Trong một chuyến đi miền Trung Ấn, khi đến Sholapore, có một người cộng 
		tác mới là bạn W. T. Brown quê tại Glasgow (Anh quốc) tháp tùng với 
		chúng tôi. Anh ta từ Anh quốc sang đây do sự thúc đẩy của lòng mong muốn 
		phụng sự, và vừa mới đến Madras. Anh có viết thư cho tôi, bày tỏ thiện 
		chí tình nguyện trợ giúp tôi trong công việc. 
		Tôi đã trả lời anh ta bằng một bức thư lời lẽ lịch sự nhưng rất thẳng 
		thắn, cảnh giác về những sự hy sinh mà anh ta phải gánh chịu khi chấp 
		nhận dấn thân vào; cùng với sự vô ơn bạc nghĩa của người đời; những sự 
		lừa đảo phản trắc cá nhân, vị kỷ; những sự vu khống bôi nhọ thanh danh; 
		sự nghi ngờ bất công về ý đồ hay mục đích của mình; và những chuyến đi 
		vất vả mệt nhọc đêm cũng như ngày, bằng đủ mọi thứ phương tiện di chuyển 
		thô sơ và thiếu tiện nghi. Tôi cũng khuyên y nên trở về xứ nhà nếu y 
		thấy có triển vọng nào khác, để cho bà Blavatsky và tôi tiếp tục công 
		việc mà chúng tôi đã bắt đầu với một tinh thần tỉnh táo chứ không ảo 
		vọng. 
		Anh ta trả lời bằng một bức điện tín cho biết là sẽ đến và đợi tôi tại 
		ga Sholapore. 
		Đây nhắc lại trường hợp của Damodar Mavalankar. Khi người bạn trẻ này 
		gia nhập Hội Thông thiên học và đặt hết cả tâm hồn vào công việc phụng 
		sự, y được cha y cho phép đến sống chung với chúng tôi, bất chấp cả 
		những qui luật hạn chế về giai cấp và sống theo giới luật khổ hạnh giống 
		như của một tu sĩ xuất gia. 
		Theo tập quán của người Bà-la-môn, Damodar đã có đính hôn ngay từ khi 
		còn nhỏ, đương nhiên là không có sự chấp thuận của chính anh. Đến giai 
		đoạn trưởng thành là thời kỳ anh phải bước vào đời sống gia đình. Tuy 
		nhiên, nguyện vọng duy nhất của anh trong đời là sống một đời sống tâm 
		linh thoát tục, nên anh xem hôn nhân như một chướng ngại ghê gớm. Anh 
		cảm thấy mình là nạn nhân của phong tục tập quán, và rất muốn được giải 
		thoát khỏi sự giao kết ràng buộc kia để có thể trở thành một đệ tử chân 
		chính của chân sư K. H. mà anh đã nhìn thấy linh ảnh khi còn bé thơ, và 
		lại có dịp nhìn thấy ngài sau khi y đến với chúng tôi. 
		Cha của Damodar vốn là một người hiểu rộng và khôn ngoan, nên sau cùng 
		đã bằng lòng. Damodar bèn ký thác cho người cha phần gia tài ruộng đất 
		của anh do tổ phụ để lại, mà nếu tôi nhớ rõ, thì trị giá đến năm mươi 
		ngàn ru-pi, với điều kiện là người vị hôn thê từ thời thơ ấu của anh 
		phải được đưa về nhà nuôi dưỡng tử tế.
[6] 
		Khi đến Kanpur, tôi đã có những bằng chứng về sự phát triển tâm linh mau 
		chóng của Damodar. Như đã nói trước đây, trong một cơn bệnh nặng hồi còn 
		thơ ấu, anh ta được sự viếng thăm của một đấng cao cả mà nhiều năm về 
		sau anh đã có lần nhận ra như một trong các đấng chân sư, sau khi gia 
		nhập Hội Thông Thiên Học. Kể từ đó, mối liên hệ mật thiết giữa chân sư 
		và đệ tử đã được thiết lập, và Damodar đã đặt hết cả tâm hồn vào việc tu 
		luyện, ăn uống đạm bạc, tham thiền đúng giờ khắc, luyện đức tính hoàn 
		toàn vị tha vô kỷ, và làm việc ngày đêm không quản công lao khó nhọc để 
		làm tròn chức vụ mà tôi giao phó trong Ban quản trị Hội Thông thiên học.
