Bây giờ tôi xin kể theo thứ tự thời gian một câu chuyện du hành lý thú,
độc đáo. Những sự việc diễn biến ở đây đã được bà Blavatsky khai triển
thêm một cách vô cùng phong phú trong quyển “Động thẳm rừng già của Ấn
Độ”.
Chuyện này vẫn in sâu trong ký ức tôi như một kỷ niệm đáng kể và thích
thú nhất trong những mối liên hệ của tôi với bà Blavatsky. Ngày 4 tháng
4 năm 1879, bạn Mulji và tôi rời khỏi Bombay bằng xe lửa trong một
chuyến du hành đến những hang động Karli. Cùng đi có một em trai giúp
việc là Babula.
Đến ga Narel, chúng tôi xuống xe và dùng kiệu đi lên đồi đến Matheran,
là Trung tâm bồi dưỡng của Sở Y tế thành phố Bombay. Tôi được cho biết
rằng chúng tôi đến động Karli do lời mời của một vị chân sư mà tôi đã có
liên hệ mật thiết ở Mỹ trong thời gian soạn bộ sách “Vén màn Isis”, và
những đồ vật thực cần thiết cho sự tiện nghi của chúng tôi khi đi đường
đã được ngài ra lệnh cung ứng đầy đủ. Bởi vậy, tôi không ngạc nhiên chút
nào khi gặp tại ga Narel một người Ấn Độ ăn vận ra dáng trung lưu. Người
này tiến về phía chúng tôi và vái chào rồi đưa ra một thông điệp bằng
thổ ngữ Marathi. Mulji thông dịch lại cho chúng tôi hiểu đó là những lời
chào mừng của vị chủ nhân, và đề nghị chúng tôi tùy ý chọn cách đi kiệu
hay đi ngựa để lên núi, vì cả hai loại phương tiện này đều sẵn sàng.
Bà Blavatsky và tôi chọn đi kiệu, còn Mulji và Babula chọn đi ngựa. Thế
rồi, chúng tôi lên đường trong đêm trăng sáng rỡ như ban ngày, mỗi chiếc
kiệu có mười hai người phu khiêng vóc dáng vạm vỡ, mạnh khỏe, nước da
sậm, dường như là thổ dân Thakur. Họ vừa đi lên dốc với những bước chân
vững chắc, vừa hát theo một điệu nhạc bình dân nghe êm tai để giữ nhịp
bước cho nhanh.
Đó là một đêm của vùng nhiệt đới. Cuộc hành trình của chúng tôi đầy
những nét thi vị với một nền trời đầy sao chói sáng trước khi trăng lên,
với tiếng côn trùng vang vang khắp nơi trong rừng già, với những loài
chim ăn đêm gọi đáp lẫn nhau, những loài dơi lớn bay lượn thấp thoáng
nhưng âm thầm không một tiếng động, tiếng lá dừa xào xạc trước gió cùng
hương thơm của hoa rừng tỏa ra một mùi vị ấm áp, cay nồng, với tiếng hát
lạ tai của những người phu khiêng kiệu để giữ nhịp đều với những bước
chân đi nhanh thoăn thoắt.
Sáng hôm sau, chúng tôi lên xe lửa đi Khandalla, một thị trấn có khí hậu
mát mẻ thuộc vùng núi. Tại đây, người phục vụ của chúng tôi ở Narel lại
tiếp đón chúng tôi với một chiếc xe bò rộng rãi để đưa chúng tôi đến lữ
quán của Chính phủ. Tại đây, chúng tôi nghỉ ngơi suốt một ngày và đêm
hôm sau.
Chiều hôm chúng tôi đến, bạn Mulji dạo chơi đến ga xe lửa để nói chuyện
với người xếp ga vốn là một người quen cũ, và gặp một việc lạ lùng làm
anh ta rất ngạc nhiên.
Một chuyến xe lửa đến từ Bombay và ngừng lại bến ga, khi đó anh ta nghe
có người gọi tên mình rất lớn từ trong xe. Nhìn từ toa xe này đến toa xe
khác, anh thấy một người Ấn Độ đang vẫy tay gọi, anh liền bước đến gần
cửa sổ của toa xe ấy. Thì ra người lạ mặt là nhân vật kỳ bí mà bà
Blavatsky đã đến viếng thăm tại ngôi nhà bí mật! Người ấy trao cho Mulji
một bó hoa tươi, dường như cùng một loại hoa hồng mà anh đã thấy trong
vườn hoa của biệt thự trên bờ biển, và là thứ hoa đẹp nhất mà anh đã
từng được biết. Người lạ mặt nói trong khi đoàn xe bắt đầu chuyển bánh:
“Anh hãy trao bó hoa này lại cho Đại tá Olcott và nói là của tôi gửi
tặng.”
