Ngày dời Trụ sở Hội quán của chúng tôi càng đến gần thì bà Blavatsky 
		càng phấn khởi hơn trong việc ca tụng xứ Ấn Độ cũng như những người Ấn 
		giáo và toàn thể người Đông phương nói chung. Bà cũng hăng hái hơn trong 
		việc chỉ trích người Tây phương với những tập quán xã hội, óc độc tài 
		tôn giáo và những tư tưởng hẹp hòi nói chung của họ. 
		Có những đêm hào hứng sôi nổi diễn ra tại “Lạt-ma Viện”. Trong những đêm 
		đó, có xảy ra một chuyện đáng kể. Nhà nghệ sĩ Walter Paris, một trong 
		những hội viên đắc lực nhất đã từng sống vài năm ở Bombay với chức vụ 
		kiến trúc sư của chính phủ, đã thích thú nói chuyện với chúng tôi về xứ 
		Ấn Độ. Nhưng ông ta không có lòng kính trọng đặc biệt đối với Ấn Độ và 
		lòng ưu ái đối với dân tộc xứ ấy như chúng tôi, nên ông thường làm phật 
		lòng bà Blavatsky với những lời lẽ mà tôi cho rằng theo lập trường của 
		giới cai trị Anh Ấn. 
		Một đêm nọ, ông ta kể chuyện về một việc lỗi lầm ngu ngốc của người giúp 
		việc trong khi thắng yên ngựa, và thản nhiên nói rằng ông đã quất người 
		ấy bằng roi vọt. Ngay tức khắc, dường như bị những roi vọt ấy quất vào 
		mặt mình, bà Blavatsky chồm hẳn dậy, đứng ngay trước mặt người kia, và 
		trong một tràng độc thoại kéo dài độ năm phút, bà cho y một trận sửa sai 
		và quở trách nặng nề đến mức làm cho ông ta ngồi im không thốt ra được 
		một lời nào. Bà lên án hành động của ông ta như một cử chỉ hèn mạt, và 
		nhân dịp ấy bà ứng khẩu thốt ra một bài luận thuyết hùng hồn chỉ trích 
		cách đối xử của giới cai trị Anh Ấn đối với các chủng tộc Đông phương.
		
		Đó không phải là một trường hợp duy nhất cho thấy mối bất bình của bà 
		đối với cách xử sự của người Tây phương. Bà vẫn luôn bày tỏ thái độ đó 
		trong nhiều dịp khác nữa, và tôi đã từng thấy bà biểu lộ hào khí và cách 
		nói năng bạo dạn y như vậy trong nhiều lần tiếp xúc với những viên chức 
		cao cấp Anh Ấn ở Allahabad, Simla, Bombay, Madras, và ở các nơi khác.
		
		Khi cuộc hành trình sang Ấn Độ của chúng tôi đã được quyết định, tôi bắt 
		đầu thu xếp mọi công việc riêng vào mùa thu năm 1878. Việc trao đổi thư 
		từ vẫn tiếp tục với các bạn đạo ở Bombay và Tích Lan (Śrỵ Lanka). Chúng 
		tôi không công khai tuyên bố ý định xuất hành, nhưng các bạn bè thân hữu 
		đã đến rất đông khi biết tin chúng tôi sắp ra đi. Những ghi chép của bà 
		Blavatsky trong tập nhật ký của tôi khi tôi thường vắng mặt tại New York 
		trong những tuần lễ cuối cùng cho thấy sự hối thúc của các chân sư mong 
		muốn chúng tôi lên đường càng sớm càng hay. 
		Ngày 22 tháng 10, bà viết: “N. xuất ra và S. nhập vào (thể xác của bà) 
		với mật lệnh của Quần tiên hội, dạy phải hoàn thành tất cả mọi việc vào 
		đầu tháng 12.” 
		Câu ấy ngụ ý có sự thay đổi cá tính các nhân vật mượn xác bà Blavatsky, 
		và các đoạn nhật ký với những lời ghi bằng tuồng chữ khác nhau cũng xác 
		nhận việc ấy. 
		Một đoạn nhật ký tương tự ngày 14 tháng 11 nói rằng chúng tôi phải cố 
		gắng tối đa để lên đường trước ngày 20 tháng 12 như kỳ hạn cuối cùng.
		
