Trong lịch sử Phật giáo Đại thừa lưu chuyển trên hai ngàn năm qua, hiếm có một nhân vật nào vừa mang hình ảnh cư sĩ tại gia, vừa có trí tuệ siêu việt, lại vừa có khả năng biện luận sâu sắc và hùng biện như Duy Ma Cật (Vimalakīrti), một nhân vật thế tục mà phi thường vì Duy Ma Cật không phải là vị Sa môn, cũng không nương vào chiếc áo cà sa, mà vẫn biểu hiện được đầy đủ tinh thần Bồ tát đạo. Chính vì sống ngay trong đời thường, giữa gia đình, phố chợ, cung đình, và cả những chốn ăn chơi phồn hoa… mà lời dạy của ông càng gần gũi, có sức thuyết phục với nhiều tầng lớp quần chúng, nhất là soi chiếu giá trị ấy đối với thời đại kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo như ngày hôm nay.
Điểm đặc biệt nhất là Duy Ma Cật không lấy sự xa lánh cuộc đời làm tiêu chuẩn giải thoát, mà ngay giữa cuộc sống thế gian, ông vẫn thị hiện trí tuệ và từ bi, vẫn “đồng sự nhiếp” để cảm hóa chúng sanh. Giáo pháp Đồng Sự Nhiếp trong Tứ Nhiếp Pháp của Bồ tát gồm bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự thì đồng sự nhiếp được xem là phương tiện thù thắng, có khả năng cảm hóa sâu xa nhất đến chúng sanh cùng sống, cùng hít thở trong một hoàn cảnh, một môi trường.
“Đồng sự” nghĩa là cùng làm, cùng sống, cùng chia sẻ với đối tượng mà mình muốn hóa độ. Bồ tát không đứng ở vị trí cao hơn để dạy bảo, mà hòa mình vào đời sống thường nhật, công việc và hoàn cảnh của người chung quanh, khiến họ cảm nhận được sự gần gũi và chân thành. Nhờ vậy, tín tâm được khơi mở, con đường giác ngộ mới thuận lợi bén rễ.
Tinh thần này chính là phương châm “tùy loại hóa thân” trong kinh điển Đại thừa. Nếu ở trong hàng thương nhân, Bồ tát có thể thị hiện làm người buôn bán; trong giới trí thức, Ông có thể thị hiện làm học giả; với người nghèo khó, Duy Ma Cật có thể hiện thân đồng cảnh ngộ. Điểm cốt yếu là chung vai sát cánh, chịu đựng khổ vui như nhau, để gieo trồng hạt giống từ bi và trí tuệ.
Giáo pháp đồng sự nhấn mạnh đến tính bình đẳng và nhập thế vì không có sự cách biệt giữa thầy và trò, giữa bậc giác ngộ và phàm phu, mà chỉ có sự tương thông từ tâm đến tâm. Đây là nghệ thuật giáo hóa dựa trên sự đồng cảm đôi bên, tuyệt đối khác với lối áp đặt từ bên ngoài.
Trong bối cảnh xã hội chuộng thực dụng kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo hôm nay thì đồng sự nhiếp gợi mở một phương cách hoằng pháp thiết thực bởi người tu không tách rời cộng đồng, mà dấn thân trong gia đình, trường học, doanh nghiệp, bệnh viện, quân đội để sống cùng, làm cùng, chia sẻ cùng. Chính nhờ sự đồng hành này mà Phật pháp trở nên sinh động, gần gũi, thấm vào từng hơi thở đời sống.
Như vậy, đồng sự nhiếp không chỉ là phương tiện cảm hóa, mà còn là lý tưởng Bồ tát đạo: sống giữa cuộc đời mà vẫn giữ tâm thanh tịnh, cùng chúng sanh mà vẫn mở đường giải thoát. Đây chính là hạnh nguyện cao đẹp, đưa đạo Phật từ thiền đường đi vào mạch sống nhân gian.
Tư tưởng của Ông xoay quanh ba trục chính là tâm thanh tịnh, giải thoát bất khả tư nghì và chân lý bất nhị. Đây không chỉ là ba pháp môn căn bản của kinh Duy Ma Cật, mà còn là ba trụ cột tư tưởng nâng đỡ sự lưu chuyển của Phật pháp trong thế gian.
Chúng ta đi từng phần để dễ thấu đạt, thứ nhất là tâm thanh tịnh chính là nguồn cội của giải thoát. Trong thời nguyên thủy thì ngay từ buổi sơ khai, giáo pháp đã khẳng định qua thi kệ Pháp Cú: “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm là chủ, tâm tạo tác.” Điều này mới nghe thì khó hiểu nhưng với Duy Ma Cật thì kế thừa và triển khai tư tưởng này trong đời sống nhập thế như sau: Tâm thanh tịnh ở đây không chỉ là tâm yên lặng, mà còn là tâm không nhiễm ô, không bị ngoại cảnh chi phối, luôn sáng tỏ như gương soi. Khi tâm an, thì mọi hiện tượng được nhìn bằng con mắt bình đẳng, không vướng vào phân biệt hơn thua, đẹp xấu, giàu nghèo hay Phật thánh phàm phu. Duy Ma Cật khẳng định rằng, thế giới khổ đau hay an lạc, tịnh độ hay uế độ, đều do tâm hiện. Nếu tâm ô nhiễm thì cảnh giới là địa ngục; nếu tâm thanh tịnh thì nơi ấy là Tịnh độ. Câu kệ trong kinh Hoa Nghiêm: “Nhược nhân dục liễu tri. Tam thế nhất thiết Phật. Ưng quán pháp giới tánh. Nhất thiết duy tâm tạo.” là minh chứng cho lập luận này. Như vậy, Tịnh độ không nằm ở phương xa, mà ngay nơi tâm thanh tịnh của con người.