		
		Damodar tham gia chuyến đi này của tôi là thừa lệnh sư phụ, và trong 
		suốt thời gian hành trình, chúng tôi đã có nhiều bằng chứng về sự tiến 
		bộ tâm linh mà anh ta đã có được. 
		Tôi còn nhớ rằng vào buổi chiều chúng tôi vừa đến Kanpur, anh ta đã làm 
		tôi ngạc nhiên bằng cách nhắn miệng với tôi một thông điệp của chân sư 
		để trả lời tôi về một việc mà tôi đang băn khoăn do dự không biết phải 
		giải quyết bằng cách nào. Anh ta còn nói thêm rằng tôi sẽ thấy bức thông 
		điệp ấy viết trên một tờ giấy nằm trong một hộc tủ có khóa cẩn thận, mà 
		chìa khóa nằm trong túi áo của tôi. 
		Khi tôi đi mở hộc tủ, tôi thấy bản thông điệp viết tay mà Damodar vừa 
		nói, và đó chính là thông điệp của đức chân sư K. H. gửi cho tôi. 
		Vào ngày thứ hai sau khi đến Kanpur, tôi nhận được một số thư tín chuyển 
		đến cho tôi từ Adyar. Trong số đó có một bức thư của ông Sam Ward gửi từ 
		Capri, có kèm theo một thông điệp gửi cho chân sư K. H. mà ông ta yêu 
		cầu tôi chuyển đạt đến ngài nếu có thể. 
		Vì lúc ấy Damodar mỗi đêm đều xuất hồn đi đến đạo viện của chân sư, nên 
		tôi đưa bức thư ấy cho y, và nói rằng y có thể hỏi ngài xem có nên đem 
		theo bức thư ấy hay không. 
		Đó là vào buổi trưa ngày 4 tháng 11 năm 1883, và chúng tôi đang ở tại 
		Kanpur, thuộc vùng Tây Bắc. Độc giả hãy nhớ rõ chi tiết này để theo dõi 
		phần nối tiếp ở một đoạn sau. Sau một buổi thuyết trình và làm các công 
		việc khác, chúng tôi từ Kanpur đi theo lộ trình đã vạch sẵn, qua các thị 
		trấn Lucknow, Bareilly và Moradabad. Ở mọi nơi, chương trình hoạt động 
		thường gồm có việc tiếp khách, thảo luận về đạo lý, và diễn thuyết công 
		cộng. 
		Tại Moradabad, bạn Damodar đã cho tôi thấy một bằng chứng khác nữa về 
		khả năng xuất hồn của anh. Anh đã xuất hồn đi đến Adyar, nói chuyện với 
		bà Blavatsky, nghe giọng nói của một vị chân sư thốt ra một thông điệp 
		gửi cho tôi, và yêu cầu bà Blavatsky hãy gửi điện tín cho tôi phần nội 
		dung của bức thông điệp ấy để chứng tỏ cho tôi thấy tính cách chính xác 
		của các sự việc xảy ra. 
		Khi anh ta trở về và báo cáo lại với tôi mọi việc, anh đọc lại bức thông 
		điệp của chân sư bằng trí nhớ, và tất cả mọi người có mặt trong gian 
		phòng đều ký tên vào một bản chứng thư để chứng nhận việc ấy. 
		Sáng hôm sau, người đưa thư của Sở Bưu điện mang đến cho tôi bức điện 
		tín của bà Blavatsky. Bức điện tín ấy xác nhận nội dung bản thông điệp 
		như Damodar đã đọc ngày hôm trước, và các nhân chứng có mặt trong phòng 
		cũng lại đồng ký tên vào phía sau bức điện tín để xác nhận việc ấy.
		
		Trạm kế đó trên lộ trình là Aligarh, và tại đây vào ngày 12 tháng ấy, sự 
		việc đã diễn biến tiếp nối theo vụ bức thư của ông Sam Ward gửi cho chân 
		sư K. H. 