		Ngày 22 tháng 11, những thượng lệnh khẩn cấp khác nữa cũng đến bằng một 
		đường lối ấy, và chúng tôi được lệnh phải bắt đầu chuẩn bị đầy đủ hành 
		lý. 
		Nhiều bạn đạo muốn tháp tùng chúng tôi sang Ấn Độ, và vài người cũng đã 
		cố gắng sửa soạn chuyến đi, nhưng sau cùng chỉ có hai người là cô Bates, 
		một cô giáo người Anh, và ông Wimbridge, một họa sư kiêm kiến trúc sư, 
		cùng đi với chúng tôi. Kể từ đó, các thượng lệnh vẫn tiếp tục đến luôn 
		không ngớt và hối thúc chúng tôi lên đường. 
		Những quan khách đến viếng thăm tới lui dồn dập, nhộn nhịp. Có những bài 
		viết xuất hiện trên các báo nói về chuyến đi của chúng tôi và những bài 
		trả lời của bà Blavatsky. 
		Ngày 13 tháng 12, tôi nhận được một bức thư viết tay của Tổng thống Hoa 
		Kỳ
[1] giới thiệu tôi cho tất cả các viên đại sứ và 
		lãnh sự Hoa Kỳ ở hải ngoại; và một thẻ thông hành đặc biệt của Bộ Ngoại 
		giao, giống như những thẻ thông hành cấp cho các nhà ngoại giao Mỹ, với 
		sứ mạng tường trình cho chính phủ Mỹ về triển vọng và khả năng nới rộng 
		những quyền lợi thương mãi của Hoa Kỳ ở châu Á. 
		Những văn kiện này về sau đã tỏ ra có tác dụng hữu ích ở Ấn Độ, khi bà 
		Blavatsky và tôi bị nghi ngờ là gián điệp của Nga! Những chi tiết của 
		diễn biến khôi hài này sẽ được tường thuật ở một chương sau. 
		Trong những ngày cuối cùng, tôi không nghỉ ngơi được chút nào, thường 
		ngồi suốt đêm để viết thư, hoặc di chuyển thường xuyên đến các thành phố 
		xa gần để thu xếp công việc, và ăn uống rất thất thường trong khi đi 
		lại. Trong khi đó thì vẫn luôn vang dội những mật lệnh hối thúc chúng 
		tôi phải lên đường trước ngày 17 tháng 12 là kỳ hạn chót. 
		Tuồng chữ của bà Blavatsky có vẻ nguệch ngoạc, và trong đoạn nhật ký đề 
		ngày 15 tháng 12, tôi nhận thấy có hai lối viết khác nhau của tuồng chữ 
		bà như đã nói trước đây, chứng tỏ rằng có hai vị chân sư đã mượn xác của 
		bà trong đêm hôm đó. 
		Ngày 17 tháng 12 là ngày cuối cùng của chúng tôi trên đất Mỹ. Đoạn nhật 
		ký của bà Blavatsky viết: 
		“Một ngày đáng ghi nhớ! Olcott trở về lúc bảy giờ tối với những vé tàu 
		Canada và ngồi viết thư đến 11 giờ 30. Maynard mời Blavatsky dùng cơm 
		tối tại nhà y. Bà về nhà lúc chín giờ. Đến gần mười hai giờ đêm, Olcott 
		và Blavatsky rời khỏi nhà bước lên xe ngựa để ra bến tàu.” 
		(Hãy lưu ý là người viết luôn đề cập đến bà Blavatsky bằng đại từ ngôi 
		thứ ba, như thể đây là một người khác viết về bà!) 
		Thế là chấm dứt giai đoạn đầu tiên của lịch sử Hội Thông thiên học, với 
		cuộc khởi hành của hai nhà sáng lập rời khỏi Mỹ Quốc. Sau lưng chúng tôi 
		là một dĩ vãng ba năm tranh đấu, với những chướng ngại đã vượt qua, 
		những kế hoạch đã thực hiện được vài phần, những nỗ lực trước tác sách 
		vở, những bạn bè bỏ cuộc nửa chừng, những kẻ thù nghịch phải đối phó, và 
		trọng trách thiết đặt nền tảng rộng lớn cho một cơ cấu vĩ đại được xây 
		dựng lên trải qua thời gian để qui tụ các quốc gia. Thành quả này, quả 
		thật ban đầu chúng tôi không thể nào ngờ trước được. Bởi vì chúng tôi đã 
		xây dựng được một công trình qui mô rực rỡ và tốt đẹp hơn nhiều so với 
		dự tưởng, hay ít ra cũng phải nói là tốt đẹp hơn nhiều so với là sự 
		tưởng tượng của riêng tôi. 
		Những gì thuộc về tương lai chúng tôi không thể tiên liệu trước. Ý nghĩ 
		về sự phát triển kỳ diệu và lạ lùng của Hội Thông thiên học không hề 
		thoáng qua ngay cả trong những ước mơ của chúng tôi. 
		Một bạn đạo của chúng tôi tuyên bố rằng Hội Thông thiên học đã chết một 
		cách tự nhiên trước khi chúng tôi lên đường sang Ấn Độ. Sự thật là trong 
		những năm đầu ở New York, Hội tương đối bất động và không có hoạt động 
		gì đáng kể, nhưng lại bắt đầu hồi phục kể từ khi Trụ sở Hội được dời 
		sang Ấn Độ. 
		Chiếc tàu “Canada” rời bến vào ngày 18 và phải đợi cho nước thủy triều 
		lên cao mới ra khơi vào trưa ngày 19 tháng 12. Sau cùng, chiếc tàu đã 
		vượt ra giữa đại dương màu xanh biếc, thẳng hướng về vùng “đất hứa” của 
		chúng tôi. 
		Lòng tôi tràn đầy một niềm hứng khởi và triển vọng tương lai, đến nỗi 
		tôi không còn muốn đứng trên boong tàu để ngắm nhìn cảnh tượng đất Mỹ 
		lui dần rồi tan biến khỏi tầm mắt, mà liền đi xuống phòng “cabin” để tìm 
		vị trí hải cảng Bombay trên tấm bản đồ Ấn Độ.