Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy.
(You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được.
(I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Bạn có biết là những người thành đạt hơn bạn vẫn đang cố gắng nhiều hơn cả bạn?Sưu tầm
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ.
(A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết.
(Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever.
)Mahatma Gandhi
Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng.
(Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Ngọn núi nhỏ Phổ Đà, còn được gọi là Núi Ông Sư, thuộc địa phận làng Xuân Tự, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh- tỉnh Khánh Hòa, cách thành phố biển Nha Trang khoảng 50 cây số về hướng Bắc, có hình thù của một “ông Tượng” nằm giữa một vùng mây nước hữu tình, tứ bề sơn thủy làng mạc bao bọc tạo nên một bức tranh phong cảnh bàng bạc thơ mộng và thiêng liêng ấm cúng.
Vào năm 1956, Sư Viên Giác- pháp danh Tâm Trí, pháp hiệu Chiếu Nhiên, một môn đồ xuất chúng của Bích Không Đại Sư (tức Hòa thượng Thích Giác Phong)– sau nhiều năm hoằng pháp khắp các tỉnh miền Trung và cao nguyên, đã chọn nơi đây để tạo lập nên một chốn già lam thanh tịnh mang tên Giác Hải. Tu viện mang một hình hài mộc mạc, kiến trúc đơn sơ, không nguy nga tráng lệ, không đồ sộ cầu kỳ, nhưng hiển hiện giữa một vùng hoang sơ thanh vắng vào thời điểm đó, đã nghiễm nhiên trở thành một danh lam của xứ trầm hương Khánh Hòa. Đặc biệt nhất là Điện thờ Quan Âm Nam Hải được kiến tạo ngay trên đỉnh núi, bên trái phía sau ngôi chánh điện, với thánh tượng Bồ tát bằng thạch cao trắng muốt đứng nhìn ra hướng Đông có vịnh Vân Phong biển xanh biên biếc, mênh mang mây trời, đã đi vào huyền thoại với bao câu chuyện linh ứng nhiệm mầu… Năm 1972, bên chân tượng của Đức Bồ tát Quán Thế Âm, Sư Viên Giác đã ra đề thơ cho Nữ sĩ Tâm Tấn cảm tác, và thi phẩm “Giác Hải đêm huyền” được ra đời:
“Hải Đăng trăm ánh… ngoài khơi sâu lấp lánh Phò Nguy Tinh Tú huyền vi… đêm tỏa sáng đường đi Cứu Khổ Sóng Nam Hải run run nép sợ Mây Phổ Đà nín thở, cúi đầu Ngày… chim thuần lý ngàn câu Gió hòa Pháp ngát nhiệm mầu mười phương Đêm… hoa cây cỏ nhuần sương Thấm trăng Phổ Độ, ướp hương Đại Từ. Khi hướng thượng gồm thu Tịnh Pháp, Hạnh Từ Bi sáng khắp linh tòa Quán Âm muôn vạn sát –na Soi đèn Trí Huệ, châm hoa siêu phàm; Khi hạ hóa Bi vang sấm động Phủ hạnh Từ chiếu rộng mây lành, Cảm thương tiếng khóc nhân sinh Ba-mươi-hai ứng Thân… hành Nguyện chung. Ban uy lực vô cùng vi diệu Hải Triều Âm… nhạc diệu siêu linh Nhành Dương dập lửa vô minh Cam Lồ một giọt muôn hình hoàn sanh. Niềm suy tưởng long lanh Tinh Tú Trăng hào quang mơ phủ lên đầu! Không gian thoáng hiện vòng cầu Nhập miền linh giác quy hầu Phổ Môn”
Bài thơ sau đó được lưu truyền trong giới Phật giáo, đã được chư Tăng Ni, cũng như những Phật tử yêu văn chương thi phú tán thán, nhất là hai câu: “Sóng Nam Hải run run nép sợ; Mây Phổ Đà nín thở, cúi đầu”, như một câu đối tuyệt diệu để tôn kính ngợi ca vẻ uy nghiêm thánh thiện của một vị Bồ Tát được cư dân ở khắp các miền biển, ở những làng chài chạy dài theo miền duyên hải của đất nước bao đời thờ phụng quy kính…
Huyền thoại về chốn già lam Giác Hải thì có rất nhiều, đã lưu truyền trong dân gian, và đi vào cả thi ca, sử sách, trong đó còn có câu chuyện về giếng nước trong vắt được đào sâu vào lòng núi đầy đá cứng đất khô…
“Vạn Ninh có núi Phổ Đà Có chùa Giác Hải, có tòa Quan Âm Non Vô Thượng, Giếng Thậm Thâm Quên mùi tục lụy, cõi lòng hân hoan!”