Ở đây, Duy Ma Cật đưa ra một tư tưởng rất nhân bản bởi hạnh phúc hay khổ đau không do số phận hay quyền năng nào ban phát, mà chính do con người tạo nên. Khi tâm mở ra tha thứ, hận thù hóa giải; khi tâm ôm giữ chấp trước, phiền não triền miên. Bởi vậy, sự tu tập không gì khác hơn là làm chủ tâm mình, biết chuyển hóa cảm xúc, biết hướng nội mà tìm nguồn an lạc.
Từ quan điểm đó, Duy Ma Cật mở ra cái nhìn bình đẳng, nguyên thủy hay đại thừa, Nam tông hay Bắc truyền, tất cả đều do tâm tạo. Khi tâm thanh tịnh, mọi pháp môn đều đưa đến an lạc; khi tâm nhiễm ô, mọi pháp môn trở thành công cụ chấp thủ. Đây chính là ý nghĩa của Bát nhã Tánh không: “bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, bất hữu, bất vô.” Là vậy đó.
Thứ hai là Tư tưởng giải thoát bất khả tư nghì, vượt ngoài mọi khái niệm đối đãi có không, đẹp xấu, vui buồn… vì nếu tâm thanh tịnh là nền tảng, thì giải thoát bất tư nghì là cảnh giới mà nền tảng ấy dẫn đến. “Bất tư nghì” nghĩa là không thể nghĩ bàn, vượt khỏi mọi khái niệm, không thể dùng trí năng thông thường mà suy đoán.
Trong kinh, Duy Ma Cật nhiều lần thị hiện thần thông, nhưng điểm cốt lõi không nằm ở sự kỳ diệu bên ngoài, mà ở cách nhìn mọi hiện tượng đời thường như pháp môn giải thoát. Một chiếc xe bóng loáng rồi sẽ thành đống sắt rỉ; một đóa hoa tươi sẽ chóng tàn; một cơn gió thoảng qua cũng đủ nhắc nhở về vô thường. Chính sự quán chiếu đó đưa tâm vượt khỏi dính mắc, đạt tự do. Ở đây, Duy Ma Cật dạy rằng tất cả đều là Phật pháp như từ hoa cỏ, trăng sao cho đến phố chợ, xe cộ, mọi hiện tượng đều có thể trở thành bài học giác ngộ. Chúng không còn là vật vô tri, mà là những người thầy chỉ đường, giúp ta nhận ra bản chất vô thường, vô ngã, duyên sinh. Những đặc điểm của giải thoát bất tư nghì là không bị nhị nguyên chi phối như cao thấp, sạch dơ, sang hèn. Không giới hạn trong chốn thiền đường, mà ngay giữa chợ búa, thân tâm vẫn an nhiên. Không cần trốn đời, mà dùng chính dòng đời để tu tập, như “hoa sen mọc trong bùn mà chẳng nhiễm mùi bùn.” Đây là bước triển khai sáng tạo của Đại thừa vì giải thoát không xa rời thế gian, mà ở ngay trong thế gian, nhưng vượt lên trên thế gian.
Thứ ba là chân lý bất nhị, đây chính là tinh hoa của Duy Ma Cật bởi nếu tâm thanh tịnh là gốc, giải thoát bất tư nghì là quả, thì chân lý bất nhị là con đường dung thông cả gốc và quả.
“Bất nhị” nghĩa là không hai, không rơi vào đối đãi nhị nguyên. Con người thường bị cuốn trong vòng đối kháng ở hai thái cực buồn vui, thành bại, sạch nhơ, ta người… Chính sự đối đãi này tạo ra phiền não bất tận. Duy Ma Cật dạy rằng bản chất các pháp vốn không có tự tánh, chỉ do duyên sinh mà hiện hữu. Giống như bàn tay có muôn hình dáng, nhưng lưng tay và lòng tay vốn không thể tách rời. Cũng vậy, sắc và không tưởng chừng hai, nhưng thực ra chẳng hai vì sắc là không, không là sắc. Trong đời sống, bất nhị được biểu hiện rất cụ thể như con mắt thấy ngôi nhà là hai tức chủ thể là mắt và đối tượng là cái nhà. Nhưng nếu tâm không dính mắc, không khởi tham cầu, thì nhị nguyên tan biến, sự vắng lặng hiện hữu. Chẳng hạn như tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị v.v., đều là cơ hội thực tập bất nhị vì chính ta không chấp thủ, không ghét bỏ, chỉ lặng lẽ tiếp xúc rồi buông mà thôi.
