Trong khi tôi vẫn tiếp tục đến hội kiến hằng ngày với Quốc vương
Kashmir, thì vào đêm nọ có một biến cố xảy ra: Damodar thình lình biến
mất và không để lại dấu vết gì để cho tôi biết rằng anh ta đã đi đâu hay
bao giờ sẽ trở lại.
Tôi hối hả đi tìm, nhưng tất cả các gian phòng đều trống trơn. Những bạn
đạo khác đều đã xuống tắm dưới sông. Tôi hỏi thăm một người phục vụ thì
biết rằng Damodar đã đi ra khỏi nhà một mình vào lúc sáng sớm, nhưng
không nhắn lại gì.
Không biết phải làm thế nào, tôi liền trở về phòng riêng thì thấy trên
bàn có một bức thư của một vị chân sư, bảo tôi đừng lo nghĩ gì về người
bạn trẻ vì anh ta được đặt dưới sự che chở của ngài, nhưng không nói gì
về việc anh ta có trở về hay không. Tôi chỉ mất chừng một phút để đi
quanh khắp các phòng và không nghe có tiếng chân người đi ngoài sân lót
đá sỏi vụn. Không một người nào có thể bước vào phòng tôi trong thời
gian đó, tuy vậy đây là bức thư bí mật, với tuồng chữ viết của chân sư
K. H. và cái phong bì kiểu Trung Hoa quen thuộc, nằm trên bàn của tôi.
Việc làm đầu tiên của tôi khi đó là thu gom hành trang của Damodar, gồm
một cái rương và đồ nệm gối để ngủ, và xếp gọn dưới gầm giường của tôi.
Kế đó tôi gửi một điện tín cho bà Blavatsky biết tin Damodar đi biệt
tích và không biết bao giờ về.
Khi những bạn đạo đi tắm xong trở về nhà, họ cũng xúc động như tôi về sự
việc này, và chúng tôi đã mất nhiều thì giờ thảo luận và phỏng đoán về
hậu quả khả hữu của nó. Tôi đến hoàng cung hai lần trong ngày đó, và đã
được Quốc vương đón tiếp ngày càng trọng vọng hơn. Ông tỏ ra vô cùng hậu
đãi tôi, thảo luận với tôi về triết học Védanta một cách thích thú rõ
rệt, và khẩn khoản mời mọc tôi cùng đi với ông lần sau, khi Quốc vương
đi lên Srinagar, thủ đô xứ Kashmir.
Khi trời đã sắp tối, tôi còn ngồi viết một mình trong ngôi biệt thự, khi
đó các bạn đạo khác đã cưỡi ngựa đi chơi quanh vùng, bỗng tôi nghe tiếng
chân người đi trên mặt đất rắc sỏi ở phía ngoài. Nhìn quanh, tôi thấy
một người đưa thư Kashmir cao lớn, đem điện tín đến cho tôi.
Đó là thông điệp của bà Blavatsky trả lời bức điện tín của tôi. Bà nói
rằng một vị chân sư có cho bà hay rằng Damodar sẽ trở về, và dặn tôi
không nên để cho một người nào khác động chạm đến đồ hành trang, nhất là
đồ nệm gối của y. Phải chăng thật lạ lùng, vì lúc đó bà Blavatsky đang ở
Madras, tức là cách đó độ hai ngàn dặm, lại dặn tôi làm chính cái việc
mà tôi đã làm, theo phản ứng đầu tiên khi nhận thấy rằng Damodar đã ra
đi. Phải chăng đó là thần giao cách cảm? Nhưng lại còn một điều lạ lùng
hơn nữa. Mở ra và đọc bức điện tín không làm cho tôi mất đến một phút;
người đưa thư không có đủ thời gian đi ngang qua hàng ba ngôi nhà để
bước ra sân. Nhưng khi ấy, như một tia chớp nhoáng, tôi cảm thấy người
đưa thư ấy không phải là một người thường, mà chỉ là một ảo ảnh.