Đó là bài thơ rất ít ai được biết là của chính Cư sĩ Tôn Thất Tán ở Nha Trang thường hay ra Vạn Ninh làm Phật sự đã hạ bút cảm tác, hai câu đầu “thi phẩm tứ tuyệt” này đã được truyền khẩu và trở thành ca dao địa phương, bất tử với thời gian …
Lần giở các cuốn địa chí Khánh Hòa như “Xứ Trầm Hương” của Quách Tấn, hay “Non Nước Khánh Hòa” của Nguyễn Đình Tư, đều thấy có nhắc đến ngôi chùa huyền thoại nằm bên vịnh Vân Phong hình bán nguyệt xanh biếc này. Bao thi nhân vãn cảnh sinh tình, hết người này lưu bút, đến vị khác đề thơ:
“Viếng cảnh Xuân Sơn yết Phật đài Xa lìa bể khổ, sạch trần ai Núi mây ba phía êm đềm nhỉ Thiền viện mấy tòa đẹp đẽ thay! Nói Pháp giảng kinh luôn sớm tối Hồi chuông gầm sóng suốt đêm ngày Khen ai khéo chọn nơi tu dưỡng Độ được mình, thêm độ được người!” (Mai Phong)
Hay bài thơ xướng:
“Phổ Đà có phải cõi Tây Thiên Tượng núi Quan Âm phép diễm truyền Đá hãy gật đầu si tánh Phật Hạc còn quỳ gối trước hài Tiên Trăng mây Biển Giác nên câu kệ Mượn nước Sông Nha rửa tấm phiền Là giống hữu tình đâu chẳng gặp Tu hành e cũng có căn duyên!” (Đào Chi Tiên)
Và, chính Sư Viên Giác đã hạ bút họa lại:
“Chính đây, phải lắm, cảnh Tây Thiên Thắng tích danh lam tự cổ truyền Đế Thích hằng lai chiêm Thọ Phật Quán Âm thường hiền độ Na Tiên Xưa nay Biển Giác ly câu kệ Sẵn nước Ma Ha chẳng não phiền Thanh tịnh một mầu, đâu dễ gặp Ngậm vành trăng sáng cũng tùy duyên!”
Hòa thượng Thích Viên Giác là một vị cao tăng đạo hạnh đã đóng góp nhiều tâm huyết trong công cuộc chấn hưng, bảo vệ và hoằng dương Phật pháp. Trước khi khai sơn lập tự Tu viện Giác Hải, Ngài đã từng đảm đương chức vụ Giám đốc Phật Học Đường Khánh Hòa đồng thời trụ trì chùa Hải Đức ở Nha Trang(1954), cùng chư Tôn Đức thành lập Phật Học Viện Trung Phần từ chùa Hải Đức (1956), thành lập và điều hành trường Bồ Đề Tuệ Quang (Đà Lạt), lập trường Phật học cho Tăng sinh tại Tổ đình Linh Sơn (Vạn Ninh). Sau Pháp nạn năm Quý Mão(1963), Ngài giữ chức Thư Ký Tổng Vụ Hoằng Pháp trực thuộc Viện Hóa Đạo, rồi về giảng dạy tại Phật học viện Trung phần và Ni viện Diệu Quang (Nha Trang). Là một tăng nhân yêu văn chương thi phú, trong thời gian dài về sau này, Ngài không chỉ chuyên tâm dịch kinh, trước tác nhiều tác phẩm quý giá, mà còn sáng tác những thi phẩm mang đậm giáo lý Phật Đà. Kinh sách Ngài để lại cho đời gồm: Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp, Đại Thừa Kim Cang kinh luận, Phẩm Phổ Môn, Quan hệ tư tưởng, Tìm hiểu Quán Thế Âm Bồ Tát, Lịch sử phong cảnh chùa Giác Hải, Khuyên niệm Phật (tập thơ)… Vào sáng ngày 14 tháng 7 năm 1976 (Bính Thìn), Ngài thâu thần thị tịch ngay tại chùa Giác Hải, hưởng thọ 65 tuổi đời, 28 hạ lạp, được chúng đệ tử an táng và xây bảo tháp thờ phụng nghìn thu trên triền đồi gần bên Điện Quán Thế Âm linh thiêng huyền thoại. Trên tấm bia của một mặt bảo tháp, còn lưu khắc thi phẩm “Hướng về Thầy” của Thích Tịnh Từ, một thi nhân đệ tử của Ngài:
“Giả thân Thầy đã xa rồi Tinh anh còn đó bên đồi tịch liêu Lắng nghe mõ sớm chuông chiều Bâng khuâng hải đảo, sóng triều lặng yên Buồm ai ngược gió chèo thuyền Qua bờ giác ngạn, vượt miền trầm luân Lời Thầy con trẻ gọi nhuần Đức Thầy lưu hiện ma quân quy đầu”
Từ sau khi Sư Viên Giác viên tịch đến nay, đệ tử của Ngài là Thượng tọa Thích Tịnh Diệu, đã cùng với sư huynh đệ đồng môn từng bước trùng tu lại ngôi chánh điện, điện Quan Âm Nam Hải, cổng tam quan, tường rào bao bọc, kiến thiết thêm nhiều công trình mang đậm nét nghệ thuật như nhà chuông, tượng đá… hòa cùng với cây cảnh đủ sắc màu, tạo nên một chốn già lam thắng tích danh bất hư truyền…
