Khi các người bạn Ấn Độ đi mua sắm vật thực đã trở về, chúng tôi được ăn
một bữa tối nóng sốt trong hang và sau đó ra ngắm cảnh đồi núi dưới ánh
trăng. Đêm hôm đó, chúng tôi trải nệm trên sàn đá và ngủ ngon lành cho
đến sáng. Baburao ngồi trước cổng hang và đốt lửa trại suốt đêm để ngăn
ngừa sự đột nhập của loài thú dữ.
Trong quyển “Động thẳm rừng già của Ấn Độ” có đoạn diễn tả tôi bị rơi
xuống vực thẳm và được người tu sĩ Ấn Độ có con bò năm chân cứu thoát,
nhưng đó chỉ là chuyện giả tưởng. Cũng thế, những “tiếng gầm thét của
chúa sơn lâm từ xa vọng lại dưới chân đồi; một con cọp lớn rình chụp
chúng tôi lúc nửa đêm và bị đẩy xuống vực sâu do một quyền năng bí mật
che chở chúng tôi, v.v...” đều là do óc tưởng tượng của bà Blavatsky để
làm cho câu chuyện phiêu lưu du ký này thêm phần ly kỳ hấp dẫn đối với
độc giả bên Nga.
Sáng hôm sau, Mulji và tôi thức dậy trước bà Blavatsky, và sau khi chúng
tôi đi tắm dưới suối, y xuống làng mua sắm thức ăn trong ngày, còn tôi
đứng trên đồi ngắm cảnh vật chung quanh dưới ánh nắng ban mai. Sau một
lúc, tôi lấy làm vui thích mà thấy người tu sĩ có con bò năm chân bước
đến gần tôi và hiển nhiên là có ý muốn nói chuyện với tôi. Tôi còn do dự
không biết phải làm sao, vì bà Blavatsky và tôi không ai biết nói thổ
ngữ địa phương. Nhưng sự băn khoăn của tôi về vấn đề này đã được giải
tỏa ngay, vì y liền đến gần bên cạnh tôi, nắm lấy bàn tay tôi, bày tỏ
lòng thiện cảm đối với Hội Thông thiên học, và nói nhỏ vào tai tôi thánh
danh của một chân sư! Kế đó, y chào từ giã tôi một cách rất lịch sự, và
lui bước. Chúng tôi không còn gặp y lần nào nữa.
Suốt ngày hôm đó, chúng tôi đi thám hiểm các hang động, và đến bốn giờ
rưỡi chiều mới trở về lữ quán Khandalla.
Đang khi chúng tôi còn ở trong hang lớn, bà Blavatsky chuyển đạt cho tôi
một huấn lệnh của chân sư mà bà nói là đã nhận được bằng thần giao cách
cảm. Ngài dạy chúng tôi phải đi Rajputana, trong tỉnh Punjab.
Sau bữa ăn tối, chúng tôi ra ngồi ngoài sân cỏ ngắm trăng. Hai bạn tôi
vừa đi rảo bước vừa nói chuyện với nhau và đi vòng ra phía sau quán trọ,
nhưng bỗng Mulji hối hả trở lại, và trong cơn xúc động bàng hoàng nói
rằng bà Blavatsky đã biến mất dạng ngay trước mắt anh ta trong khi anh
đang đứng nói chuyện với bà dưới ánh trăng.
Anh ta vừa nói vừa run cầm cập, dường như sắp sửa muốn phát chứng động
kinh. Tôi bảo anh ta ngồi xuống, hãy giữ bình tĩnh và đừng có phát điên
lên, vì đó chỉ là một trò thôi miên che lấp thị giác của anh ta. Trò ấy
vốn tuyệt đối vô hại, và bất cứ nhà thôi miên nào cũng có thể tác động
như thế trên một đối tượng nhạy cảm.
Độ một lát, bà xuất hiện trở lại, ngồi lại chỗ cũ, và chúng tôi lại tiếp
tục nói chuyện. Bỗng thấy có hai người Ấn Độ mặc sắc phục trắng đi qua
sân cỏ cách chúng tôi độ năm mươi thước. Khi đến một chỗ đối diện với
chúng tôi, họ ngừng lại và bà Blavatsky bảo Mulji hãy đến nói chuyện với
họ. Trong khi Mulji đang tiếp đón họ, bà Blavatsky lặp lại cho tôi nghe
những gì họ nói với nhau, và Mulji cũng đã tường thuật lại đúng y như
vậy khi y trở lại một lúc sau đó.