Tôi biết chắc như vậy, tôi có thể thề thốt để quả quyết như vậy, bởi vì
có một sự dao động tâm linh huyền bí gây ra nơi tôi mỗi khi có một trong
các đấng cao cả bước đến gần tôi. Thật vậy, ngay sau khi đó tôi đã có
thể nhận ra cái tiết điệu rung động kỳ bí gây nên bởi luồng từ điển
huyền diệu của sư phụ tôi, ngài cũng là sư phụ của bà Blavatsky. Tôi
chạy ngay ra cửa và nhìn qua cái sân trống trơn của khuôn viên nhà,
trong đó không có cây cối hay bụi rậm nào để dùng làm nơi ẩn trú, nhưng
tuyệt nhiên không nhìn thấy gì cả! Người đưa thư đã biến mất cơ hồ như
chui vào lòng đất!
Khi tôi kể lại chuyện này, có người hỏi tôi rằng làm sao có thể giải
thích sự thuyên chuyển bức điện tín từ tay người đưa thư thật qua tay
người đưa thư giả, và việc thâu hồi tờ ký nhận của tôi về Sở Bưu điện,
trừ phi có sự toa rập với người đưa thư kia để làm việc này? Nhưng việc
ấy thật ra rất đơn giản, miễn là người ta hiểu được về quyền năng của sự
thôi miên, hay nói theo từ ngữ của huyền môn Đông phương thì đó là cái
bí quyết của việc tạo nên ảo giác hay ảo ảnh. Vị chân sư gặp người đưa
thư; bằng quyền năng của ý chí, ngài làm cho anh ta không nhìn thấy
ngài; ngài làm cho anh ta trở nên vô ý thức, đưa anh ta đến một chỗ nào
đó và để anh ta nằm trong giấc ngủ thôi miên; rồi ngài khoác lấy cái
hình dáng bên ngoài của người kia để che khuất tác phong diện mạo của
ngài; đem bức điện tín đến cho tôi; cầm lấy cái biên lai do tôi ký nhận;
đưa tay lên chào từ giã, và lui bước. Một lúc sau đó, sự rung động thần
kinh do luồng từ điển của ngài gây ra nơi tôi phản dội lại nơi ngài,
cảnh giác cho ngài biết rằng tôi đang ở vào tình trạng báo động và đương
nhiên sẽ bước ra cửa để theo dõi ngài; thế là ngài thôi miên thị giác
của tôi để tôi không nhìn thấy ngài; trở lại chỗ người đưa thư nằm ngủ
lúc nãy; nhét tờ biên lai vào bàn tay anh ta; dùng ý chí làm cho người
kia nhớ lại mọi việc vừa xảy ra giữa tôi với ngài dường như đã xảy đến
cho anh ta; đánh thức anh ta dậy; dùng phép thôi miên che lấp thị giác
của anh ta; và trả anh ta về Sở Bưu điện.
Đó là một chuỗi dài những sự việc diễn biến nối tiếp nhau một cách rất
đơn giản, mà mọi nhà chuyên môn về khoa thôi miên và nhân điện đều hiểu
được một cách dễ dàng.
Damodar ra đi lúc sáng ngày 25 tháng 11, và trở về chiều ngày 27 tháng
11 sau khi vắng mặt độ sáu mươi giờ, nhưng y đã thay đổi rất nhiều! Khi
ra đi, y là một thanh niên mảnh khảnh yểu điệu, một bạch diện thư sinh,
nhút nhát rụt rè, nhưng y trở về với một gương mặt rắn rỏi, nước da sậm,
rám nắng, thân hình khỏe mạnh, cứng cát, và tác phong bạo dạn, đầy cương
nghị. Chúng tôi không thể ngờ rằng đó vẫn là một Damodar của trước đây!
Anh ta đã đến đạo viện của chân sư và được truyền thụ một phép tu luyện
nào đó. Anh ta đưa cho tôi một thông điệp của một vị chân sư khác, mà
tôi được biết rõ, và để chứng minh sự thật, anh ta thì thầm vào tai tôi
một mật khẩu tôi đã được truyền dạy từ trước để chứng thực những thông
điệp của các chân sư.