BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with VU Times font |
KINH PHÁP CÚ Tác giả: Nārada
Mahāthera
|
Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode) |
26. BÀ-LA-MÔN 1 - BRĀHMAṆA VAGGA Hãy làm người thấu suốt trạng thái vô tạo
Tích chuyện Một thiện tín có niềm tin dũng mãnh thường để bát cúng dường chư Tăng, và khi hầu chuyện với các thầy, thường nói "Kính bạch chư vị A-La-Hán". Các vị Tỳ-khưu khiêm tốn không vui với cách xưng hô ấy nên không đến nhà vị thiện tín đó nữa. Ông thiện tín lấy làm buồn và đến hầu Phật để tìm xem tại sao chư sư không đến nhà mình. Các vị Tỳ-khưu trình bày lý do và Ðức Phật giải thích rằng sở dĩ có sự xưng hô như vậy là vì ông thiện tín muốn tỏ ý tôn kính các thầy. Ðức Phật khuyên các thầy nên kiên trì cố gắng để thành đạt đạo quả A-La-Hán bằng cách đoạn dòng ái dục. Chú thích 1.- Bà-La-Môn - brāhmaṇa, thường được dùng như một danh từ có có tánh cách chủng tộc, chỉ một giai cấp chủng tộc, nhưng ở đây Bà-La-Môn là một vị Phật hay A-La-Hán. 2.- Dòng - sotaṁ, là dòng ái dục. 3.- Trạng thái Vô Tạo - là Niết-bàn, vì không có ai, không có cái gì tạo nên Niết-bàn. Niết-bàn là vô lậu, phát sanh không do nhân, bất tùy thế. Hãy trau giồi tâm định và tuệ minh sát
Tích chuyện Có những thầy Tỳ-khưu từ phương xa đến hầu Phật. Ðức Xá-Lợi-Phất (Sāriputta) thấu hiểu rằng trong các vị ấy có vài người đủ thuần thục để đắc quả nên bạch hỏi Ðức Phật về hai trạng thái mà Ðức Phật hằng dạy. Ðể trả lời, Ðức Phật đọc câu kệ trên. Chú thích 1. Hai trạng thái - là tâm định và tuệ minh sát (vipassanā) 2. Bờ Bên Kia - là thâu thập những năng lực tinh thần cao thượng (abhiññā, oai lực thần thông). Bà-La-Môn là người không bị ràng buộc
Tích chuyện Ma Vương giả dạng người đến hầu Ðức Phật và bạch hỏi Ngài về bờ bên kia. Ðức Phật nhận ra, bảo rằng Ma Vương không có gì liên hệ đến bờ bên kia và Ngài đọc câu kệ trên. Chú thích 1.- Bờ bên nay - pāraṁ, là lục căn: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý. 2.- Bờ bên kia - apāraṁ, là lục trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. 3.- Bên nầy và bên kia - không luyến ái điều gì như, "Ta" và "Của Ta". 4.- Không bị ràng buộc - Không dính mắc hay liên quan đến những dục vọng. Bà-La-Môn là người hành thiền và trong sạch
Tích chuyện Một người trong giai cấp Bà-La-Môn để ý nghe Ðức Phật thường gọi chư Tỳ-khưu, các đệ tử Ngài, là Bà-La-Môn và nghĩ rằng ông ta cũng đáng được xưng hô như thế vì vốn sanh trưởng trong một gia đình Bà-La-Môn. Ông đến bạch hỏi Ðức Phật. Ðức Phật giải đáp rằng người ta không trở thành Bà-La-Môn - tức thánh nhơn - vì sanh trưởng trong một gia đình ở giai cấp Bà-La-Môn mà vì người ta đã thành đạt Mục Tiêu Tối Thượng. Chú thích 1.- Người có hành thiền - người có thực hành thiền an chỉ (samatha) và thiền minh sát (vipassanā). 2.- Ẩn dật - Asīnaṁ, sống một mình trong rừng. 3.- Thoát ly hoặc lậu - bằng cách chứng ngộ Tứ Ðế và tận diệt thằng thúc. Xem Chú thích câu 226. 4.- Mục Tiêu Tối Thượng - tức là Niết-bàn. Ðức Phật rạng tỏ, ngày như đêm
Tích chuyện Ðại đức A-Nan-Ða (Ānanda) nhận thấy một ông vua huy hoàng, một vị Tỳ-khưu ngồi hành thiền trong giảng đường, một cảnh bình minh, và một cảnh trời trăng sáng tỏ. Rồi Ngài nhìn thấy Ðức Phật sáng lòa rực rỡ trong vinh hạnh. Khi Ðại đức Ānanda bạch lại với Ðức Phật những cảm tưởng khác nhau ấy, Ðức Phật đọc lên câu kệ trên. Chú thích 1.- Khattiya - ở đây Phạn ngữ này chỉ một vật gì có liên quan đến nhà vua. 2.- Bà-La-Môn - là một vị A-La-Hán. 3.- Giới đức của Ðức Phật có oai lực sáng tỏ, làm lu mờ điều bất thiện. Ðức hạnh (guṇa) của Ngài có oai lực làm lu mờ các tật xấu. Oai lực của trí tuệ (paññā) che lấp vô mình. Oai lực của công đức (puñña) che lấp tội khổ. Oai lực của chánh hạnh (dhamma) che lấp điều bất chánh. (Bản chú giải). Là thánh nhơn vì đã xa lìa ác nghiệp
