phải chỉ là Mười Niệm xưng danh suông và thông thường của phàm phu chúng ta.
Hỏi: Thế nào là dựa vào Mười Pháp Khởi Niệm?
Đáp: Kinh Di Lặc Sở Vấn chép: Nếu hành nhân có đầy đủ những niệm như sau, liền được vãng sanh An Lạc quốc độ:
· Một là đối với hết thảy chúng sanh thường sanh từ tâm, đối với hết thảy chúng sanh chẳng hủy hoại hạnh của họ. Nếu hủy hạnh của họ, trọn chẳng được vãng sanh.
· Hai là đối với hết thảy chúng sanh, phát khởi bi tâm sâu xa, trừ bỏ ý tàn hại.
· Ba là phát tâm hộ pháp, chẳng tiếc thân mạng. Đối với hết thảy pháp, chẳng nên sanh lòng phỉ báng (tức là ngay cả ý nghĩ phỉ báng cũng không có huống là sự phỉ báng nơi hành động và lời nói).
· Bốn là sanh tâm quyết định nơi nhẫn nhục.
· Năm là thân tâm thanh tịnh, chẳng nhiễm lợi dưỡng.
· Sáu là phát tâm Nhất Thiết Chủng Trí, hằng ngày thường niệm, chẳng hề quên mất.
· Bảy là đối với hết thảy chúng sanh, khởi tâm tôn trọng, trừ ý ngã mạn, nói năng khiêm tốn.
· Tám là chẳng ham thích những lời đàm luận của thế gian.
· Chín là chú trọng giác ý, sanh khởi các thứ thiện căn nhân duyên, xa lìa tâm ồn náo, tán loạn.
· Mười là chánh niệm quán Phật, trừ khử các căn (tức là giữ sáu căn tịch tịnh, không để các căn trần làm nhiễu loạn thân tâm của mình).
Thật thà mà nói, chỉ có các bậc Bồ-tát từ Sơ địa trở lên mới thực hiện nổi trọn vẹn Mười Niệm Tất Vãng Sanh của bậc Thượng Phẩm được nói trong kinh Di Lặc Sở Vấn; phàm phu chúng ta không thể làm nổi một cách viên mãn. Nếu nói như vậy, bậc trung căn và hạ căn phàm phu phải biết nương nhờ vào đâu để được vãng sanh, một đời này dứt đoạn sanh tử? Nếu vãng sanh thật khó đến mức như vậy, thì Đại Nguyện độ trọn ba căn, lợi-độn đều được lợi ích như nhau của Phật A Di Đà và chân lý Tha Lực Quả Giáo của Tịnh tông, chẳng lẽ không thể thực hiện được? Nếu Đại Nguyện độ trọn ba căn, thu nhiếp vạn loại của Phật A Di Đà không thành tựu thì tại sao Ngài đã thành Phật? Để trả lời những mối nghi ngờ này, Sư Vọng Tây giải thích: “Đối với bậc Thượng căn thì suốt cả một đời, chuyên cần tinh tấn trì niệm câu Phật hiệu đạt đến công phu thành khối; tới lúc lâm chung, chỉ cần một niệm tịnh tâm, niệm danh hiệu của Đức Phật A Di Đà một lần thôi, cũng đều được vãng sanh. Còn đối với các bậc trung và hạ thì chỉ cần trong mỗi niệm, niệm niệm tiếp nối không gián đoạn, dù là định tâm hay tán tâm, nếu khế hợp với ‘chí tâm tin vui’ như Quán kinh chỉ bảo: ‘Chí tâm như thế, chẳng cho ngơi tiếng, đầy đủ Mười Niệm,’ thì nhất định cũng sẽ được vãng sanh.” Vậy, “chí tâm tin vui” và “đầy đủ Mười Niệm” là hai quan điểm rất trọng yếu của nguyện Mười Niệm Tất Vãng Sanh, và nó cũng chính là cái nhân để được vãng sanh Cực Lạc. Ngài La Thập Đại sư giải thích những điểm trên một cách hết sức khéo léo, ảo diệu như sau: “Ví như có người ở trong đồng hoang, gặp phải ác tặc vung giáo, quơ gươm xông đến toan giết. Người ấy rảo chạy đến bờ sông. Trong lúc nguy cơ, người ấy chỉ nghĩ cách làm sao có thể vượt qua được bên kia bờ sông để không bị ác tặc chặt mất cái đầu của mình, không còn có bất cứ ý nghĩ gì khác nữa; niệm như thế chính là Nhất tâm Niệm Phật.” Vậy, đến lúc lâm, nếu chúng ta hết lòng khẩn thiết chỉ giữ lấy ý niệm vãng sanh Cực Lạc, liễu sanh tử làm mục tiêu duy nhất mà chí tâm tin ưa niệm mười tiếng Phật hiệu không gián đoạn, chẳng để cho bất cứ một niệm nào khác xen vào, thì đó gọi là Mười Niệm Tất Vãng Sanh của bậc trung căn và hạ căn.
