Tôi trở lại Tích Lan sau nửa năm vắng mặt, để tiếp tục công việc Hội và
cũng để trợ giúp công cuộc chấn hưng Phật giáo tại xứ này.
Ngày 29 tháng 8, có xảy ra một việc tại khu hoa viên của thành phố
Galle, nay đã trở thành một diễn biến lịch sử. Sau buổi diễn thuyết của
tôi hôm ấy, có một cuộc quyên góp để gây quỹ cho công việc hoằng truyền
Phật giáo tại xứ này. Một người tên Cornelis Appu được ông Jayasekera,
Chi hội trưởng Chi hội Thông thiên học tại Galle giới thiệu cho tôi.
Người ấy đã góp số tiền nửa ru-pi, và xin lỗi về số tiền quá nhỏ vì ông
ta bị bệnh tê liệt một cánh tay và một chân từ tám năm nay, không thể
làm gì được để kiếm sống.
Khi tôi từ Bombay vừa đến Colombo, vị Sư trưởng Phật giáo có cho tôi
biết rằng Giáo hội Gia Tô đã chuẩn bị mọi việc để sử dụng cái giếng
trong nhà một giáo dân, gần thị trấn Kelanie, như một cái “giếng thần”
để chữa bệnh cho dân chúng, theo kiểu giếng Đức Mẹ tại Lộ Đức (Lourdes).
Có tin cho biết một người đã được chữa khỏi bệnh một cách mầu nhiệm,
nhưng khi hỏi kỹ ra mới biết đó chỉ là một chuyện bịa đặt.
Tôi liền nói với vị Sư trưởng rằng đây là một vấn đề nghiêm trọng cần
lưu ý. Một khi sự gợi ý đó đã bắt đầu thấm nhuần vào tư tưởng người dân,
thì nó sẽ trở thành một sự thôi miên tập thể. Không bao lâu sẽ có những
trường hợp khỏi bệnh thật sự, và chừng đó những Phật tử kém hiểu biết và
tin tưởng mù quáng sẽ bỏ đạo mình để hùa nhau theo đạo khác.
Vị Sư trưởng nói: “Tôi biết làm sao bây giờ?”
Tôi nói: “Đại đức phải ra tay hành động, hoặc phải có một vị sư danh
tiếng nào khác hãy nhân danh Đức Phật để chữa bệnh cho mọi người.”
Sư trưởng đáp: “Nhưng chúng tôi không thể làm được; chúng tôi không biết
gì về những việc đó.”
Tôi nói quả quyết: “Nhưng dù sao thì việc ấy vẫn phải được thực hiện.”
Khi người bệnh nói trên diễn tả căn bệnh bại liệt của ông ta, tôi cảm
thấy trong thâm tâm có một cái gì hình như muốn nói với tôi: “Đây là cơ
hội cho anh sử dụng cái giếng thần!”
Tôi đã khảo cứu về khoa nhân điện và chữa bệnh bằng nhân điện
(Mesmérisme) trong ba mươi năm, nhưng chưa bao giờ thực tập, mà chỉ có
làm vài cuộc thí nghiệm cần thiết lúc ban đầu. Nhưng bây giờ, do sự thúc
đẩy của tình thương (vốn là cái động cơ căn bản cho việc chữa bệnh có
kết quả), tôi đưa hai bàn tay truyền điện lên cánh tay bại liệt của
người bệnh một vài lần, và nói với ông ta rằng tôi hy vọng ông sẽ cảm
thấy khá hơn đôi chút. Kế đó, ông ta trở về nhà.
Chiều hôm đó, tôi đang ngồi nói chuyện với các bạn đạo tại nhà thì thấy
người bệnh bại liệt ngày hôm qua, tay chống nạng, chân đi khập khiễng
bước vào. Ông ta xin lỗi đã đến làm rộn, và nói rằng ông cảm thấy khá
nhiều nên đến để cảm ơn tôi.
Tin lành bất ngờ này khích lệ tôi tiếp tục chữa bệnh cho ông ta. Sau độ
một khắc đồng hồ truyền điện cho cánh tay bại liệt, tôi dặn ông ta hãy
trở lại vào sáng hôm sau.
Tôi phải nói thêm rằng, không một ai ở Tích Lan biết tôi có quyền năng
chữa bệnh, và có lẽ họ cũng không hề biết gì về quyền năng này. Như vậy
không thể có giả thuyết được nêu ra về sự ám thị hay ảo giác tập thể
trong trường hợp này.
Sáng hôm sau người kia lại đến và tỏ vẻ tôn sùng tôi như một siêu nhân
vì y cảm thấy bớt hẳn. Tôi lại tiếp tục chữa cho y luôn ba ngày liên
tiếp, và qua ngày thứ tư y đã có thể vung cánh tay bại liệt của y lên
vòng quanh đầu, mở và khép bàn tay, và sử dụng bàn tay để làm các động
tác thông thường một cách dễ dàng.
Trong vòng bốn ngày kế đó, ông ta đã có thể sử dụng bàn tay được chữa
khỏi để ký tên vào một chứng thư kể rõ trường hợp của ông và cho công
bố. Đó là lần đầu tiên ông ta có thể cầm đến một cây viết kể từ chín năm
nay.
Tôi cũng đã chữa khỏi luôn cái chân bại liệt của ông ta, và độ một hai
ngày sau, ông ta đã có thể nhảy với cả hai bàn chân, nhảy lò cò bằng cái
chân bại liệt, đá lên vách với một chiều cao đồng đều nhau bằng cả hai
chân, và chạy một cách tự do theo ý muốn.