		Tại Bưu điện, tôi nhận được thư tín từ Adyar, trong số đó có một bức thư 
		của bà Blavatsky đề ngày 5 tháng 11, kèm theo với bức thư của ông Sam 
		Ward gửi cho chân sư K. H. mà tôi đã nhận được trước đây từ Capri (nước 
		Ý) và đã đưa cho Damodar tại Kanpur vào chiều ngày 4 tháng 11, tức là 
		cách một đêm trước khi bà Blavatsky gửi thư ấy tại Adyar. Bức thư của bà 
		có đóng dấu gửi đi tại Bưu điện Adyar, ngày 5 tháng 11, và con dấu nhận 
		được tại Aligarh ngày 10 tháng 11, hai địa điểm này cách xa nhau năm 
		ngày đường xe lửa. Bức thư ấy đã nằm tại Bưu điện Aligarh hai ngày trước 
		khi tôi đến nhận thư. 
		Đây là một trường hợp có thể chứng minh cho khả năng chuyển di tức khắc 
		một vật thể giữa hai địa điểm cách xa nhau trong không gian. Không thể 
		có sự giả mạo hay ngụy tạo trong vấn đề này, do bằng chứng rõ rệt là 
		những con dấu Bưu điện đóng ở ngoài bì thư như đã diễn tả ở trên. 
		Damodar có kể cho tôi nghe một việc lý thú liên quan đến chuyến đi bằng 
		thể vía của anh. Như thường lệ, khi thể xác đã ngủ mê anh mới xuất hồn 
		vượt không gian bay thẳng đến nơi ở của chân sư trên dãy núi Tuyết sơn. 
		Nhưng khi đến nơi, anh mới thấy rằng chân sư cũng đã xuất hồn đi đâu đó 
		rồi! Kế đó, do quyền năng hấp dẫn của ngài đối với người đệ tử, thể vía 
		Damodar đã bị cuốn hút mãnh liệt và đến với ngài tức khắc chẳng khác nào 
		bị giòng nước xoáy mạnh và sâu thẳm cuốn trôi đi. Trong giây phút, 
		Damodar đã thấy mình ở tại Adyar, đứng trước mặt chân sư và bà 
		Blavatsky. 
		Khi đi ngủ, Damodar đã cầm trong tay bức thư của ông Ward, và thư ấy 
		dường như đã cùng với y đi lên cõi Trung giới, lẽ tất nhiên là đã chuyển 
		biến từ trạng thái vật chất cụ thể sang trạng thái khinh thanh của chất 
		dĩ thái hay chất thanh khí của cõi Trung giới. 
		Khi anh ta nói với chân sư về bức thư ấy, vẫn cầm nó trong tay và trao 
		cho ngài. Kế đó, ngài bảo anh hãy quay trở về nhà. Do một quyền năng bí 
		hiểm thuộc về khoa vật lý hay hóa học siêu hình, bức thư bằng chất dĩ 
		thái khinh thanh đã được phục hồi trở lại trạng thái đông đặc vật chất, 
		được bà Blavatsky cầm lấy, và ngày hôm sau, được gửi qua đường bưu điện 
		đến địa chỉ của tôi ở Aligarh. Việc gì xảy ra sau đó thì độc giả cũng đã 
		biết rồi. 
		Nếu tôi có được kiến thức uyên bác về khoa học hơn, có lẽ tôi đã dùng sự 
		việc này, cùng với hiện tượng cái khăn vấn đầu mà một vị chân sư khác đã 
		cho tôi khi ngài đến viếng tôi bằng thể vía ngay trong phòng của tôi tại 
		New York trước đây, và những trường hợp chuyển di các đồ vật khác nữa... 
		để làm một đề tài thảo luận về khả năng biến đổi những đồ vật từ trạng 
		thái vật chất cụ thể, hữu hình sang trạng thái khinh thanh, vô hình vô 
		ảnh của những vật thể trong cõi Trung giới. Sự biến thể đó có thể tác 
		động theo cả hai chiều, tức là từ trạng thái vật chất hữu hình trở thành 
		siêu hình và từ trạng thái khinh thanh quay ngược trở về trạng thái vật 
		chất hiển hiện cụ thể. Các nhà khảo cứu uyên bác về những hiện tượng 
		thông linh đều biết rõ vấn đề này. 