Tóm lại, Mười Niệm Tất Vãng Sanh được nói trong kinh Vô Lượng Thọ hàm chứa cả hai nghĩa ”ẩn mật” và “hiển liễu.” “Mười Niệm hiển liễu” là mười niệm của bậc trung căn và hạ căn được Đại sư La Thập giảng giải như trên. Còn “Mười Niệm ẩn mật” là mười niệm của bậc thượng căn mà kinh Di Lặc Sở Vấn đã nói. Tuy nói là có phương pháp niệm Phật khác nhau dành cho căn tánh khác nhau, nhưng đó chỉ là phương tiện mà nói như vậy thôi, chớ thật ra, tánh của Phật pháp vốn chỉ là một không hai, nhưng tướng của Phật pháp lại thiên biến vạn hóa để thích ứng với từng mỗi căn cơ. Vì thế, chư cổ đức mới nói: “Chỗ đến không hai, phương tiện có nhiều nẻo;” đấy chính là tánh vô ngã của Phật pháp, nêu rõ chân thật tế và sự viên diệu chẳng thể nghĩ bàn của Phật pháp. Vì sao nói vậy? Bởi vì trong mỗi một niệm của “Mười Niệm hiển liễu” lại tự nhiên chứa đựng đầy đủ “Mười Niệm ẩn mật” được nói trong kinh Di Lặc Sở Vấn. Sự thật này đã phô bài trọn vẹn lẽ huyền vi của Tịnh tông, đó là Phật pháp vốn chỉ là một pháp, không hai.
Phật pháp thật tế là pháp viên diệu chẳng thể nghĩ bàn, mà sự huyền diệu tối cực lại chỉ nằm trong cái bình thường; vì thế chư cổ đức mới bảo: “Tâm bình thường chính là đạo.” Chúng ta chỉ cần gìn giữ cái tâm của mình bình bình thường thường, ròng rặt chuyên tinh, miên mật niệm Phật, niệm niệm ly niệm, thì tự nhiên thầm xứng hợp với diệu đạo. Muốn dùng cái tâm phàm phu để nhập vào Thật tướng các pháp thì chỉ có trì danh niệm Phật là dễ nhất. Vì sao niệm Phật lại vi điệu và có công đức to lớn đến như thế? Nguồn nhân đấy chính là trong mỗi ý niệm của người niệm Phật dù là định tâm hay tán tâm, niệm niệm của họ đều thầm ứng hợp với Thật tướng của Như Lai. Vì thế, trong kinh Niệm Phật Ba-la-mật, Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn mới trân trọng xác quyết rằng: “Vãng sanh đồng ý nghĩa với thành phật, vì vãng sanh tức là thành Phật. Muốn vãng sanh Cực Lạc chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là đủ. Vì danh hiệu Phật chính là biểu tướng của pháp thân; cho nên niệm danh hiệu Phật tức là niệm Pháp thân Phật vậy.”