Giống như rơm khô bắt lửa, tin ấy loan truyền rất nhanh khắp cả mọi nơi
trong tỉnh. Cornelis đưa đến một người bạn bại liệt giống như ông ta,
cũng được tôi chữa khỏi. Kế đó, những người khác đến. Lúc đầu còn đến
từng nhóm nhỏ đôi ba người, kế đến hàng chục người, và trong vòng độ một
tuần lễ sau, ngôi nhà tôi ở bị bệnh nhân vây phủ suốt ngày từ sáng sớm
cho đến khuya, để nhờ tôi truyền điện chữa bệnh cho họ.
Sau cùng, họ trở nên quấy rầy, phiền nhiễu đến nỗi tôi cũng không còn
biết phải làm sao để thoát khỏi vòng vây. Lẽ tất nhiên, với sự tăng gia
đức tin nơi khả năng của mình, sức mạnh nhân điện của tôi tăng vọt lên
gấp bội, và những chứng bệnh mà lúc đầu tôi phải mất đến nhiều ngày mới
chữa khỏi, nay tôi có thể chữa trong vòng nửa tiếng đồng hồ.
Một điều bực bội, khó chịu nhất trong việc này là thái độ ích kỷ, thấp
hèn của đám đông. Họ bao vây tôi trong buồng ngủ khi tôi còn chưa thay
quần áo, theo sát tôi từng bước một, không cho tôi có thời giờ ăn cơm,
và làm áp lực ráo riết đối với tôi, bất luận rằng tôi bị mệt mỏi và kiệt
sức đến độ nào! Tôi chữa bệnh cho họ suốt bốn, năm giờ liên tiếp, cho
đến khi tôi cảm thấy kiệt quệ, không còn chút sinh lực nào. Khi đó tôi
mới nghỉ độ nửa giờ đi xuống biển để tắm nước mặn, và khi trở lên nhà,
tôi lại cảm thấy tràn đầy sinh lực, thể xác được tăng cường. Tôi bèn
tiếp tục công việc chữa bệnh cho đến khi hoàn toàn xế trưa, tôi đã mệt
lả và phải yêu cầu bệnh nhân hãy trở về nhà.
Lúc ấy tôi ở trên tầng lầu thứ nhất của ngôi nhà trọ, nên phần nhiều
những người bệnh nặng phải được thân nhân bạn bè khiêng lên lầu và đặt
họ nằm dưới chân tôi. Có những người hoàn toàn bại liệt, với những tay
chân co quắp làm cho họ có một hình thù dị dạng giống như những rễ cây
có bướu trông rất dễ sợ. Sau một hay hai lần truyền điện, mỗi lần độ nửa
giờ, tôi đã làm cho họ duỗi thẳng tay chân và đi đứng được như thường.
Tôi dùng cái hàng ba rộng lớn của ngôi nhà làm một sân vận động, chọn
lấy hai ba người trong số những người bệnh nặng nhất vừa được chữa khỏi,
và bắt họ chạy đua theo chiều dài hàng ba. Họ và những người đứng xem
đều cười lớn về sự đùa giỡn khôi hài đó, và ngạc nhiên tự hỏi sao lạ
vậy, nhưng tôi làm vậy là có mục đích truyền cho họ một đức tin nơi hiệu
lực của phép chữa bệnh, giống như đức tin của tôi, để cho sự bình phục
của họ được hoàn toàn chắc chắn.
Tôi cũng cảm thấy rất sung sướng khi có thể làm dịu bớt bao nhiêu nỗi
khổ đau của nhân loại, và trong nhiều trường hợp, đã làm cho những phế
nhân phục hồi lại được tất cả niềm vui của một sức khỏe lành mạnh và tất
cả những khả năng hoạt động của một đời người.
Sự việc trên vẫn tiếp tục cho đến tận những vùng làng mạc xa xôi hẻo
lánh trên lộ trình hoạt động của tôi ở miền Nam đảo Tích Lan. Tôi thường
đến mỗi thị trấn hay làng xã bằng xe ngựa hay xe bò, và thấy bệnh nhân
rải rác nằm ngồi đợi tôi trên các hàng ba, bãi cỏ, và trong đủ mọi loại
xe cộ, hoặc kiệu khiêng bằng tay, đến từ các vùng lân cận.
Baddegama là một trung tâm nổi tiếng về những hoạt động truyền giáo, và
cũng về sự thù nghịch đối với Phật giáo nói chung. Có những tin tức hăm
dọa rằng các nhà truyền giáo sẽ tấn công tôi trong buổi diễn thuyết tại
đây, và lẽ tự nhiên các Phật tử sẽ tề tựu đông đảo để nghe tôi nói
chuyện. Nhiều hội viên Thông thiên học cũng từ Galle đến dự thính, và
trong đám đông, tôi nhìn thấy Cornelis Appu. Ông ta đã đi bộ suốt hai
mươi cây số đường trường để đến đây. Thế là không còn nghi ngờ gì về
việc ông ta đã được hoàn toàn chữa khỏi bệnh bại liệt!
Một trường hợp lý thú đã đến với tôi ở một tiểu ấp tên Agalya. Một bà
lão bảy mươi hai tuổi bị một con trâu cái đá khi bà đang vắt sữa độ vài
năm trước đây; bà bị vẹo xương sống, không thể đứng thẳng người và đi
phải chống gậy. Bà bất giác cười lớn một cách dòn dã khi tôi nói rằng
không bao lâu tôi sẽ làm cho bà nhảy múa được. Nhưng chỉ sau có mười
phút truyền điện dọc theo xương sống và tay chân, bà đã cảm thấy bình
phục sức khỏe. Tôi bèn nắm tay bà, quăng bỏ cây gậy chống và bảo bà cùng
chạy với tôi trên sân cỏ. Bà đã chạy được như thường!