Về với Tu viện Giác Hải hôm nay, cảnh cũ người xưa đã biến đổi rất nhiều, vườn thiền cảnh tịnh luôn rộng mở đón đưa lữ khách thập phương ra vào trong không khí im ắng trong lành. Từng bước chầm chậm lên những bậc tam cấp lặng im giữa các cặp sư rồng nghinh chầu, đứng ngắm nhìn nụ cười đầy hỷ lạc của bức tượng Di Lặc Tôn Phật bằng đá phía trước chánh điện, vào trong một sảnh đường ngắm nhìn “Bản kinh Phẩm Phổ Môn” được viết tay trên giấy khổ rất lớn lồng trong khung kính treo trên vách (có thể là một kỷ lục của Phật giáo Việt Nam chưa được phát hiện và xác lập), lững thững vòng ra khoảnh sân rợp bóng mát để chiêm bái hình tượng Thủy Nguyệt Quan Âm ngồi trên phiến đá nhìn trăng trong nước với phong thái ung dung thanh thoát, xuống lại đến sân dưới dừng chân trước hai gốc me cổ thụ già vài trăm tuổi, hay bước vào đứng giữa gốc xoài nhiều nhánh tỏa vươn lên cao như những cánh tay của thánh nhân khổng lồ; lang thang ra phía trước ven theo dãy tường rào để bắt gặp một hồ nước rộng thênh có tung tăng cá lội, nếu hữu duyên thì được leo ngồi trên chiếc thuyền con, tự tay cầm mái chèo quẫy nước ra đến một ốc đảo nho nhỏ giữa hồ để bái lễ thánh tượng Quan Âm Nam Hải và Thiện Tài Đồng Tử, đó chính là pho tượng Quán Thế Âm mà thuở khai sơn lập tự từng an vị trên đỉnh núi đã được dời xuống với cảnh mới chẳng khác nào tiên cảnh bồng lai… Trở vào lại bờ, qua một lối đi nhỏ trải đầy những cánh hoa phượng đỏ au, vượt lên con dốc được màu xanh cây lá bao phủ bên trên để đến trước Nam Hải Quan Âm Đại Điện uy nghiêm trầm mặc… Đứng nơi đó, quay nhìn về hướng mặt trời mọc, một bức tranh thiên nhiên thủy mặc tuyệt mỹ với non nước biển thuyền của vịnh Vân Phong hiện ra trước mắt, mênh mang trời xanh mây trắng, lồng lộng gió mát hương loang, lữ khách ắt sẽ thấy hết muốn trở về với “sơn hạ hồng trần hung mãn mộng” (dưới núi bụi hồng đầy mộng dữ)… Cuối năm 2001, lặng lẽ về nơi xưa chốn cũ, Nữ sĩ Tâm Tấn đã đứng nới đó, lòng rung cảm xúc, ý thơ tuôn trào, để rồi lưu lại thi phẩm “Thăm lại chùa xưa” vào kho tàng thi ca của chốn già lam huyền thoại này:
“Quanh Điện Các non trùm uy lực Trước Ngôi Thiền biển trải Đại Bi Ngắm Vịnh Vân Phong, nhớ bóng Thầy Ngày xưa… vin gậy ngắm trời mây Câu Thơ phá Thạch, Thơ xưng tán Ý Đạo khai Sơn, Đạo hiển bày. Chấp Pháp danh môn hàng kế thừa Truyền lưu thông tuệ bậc Uyên ưu Triền non Tháp Tổ tờ mây trải Trăng Bút Lăng-Già ấn Sử xưa…”
Và, còn nhiều hơn như vậy nữa. Nếu hữu duyên đến vãn cảnh Tu viện Giác Hải, chúng ta sẽ nhận ra một điều: chính chốn già lam đầy ắp thi ca và huyền hoại này đã là một bài thơ bất tuyệt không cùng, đâu cần phải viết ra văn tự…
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần...
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.38 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đang online: Viên Hiếu Thành Huệ Lộc 1959 Bữu Phước Chúc Huy Minh Pháp Tự minh hung thich Diệu Âm Phúc Thành Phan Huy Triều Phạm Thiên Trương Quang Quý Johny Dinhvinh1964 Pascal Bui Vạn Phúc Giác Quý Trần Thị Huyền Chanhniem Forever NGUYỄN TRỌNG TÀI KỲ Dương Ngọc Cường Mr. Device Tri Huynh Thích Nguyên Mạnh Thích Quảng Ba T TH Tam Thien Tam Nguyễn Sĩ Long caokiem hoangquycong Lãn Tử Ton That Nguyen ngtieudao Lê Quốc Việt Du Miên Quang-Tu Vu phamthanh210 An Khang 63 zeus7777 Trương Ngọc Trân Diệu Tiến ... ...