Kinh Vô Lượng Thọ nói, Nguyện thứ 18 “Mười Niệm Tất Vãng Sanh” của Phật A Di Đà tuy có thể phổ độ hết thảy chúng sanh, nhưng không độ được kẻ phạm tội ngũ nghịch và hủy báng chánh pháp. Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu là năm tội ác trái ngược với đạo lý đến cùng cực, nên gọi là “ngũ nghịch.” Do phạm tội ngũ nghịch nên cảm lấy ác nghiệp khổ quả trong vô gián địa ngục trong một đại kiếp, chịu khổ không ngừng ngớt. “Phỉ báng chánh pháp” là chê bai, nhục mạ, nói xấu về Phật pháp trái với sự thật. Quán Vô Lượng Thọ kinh dạy: “Ngũ nghịch, thập ác, lâm chung Mười Niệm cũng được vãng sanh,” nhưng kinh Vô Lượng Thọ lại loại trừ họ ra, nguyên nhân do đâu? Là vì chẳng những họ phạm tội ngũ nghịch mà còn phỉ báng chánh pháp, tội nặng càng thêm nặng hơn, nên chẳng thể được vãng sanh.
Quán kinh bảo người phạm tội ngũ nghịch, nhưng chẳng phỉ báng chánh pháp cũng được vãng sanh. Vậy nếu ngược lại, có kẻ chỉ phỉ báng chánh pháp, nhưng chẳng phạm tội ngũ nghịch, họ có được vãng sanh hay chăng? Vãng Sanh Luận Chú giải thích: “Nếu chỉ phỉ báng chánh pháp, chẳng phạm các tội khác, cũng nhất định chẳng được vãng sanh.” Thế mới biết, chẳng có tội nào sánh bằng nổi tội phỉ báng chánh pháp của Phật. Kinh dạy, tội nhân ngũ nghịch bị đọa trong A-tỳ đại địa ngục, chịu đủ hết thảy trọng tội, chỉ đến khi kiếp tận mới được ra. Còn người phỉ báng chánh pháp thì bị đọa trong A-tỳ đại địa ngục chẳng có ngày ra; nếu A-tỳ đại địa ngục này tận, họ bèn bị chuyển sang A-tỳ đại địa ngục khác, lần lượt trải qua trăm ngàn A-tỳ đại địa ngục như thế, mà Phật chẳng thể huyền ký lúc nào họ sẽ thoát khỏi. Như vậy, tội phỉ báng chánh pháp là nặng nề nhất, chẳng có tội lỗi nào sánh bằng! Tuy năm tội nghịch giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu là trọng tội, nhưng nguyên nhân gây ra tội nghịch này đều là do không có chánh pháp. Vì vậy, tội nghiệp của người phỉ báng chánh pháp chính là nguyên nhân chánh gây ra năm tội nghịch và các ác nghiệp khác làm phá hoại phước điền của chúng sanh; cho nên, tội phỉ báng chánh pháp của Phật là nặng nhất!
Trên thật tế, kinh nói người phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp chẳng được vãng sanh là vì Phật muốn ngăn ngừa điều ác mà phương tiện nói như thế. Sách Quán Kinh Sớ của Đại sư Thiện Đạo lại giải thích khác biệt rằng: “Trong Bốn Mươi Tám Nguyện loại trừ kẻ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp là vì hai nghiệp này gây chướng rất nặng. Chúng sanh nếu trót phạm phải liền vào thẳng A-tỳ, kinh hoàng bao kiếp, biết nhờ đâu để thoát khỏi. Ðức Như Lai sợ chúng sanh tạo hai tội lỗi ấy, nên mới thốt lời ngăn ngừa ‘chẳng được vãng sanh,’ nhưng chẳng phải là Ngài chẳng nhiếp thủ bọn họ... Dẫu tạo tội vẫn được nhiếp thủ vãng sanh, tuy được vãng sanh, nhưng hoa sen trong nhiều kiếp chưa nở. Lúc ở trong hoa, bọn tội nhân ấy có ba thứ chướng: một là chẳng được thấy Phật và các thánh chúng; hai là chẳng được nghe chánh pháp; ba là chẳng được qua khắp các nơi cúng dường. Trừ những điều trên ra, không còn các nỗi khổ nào khác.” Vậy, kinh nói “duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp” chỉ là để ngăn ngừa những căn cơ chưa tạo nghiệp mà thôi. Nếu với căn cơ đã trót tạo nghiệp, đã hồi tâm sám hối, chẳng còn tái phạm nữa thì Phật cũng nhiếp thủ bọn họ, chẳng bỏ sót một ai. Vì vậy, chữ “trừ” ở đây thật sự chỉ là nhằm ngăn ngừa điều ác, để kẻ chưa tạo ác chẳng dám tạo. Kẻ đã trót tạo ác nếu biết hồi tâm sám hối, niệm Phật cầu sanh Cực Lạc vẫn được Phật nhiếp thọ vãng sanh.