Chân lý bất nhị không phủ nhận hiện tượng đối đãi, nhưng thấy rõ bản chất rỗng lặng của chúng, từ đó sống giữa hai bờ mà không kẹt vào bờ nào. Đây chính là đỉnh cao của trí tuệ Bát nhã, là tinh hoa triết học của kinh Duy Ma Cật. “Đỉnh cao của trí tuệ Bát nhã” ở đây có nghĩa là mức độ tuệ giác thấu suốt được tánh không của mọi pháp. Trí tuệ Bát nhã không chỉ dừng ở tri thức phân tích, mà là cái thấy trực chứng, vượt ngoài nhị nguyên. Khi chúng ta đạt được tuệ giác này thì có thể nhận ra rằng, các pháp không có tự tánh riêng, chỉ do duyên sinh mà hiện hữu. Sắc tức là không, không tức là sắc; hữu và vô, sanh và diệt, tịnh và uế… vốn không mâu thuẫn, mà nương nhau thành lập. Chính vì thấy rõ như vậy nên tâm ta không chấp thủ, không bị ràng buộc bởi đối đãi, đó chính là sự tự do tuyệt đối.
Trong Bát Nhã Tâm Kinh, tinh thần này được cô đọng qua công thức “bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”. Khi sống được với trí tuệ Bát nhã, hành giả ngay giữa cuộc đời mà không còn thấy phiền não là chướng ngại, cũng không thấy Niết bàn là mục tiêu xa vời. Chính sự dung hội này mới gọi là đỉnh cao trong đời sống hiện tại với khoa học và kỹ thuật cao vời mà không vượt qua tâm thức, bởi đó là cảnh giới vượt ngoài mọi khái niệm nhị nguyên, đưa đến an lạc và giải thoát rốt ráo.
Sự lưu chuyển của Phật pháp qua ba pháp môn: tâm thanh tịnh, giải thoát bất tư nghì và chân lý bất nhị đã làm nên sức sống bền vững của chân lý Duy Ma Cật ở giữa thế gian để từ đây ta thực hành như sau: quán sát tâm thanh tịnh là phương pháp tu tập thiết thực vì ta biết cách quay về chính mình, điều phục tâm, chuyển hóa cảm xúc tức nghiêm trì giới luật. Giải thoát bất tư nghì khẳng định rằng Phật pháp không chỉ dành cho chùa tháp, mà ở ngay trong đời thường, xuyên qua từng hiện tượng. Nhờ vậy, Phật pháp nhập thế, gần gũi, phổ cập, đó chính là định tĩnh, sáng suốt. Và mục tiêu cuối cùng là phát tuệ bởi chân lý bất nhị giải phóng con người khỏi gông cùm nhị nguyên, mở ra con đường trung đạo, nơi mọi phân biệt được dung hợp trong trí tuệ rộng lớn.
Chính nhờ ba đặc điểm này mà tư tưởng Duy Ma Cật đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho Đại thừa, góp phần truyền bá Phật pháp khắp mọi nơi, khẳng định rằng đạo Phật không chỉ là triết lý xuất thế, mà còn là hệ thống tư tưởng nhập thế đầy năng động, thích ứng với mọi thời đại trong thời kỳ kỹ thuật số phát triển tột cùng.
Hy vọng những dòng chữ này qua hình ảnh Duy Ma Cật, Như Ninh minh chứng một cách sống động cho khả năng giác ngộ ngay giữa đời thường bởi lẽ Bồ tát Duy Ma Cật không xây dựng Phật pháp trên tháp ngà triết học, mà dựng ngay trong chợ búa, gia đình, quan trường, hãng xưởng… để xác định rằng niết bàn và thế gian vốn chẳng hai. Lại nữa, tâm thanh tịnh giúp chúng ta làm chủ nội tâm, kiến tạo thế giới an lạc. Pháp môn giải thoát bất tư nghì mở ra cái nhìn vượt ngoài khái niệm, thấy pháp ở mọi nơi, mọi lúc, tức mọi pháp đều là bài học vô cùng giá trị, đều là Phật pháp và chân lý bất nhị phá tan nhị nguyên, đem đến sự tự tại ngay trong từng hơi thở, nụ cười.
Quả là vậy, tư tưởng Duy Ma Cật không chỉ là ánh sáng cho riêng một thời đại, mà còn là bài học vĩnh hằng cho nhân loại dù thời kỳ đồ đá thô sơ hay kỷ nguyên nhân loại bay tận cung trăng thì rốt cuộc ta vẫn hít thở, cùng sống ngay trong đời hiện tại, với tâm thanh tịnh, trí tuệ rộng lớn, và cái nhìn bất nhị thì chân lý lưu chuyển không ngừng, và mỗi chúng ta đều là người thừa kế ánh sáng ấy để chuyển tiếp cho lớp hậu lai sống trong an lành, tự do và hạnh phúc.
Mùa Vu Lan 2025Như Ninh Nguyễn Hồng DũngNhư Ninh Nguyễn Hồng Dũng