Đó là một thông điệp nhắn cho tôi biết rằng bức thư của tôi gửi cho chân
sư đã tới tay ngài và được ngài chấp thuận, và tôi sẽ nhận được thư trả
lời khi tôi tới Rajputana.
Trước khi Mulji nói dứt lời, tôi thấy hai người sứ giả ấy quay gót ra đi
độ một quãng ngắn, đến sau một bụi rậm nhỏ không đủ che khuất một người
mặc áo rộng trắng, nhất là dưới ánh trăng sáng tỏ như ban ngày, rồi biến
mất dạng. Chung quanh bụi rậm là đồng cỏ trống trơn, nhưng cả hai người
đều biến mất không còn dấu vết. Lẽ tự nhiên, phản ứng đầu tiên của tôi
là chạy ngang qua sân cỏ và tìm kiếm đằng sau bụi rậm xem có dấu hiệu gì
chỉ rằng có một đường hầm trú ẩn nào chăng, nhưng tuyệt nhiên không thấy
có gì khả nghi: mặt đất vẫn trơn láng, bằng phẳng, không có hang lỗ, hầm
hố hay vết tích đào xới nào. Tôi chỉ bị thôi miên mà thôi!
Sáng hôm sau, chúng tôi lên xe lửa trở về Bombay, nhưng cuộc phiêu lưu
của chúng tôi vẫn chưa chấm dứt. Baburao chào từ giã chúng tôi ở ga
Khandalla sau khi đã từ chối không nhận tiền “trà nước” của tôi tặng, đó
là một cử chỉ hy sinh hiếm có trong giới người thuộc giai cấp lao công
Ấn Độ. Ba chúng tôi lên toa xe hạng nhì, còn Babula tìm được chỗ trong
toa hạng ba. Sau một lát, Mulji ngả mình nằm trên băng “cút-xét” và ngủ
luôn, còn bà Blavatsky và tôi ngồi nói chuyện.
Bà nói:
– Ước gì chân sư đừng bảo tôi nhắn miệng cho ông bức thông điệp về việc
đi Rajputana!
– Tại sao?
– Bởi vì Wimbridge và cô Bates sẽ nghĩ rằng đó là chuyện bịa đặt để ông
đưa tôi đi chơi một chuyến thích thú và để cho họ nằm không ở nhà một
mình.
– Ồ! Không sao. Tôi chỉ tin nơi lời nói của bà là đủ.
– Nhưng họ sẽ nghĩ xấu về tôi vì chuyện đó.
– Nếu vậy, tốt hơn là ngài nên viết cho bà ít chữ. Điều này ngài có thể
làm một cách dễ dàng. Nhưng bây giờ dù có hối tiếc cũng đã quá trễ.
Chúng ta đã đi qua khỏi Khandalla độ mười lăm hay hai mươi dặm. Thôi,
hãy bỏ qua việc ấy.
Bà ngẫm nghĩ trong vài phút rồi nói:
– Dù sao, để tôi thử xem, vẫn chưa phải là quá trễ.
Kế đó bà viết vài chữ trên một trang giấy trong cuốn sổ tay bỏ túi của
bà bằng hai thứ chữ, nửa trang trên viết bằng chữ cổ tự Senzar, là ngôn
ngữ đặc biệt bà dùng để giao dịch thư từ với các chân sư, còn nửa trang
dưới viết bằng tiếng Anh để cho tôi đọc. Bức thông điệp ấy viết như sau:
“Yêu cầu Sư phụ Gulab Singh gửi điện tín cho Olcott những huấn lệnh do
đạo nữ truyền cho ông ấy ở động đá ngày hôm qua. Đó sẽ là một thử thách
cho những người khác cũng như cho chính ông.”
Bà xé rời trang giấy, xếp lại thành hình tam giác, dùng ngón tay vẽ
nguệch ngoạc trên đó vài dấu hiệu dị kỳ (mà bà nói là có tác dụng khống
chế các loại tinh linh). Bà cầm nó trên đầu các ngón tay của bàn tay
trái, dường như sắp sửa ném ra ngoài cửa sổ. Tuy nhiên, tôi giữ tay bà
lại và nói:
– Bà muốn đây là một thử thách cho tôi chăng? Vậy bà hãy để tôi mở ra
xem lại.