Do vì Di Ðà Đại Nguyện nhiếp thủ căn cơ vô tận, nên Thiện Ðạo Đại sư bảo: “Như Lai sở dĩ xuất hiện trong đời, chỉ là để nói biển bổn nguyện của Phật A Di Ðà.” Tam thế chư Phật xuất hiện trong đời chỉ là để nói một đại sự nhân duyên, đó là tuyên thuyết nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn của Phật A Di Ðà, nhằm cứu vớt chúng sanh, nên Đại sư nói: “Nay được gặp gỡ di tích của Phật Thích Ca trong đời Mạt pháp, pháp môn trọng yếu, bổn thệ nguyện Cực Lạc của Phật A Di Ðà, hết thảy phàm phu thiện ác được vãng sanh, không ai lại chẳng nương vào đại nguyện lực của A Di Ðà Phật, làm tăng thượng môn vậy.” Trong bài luận của Đại sư lại có câu: “Kẻ ngu si trong đời này đã sanh lòng phỉ báng thì lẽ nào chịu nguyện sanh?” Vì vậy, kinh dạy người phạm tội ngũ nghịch, báng pháp, chẳng được vãng sanh cũng là thuận theo lý lẽ thông thường mà thôi. Quán kinh Sớ của Thiện Đạo Đại sư hiển thị bi nguyện vô tận của Phật A Di Ðà: “Tuy ngũ nghịch, báng pháp nhưng lúc lâm chung lại có thể niệm Phật thì chính là sám hối phát tâm, người như vậy trong ức ức người khó được một hai kẻ, nên Phật vẫn từ mẫn nhiếp thọ.”
Chúng ta phải nên biết bổn nguyện của Phật A Di Đà là mạnh mẽ nhất. Hoằng thệ của Phật A Di Đà tuy có đến Bốn Mươi Tám Nguyện, nhưng quy chung chỉ bảo niệm Phật là điều thiết yếu nhất. Ai niệm Phật thì Phật niệm người ấy. Ai chuyên tâm nhớ tưởng đến Phật thì Phật biết người ấy. Cho nên, chỉ có niệm Phật mới được quang minh của Phật nhiếp thọ. Vì vậy, mỗi một lời nguyện trong Bốn Mươi Tám Nguyện của A Di Đà Phật đều dẫn về nguyện Mười Niệm Tất Vãng Sanh. Bởi do nhờ nơi Mười Niệm Tất Vãng Sanh mà chúng sanh mới có thể nhập vào biển quang minh thọ lượng của Phật A Di Đà để được sanh về cõi Cực Lạc, không có ba đường ác và không bị đọa vào các đường ác nữa, lại được đầy đủ tướng hảo quang minh, trí tuệ thù thắng, hiện thần thông tự tại mà được diệt độ. Vì vậy, riêng chỉ nguyện Mười Niệm Tất Vãng Sanh mới thật sự là nguyện tối thắng, vượt trội hơn hết trong Bốn Mươi Tám Nguyện của Đức Phật A Di Đà. Cho nên, nguyện Mười Niệm Tất Vãng Sanh là vua của các nguyện căn bổn, thể hiện phương tiện rốt ráo, Nhất thừa Nguyện hải, sáu chữ hồng danh, công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật A Di Ðà. Do vì danh hiệu A Di Đà Phật là thật đức, cho nên âm thanh và chữ viết A Di Đà Phật cũng đều là Thật tướng.