Thế rồi Mulji trao bó hoa cho tôi và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Một giờ
sau đó, tôi nói với bà Blavatsky rằng tôi muốn gửi lời cảm ơn vị chân sư
về hảo ý của ngài đối với chúng tôi, và nếu bà có thể trao thư của tôi
đến tay ngài thì tôi sẽ viết. Bà bằng lòng.
Thế là tôi viết một thông điệp ngắn rồi đưa cho bà. Bà đưa cho Mulji và
bảo anh ta hãy đi thẳng theo con đường trước mặt và giao bức thư ấy.
Mulji hỏi: “Nhưng tôi phải trao thư cho ai và ở đâu? Vì tôi không thấy
có tên và địa chỉ người nhận ở ngoài bao thư.” Bà nói: “Không hề gì, anh
hãy cầm lấy, rồi anh sẽ biết phải giao cho ai.”
Mulji làm theo lời dặn và thẳng tiến trên đường, nhưng sau đó mười phút,
anh ta chạy trở về không kịp thở và lộ vẻ rất ngạc nhiên. “Thư đi rồi”,
anh ta nói qua hơi thở đứt đoạn. Tôi hỏi: “Sao? Anh nói gì?” Anh ta lắp
bắp: “Thư... lá thư... người ấy lấy đi rồi...” Tôi gặn hỏi: “Ai lấy thư
ấy? Người ấy là ai?” Anhta nói: “Thưa Đại tá, tôi không biết, nếu đó
không phải là ma quỉ hiện hình. Người ấy có thể từ dưới lòng đất chui
lên, tôi có cảm tưởng như vậy. Tôi đang từ từ tiến bước, nhìn bên mặt,
bên trái, và không biết phải làm gì để thi hành ý muốn của bà Blavatsky.
Chung quanh tôi không có một bóng cây hay bụi rậm để có thể ẩn núp, mà
chỉ có con đường bụi bặm và trắng xóa. Thình lình xuất hiện ngay trước
mặt tôi một người chỉ cách đó có vài thước, cơ hồ như từ dưới đất chui
lên và tiến về phía tôi. Đó là người ở ngôi biệt thự có hoa hồng, người
đã đưa cho tôi bó hoa để tặng ông ở ga Khandalla, mà tôi đã nhìn thấy
trên chuyến xe lửa đi Poona!”
Tôi phản đối: “Vô lý, anh đã mơ hoảng rồi đấy!”
“Không đâu, tôi vẫn tỉnh táo như thường. Người ấy nói: ‘Anh định đưa thư
cho tôi phải không, lá thư anh đang cầm nơi tay?’ Tôi ngạc nhiên và nói:
‘Thưa ngài, tôi cũng không biết, vì thư không có địa chỉ.’ Ông ta nói:
‘Thư ấy của tôi, anh đưa đây.’ Rồi ông ấy lấy thư trên tay tôi và nói:
‘Bây giờ anh hãy về đi.’ Tôi quay lưng đi vừa độ một lát và quay lại
nhìn xem thì ông ta đã biến mất: con đường trống trơn! Tôi sợ quá, quay
lại chạy về, nhưng vừa chạy được chừng năm mươi thước thì nghe một giọng
nói bên tai tôi: ‘Đừng có điên lên như thế, hãy bình tĩnh một chút, mọi
việc đều tốt lành.’ Điều này lại càng làm cho tôi sợ hơn nữa, vì chung
quanh tôi không có một người nào. Tôi chạy một hơi không nghỉ về đến
đây.”
Đó là câu chuyện tường thuật của Mulji và tôi lặp lại trung thực những
lời anh ta đã nói với tôi. Nếu có thể tin ở bề ngoài, thì chắc chắn anh
ta đã nói sự thật, vì cơn sợ hãi và xúc động của anh thật quá rõ rệt,
không thể nói đó là sự giả vờ với một người rất vụng về như anh ta. Hơn
nữa, có một nội dung yêu cầu trong bức thông điệp của tôi đã được chân
sư trả lời trong một bức thư của ngài mà sau đó tôi đã nhận được tại lữ
quán ở Bhurtpore, tỉnh Rajputana, cách chỗ Mulji gặp người lạ mặt trên
một ngàn dặm đường. Và đó là một sự kiện đáng kể.