Bà bằng lòng, tôi nhìn lại bên trong tờ giấy, trả nó lại cho bà, và theo
lời bà dặn, theo dõi tờ giấy khi bà quăng nó ra ngoài toa xe lửa. Tờ
giấy bị gió cuốn hút đi, xoay vòng theo chiều gió và bay đến một cái cây
trơ trọi gần bên đường sắt. Lúc ấy chúng tôi đang ở trên đỉnh của dãy
núi Ghats, độ một ngàn mét chiều cao, chung quanh không có nhà cửa xóm
làng chi cả, mà chỉ có vài thân cây trơ trọi lẻ tẻ bên cạnh đường xe
lửa.
Trước khi để bà quăng tờ giấy ra ngoài cửa sổ, tôi đã đánh thức Mulji,
nói cho y biết sự việc ấy, cùng với y xem giờ trên đồng hồ, và y cùng
tôi đồng ký tên trên một chứng thư trong quyển sổ tay của tôi, mà hiện
giờ tôi đang có ngay trước mặt, và nhờ đó tôi đã nhớ lại từng chi tiết
của sự việc đã xảy ra. Bản chứng thư ấy có ghi những chi tiết về địa
điểm và ngày tháng như sau:
“Ga Kurjit, ngày 8 tháng 4 năm 1879, lúc 12 giờ 24 phút” và có nhân
chứng Mulji Thackersey ký tên.
Đến ga Kurjit, Mulji và tôi muốn xuống ga đi bách bộ một lát để cho giãn
gân cốt, nhưng bà Blavatsky bảo chúng tôi đừng rời khỏi toa xe cho đến
khi xe đến Bombay. Bà đã được lệnh và chúng tôi sẽ hiểu sự việc ấy vào
đúng lúc. Thế là chúng tôi cũng ở lại trên toa xe với bà. Đoàn xe lửa
đến nơi đúng giờ quy định, tôi liền đi ra phố có việc, và vắng mặt độ
một giờ. Khi về đến nhà, cô Bates đón tôi trước cửa và đưa cho tôi một
bức điện tín đựng trong phong bì có niêm khằng do nhân viên Sở Bưu điện
đem đến, và cô đã ký nhận thay tôi.
Bức điện tín ấy ghi như sau:
“Thời điểm: 2 giờ chiều ngày 8 tháng 4 năm 1879. Từ ga Kurjit đến ga
Byculla. Gulab Singh gửi Đại tá H. S. Olcott. Đã nhận được thư. Sẽ trả
lời tại Rajputana. Hãy lên đường ngay lập tức.”
Như đã nói trên, tôi xem sự việc này như một trong những bằng chứng chân
thật nhất và không thể lầm lẫn mà tôi đã từng có về những mối tương quan
huyền diệu của bà Blavatsky với các đấng chân sư cao cả.
Khi chúng tôi đến Bhurtpore trong chuyến đi Rajputana sau đó, một đêm nọ
bà Blavatsky và tôi đang ngồi ở ngoài hành lang của quán trọ thì thấy
một người Ấn cao niên mặc áo rộng trắng bước đến gần, chào theo phong
tục bản xứ, rồi đưa cho tôi một phong thư và lẳng lặng bước đi ngay. Tôi
mở thư ra xem, thì ra đó là thư trả lời bức thông điệp của tôi gửi cho
sư phụ Gulab Singh tại Khandalla, mà ngài đã báo trước cho tôi biết
trong bức điện tín gửi từ Kurjit, rằng tôi sẽ nhận được khi tôi đến
Rajputana.
Đó là một bức thư chứa đựng những lời khuyên ưu ái đầy thiện cảm, và
quan trọng nhất đối với tôi, vì trong đó ngài dạy tôi rằng con đường tốt
nhất và đảm bảo nhất để tìm chân sư là con đường hoạt động trung kiên vì
mục đích phụng sự nhân loại xuyên qua Hội Thông thiên học.
Con đường đó, tôi vẫn theo đuổi tận tụy đến cùng, và bức thư của ngài là
một ân huệ và nguồn an ủi thường xuyên đối với tôi trong những cơn khó
khăn, gian lao nghịch cảnh.