		Kế đó, chúng tôi đi Delhi, Meerut và Lahore. Tại đây đã diễn ra những sự 
		việc độc đáo. Giữa hai trạm sau này, Damodar đã thực hiện một chuyến đi 
		khác bằng thể vía cũng rất lý thú và đáng ghi nhớ. Chúng tôi ba người, 
		kể cả bạn Narain Swamy Naidu cùng đi chung trong một toa xe lửa. Damodar 
		có vẻ thẫn thờ dường như buồn ngủ, và bước lên một băng ghế dài để nằm 
		ngủ, còn tôi ngồi đọc sách dưới ánh đèn của toa xe. 
		Thình lình, Damodar bước đến gần tôi để hỏi giờ, tôi nhìn đồng hồ thì 
		thấy đã gần sáu giờ chiều. Anh ta cho tôi biết rằng anh vừa từ Adyar trở 
		về, tại đó bà Blavatsky vừa bị một tai nạn mà anh cũng chưa rõ là nặng 
		hay nhẹ, nhưng anh nghĩ là bà đã vấp chân vào tấm thảm lót và té quỵ 
		trên đầu gối bên tay mặt. 
		Độc giả sẽ thấy rằng Damodar chỉ là một người sơ cơ trên đường huyền môn 
		và không thể nhớ rõ một cách chính xác việc gì đã xảy ra ở cảnh giới bên 
		kia khi trở về tâm thức ngoại giới hồng trần. 
		Khi tôi nghe anh ta kể chuyện ấy, tôi làm ngay hai việc sau đây để biết 
		rõ sự thật. Tôi viết một bản chứng thư về sự việc này và yêu cầu bạn 
		Narain Swamy hãy cùng tôi ký tên vào đó, có ghi rõ giờ khắc. Đến nhà ga 
		kế đó, tức ga Saharanpore, tôi gửi điện tín hỏi bà Blavatsky: “Tai nạn 
		gì đã xảy ra tại Adyar lúc sáu giờ chiều nay?” 
		Chúng tôi đến Lahore vào lúc chín giờ sáng ngày hôm sau, và được đưa đến 
		một trại lộ thiên gồm có sáu chiếc lều cá nhân dùng để ở và bốn chiếc 
		lều công cộng căng bằng vải cứng dùng làm chỗ hội họp và chỗ diễn 
		thuyết, dựng trên một khoảnh đất trống ở ngoại ô phía bắc thành phố.
		
		Chúng tôi kể cho các bạn đạo nghe câu chuyện xảy ra đêm hôm trước trên 
		xe lửa, và đưa tờ chứng thư ra cho họ xem: tôi yêu cầu các bạn có mặt 
		lúc ấy ký tên vào đó và ghi nhận rằng lúc ấy bức điện tín mong đợi của 
		bà Blavatsky vẫn chưa đến. 
		Kế đó mọi người từ giã tôi để đi tắm và ăn sáng. Trong khi tôi đang ngồi 
		trong lều vải với ông R. C. Bary, chủ bút tạp chí Arya, thì một người 
		đưa thư của Sở Bưu điện bước vào, tay cầm một bức điện tín có bọc trong 
		bao giấy màu nâu. Tôi yêu cầu bạn Ruttan Chand hãy giữ lấy bức điện tín 
		để chờ đến khi những người bạn khác trở lại sẽ mở ra đọc trước mặt mọi 
		người. 
		Việc này được thực hiện vào đúng mười hai giờ trưa, do ông R. C. Bary và 
		chín bạn đạo có mặt đồng ký tên phía sau bức điện tín để chứng thực các 
		sự việc. 
		Nội dung bức điện tín như sau: 
		“Tôi vấp phải chiếc ghế bành, té nặng trên đầu gối tay mặt, ngã vào mình 
		bà Coulomb, làm ông bà Morgan hốt hoảng. Damodar làm chúng tôi giựt 
		mình.” 
		Bức điện tín của tôi gửi từ Saharanpore đến tay bà Blavatsky vào đêm 17; 
		điện tín trả lời của bà Blavatsky đề ngày 18 tại Adyar lúc 7 giờ 55 phút 
		và tôi nhận được tại Lahore vào giữa trưa hôm ấy. Sự sai biệt về chi 
		tiết giữa câu chuyện tường thuật của Damodar và bà Blavatsky cũng không 
		làm ai ngạc nhiên vì trình độ sơ cơ của Damodar lúc ấy, còn sự việc 
		chính, tức là việc bà bị té nặng và bị thương trên đầu gối bên tay mặt 
		được xác nhận hoàn toàn là đúng.