Tích chuyện Một đạo sĩ ở giáo phái khác đến gần Ðức Phật và thỉnh cầu Ðức Phật gọi ông là pabbajita, tu sĩ ẩn dật hay bậc xuất gia. Ðức Phật đọc câu kệ trên để trả lời. Chú thích 1.- Sống an tịnh - bằng cách chế ngự mọi ác nghiệp. Chớ gây tổn hại một vị a la hán
A-La-Hán không trả thù
Tích chuyện Ngày kia ông Bà-La-Môn nọ đánh Ðại đức Xá-Lợi-Phất (Sāriputta) để xem Ngài hành pháp nhẫn nại đến mức độ nào. Vị đại đệ tử của Ðức Phật không giận. Thay vì trả thù, Ngài tha lỗi và đến nhà ông độ thực. Ðức Phật tán dương đức nhẫn nại phi thường ấy và giải thích tác phong của một vị Bà-La-Môn (A-La-Hán) thật sự. Chú thích 1.- Bà-La-Môn - ở đây được dùng theo nghĩa A-La-Hán. Thật sự Bà-La-Môn là người thận trọng thu thúc
Tích chuyện Vài ba tu nữ không chịu làm lễ phát lồ với nữ tu sĩ Ðại đức Mahā Pajāpati Gotamī vì còn nghi ngờ tư cách Tỳ-khưu ni của bà. Ðức Phật giải thích và khuyên các bà tu nữ ấy chớ nên hoài nghi một người đã dập tắt mọi dục vọng, người đã thận trọng thu thúc ba cửa (thân, khẩu, ý). Hãy tôn kính những bậc đáng kính
Tích chuyện Ðại đức Assaji là người đầu tiên thuyết giảng Giáo Pháp cho Ðại đức Xá-Lợi-Phất (Sāriputta). Ðể tỏ lòng tôn kính người đã khai thông trí tuệ cho mình, mỗi khi đi ngủ Ðại đức Xá-Lợi-Phất quay mình về hướng của Ðại đức Assaji đang ở và đảnh lễ. Thấy vậy, vài vị Tỳ-khưu lầm tưởng là Ngài lạy bốn phương tám hướng theo một vài đạo giáo khác nên bạch lại với Ðức Phật. Ðức Phật giải thích thái độ đáng được tán dương của một người học trò biết ơn thầy. Trong sạch thay, người chơn thật và chánh hạnh
Tích chuyện Một người thuộc giai cấp Bà-La-Môn đến gần Ðức Phật và thỉnh cầu Ngài gọi ông là Bà-La-Môn cũng như người ta gọi chư vị Tỳ-khưu. Ðức Phật nói lên những lời trên. Chú thích 1.- Có chơn lý - tức là chứng ngộ Tứ Ðế. 2.- Chánh hạnh - danh từ Dhamma ở đây chỉ chín trạng thái siêu thế: Bốn Ðạo, bốn Quả, và Niết-bàn. Hãy thanh tịnh bên trong
Tích chuyện Ðức Phật đọc câu kệ trên khi đề cập đến một đạo sĩ đang mưu toan giết con kỳ đà. Chú thích 1.- Tô điểm bề ngoài - với những vật sở hữu và những đồ dùng của một đạo sĩ. Bà-La-Môn là người hành thiền trong rừng một mình
Tích chuyện Ðại đức Kisā Gotamī, đắp bộ y vá quàng may bằng giẻ rách lượm ở các đống rác, đi vào rừng hành thiền và từ rừng, bay về đảnh lễ Ðức Phật. Thấy vua Trời Ðế-Thích, cũng đến hầu Phật, bà vái chào rồi ra về. Vua Trời Ðế-Thích bạch hỏi Ðức Phật về bà. Ðể giải đáp, Ðức Phật đọc câu kệ trên. Chú thích 1.- Y vá quàng - y may bằng giẻ vụn. Bà-La-Môn là người không tài sản và không luyến ái
Tích chuyện Một người dòng dõi Bà-La-Môn muốn Ðức Phật gọi là "brāhmana", Bà-La-Môn. Ðức Phật trả lời với những lời trên. Chú thích 1.- Bhovādi - Bho là một hình thức xưng hô thông thường mà chính Ðức Phật cũng thường dùng khi nói chuyện với người cư sĩ, thiện tín. Bhovādi có nghĩa là người đối thoại thân mến. Bà-La-Môn là người tận diệt mọi thằng thúc
Tích chuyện Ðức Phật nói lên những lời trên khi có vài vị tăng sĩ bạch với Ngài rằng Ðại đức Uggasena, vốn đã đắc quả A-La-Hán, nói mình không còn sợ. Bà-La-Môn là người không sân hận
Tích chuyện Hai người cãi nhau vì ai cũng cho rằng con bò của mình mạnh hơn. Ðể tranh hơn thua, hai người chất cát đầy xe rồi bắt bò kéo. Xe không nhúc nhích mà dây, thừng đều đứt. Các vị Tỳ-khưu nhìn thấy về bạch lại với Ðức Phật. Ðức Phật khuyên các thầy nên tận diệt những thừng, dây của tâm mình. Chú thích 1. Người đã giác ngộ - người đã thấu triệt Tứ Diệu Ðế. Bà-La-Môn là người nhẫn nại
Tích chuyện Một thiếu phụ nọ có thói quen đọc hồng danh Ðức Phật mỗi khi có chuyện không may xảy đến. Ông chồng phản đối, nhưng bà vẫn không bỏ thói quen ấy. Người chồng tức giận, chạy đi tìm Ðức Phật và nêu lên vài câu hỏi. Lối giải đáp của Ðức Phật bộc lộ một đức nhẫn nại phi thường, làm người chồng nóng giận kia dịu dần, xin theo Ðức Phật, và thọ lễ xuất gia. Mấy người anh của ông hay tin, đến lăng mạ Ðức Phật và chất vấn Ðức Phật tại sao quyến rũ ông. Ðức Phật nhẫn nại trước những lời nguyền rủa và giảng Pháp cho các ông ấy. Rốt cùng, các ông ấy cũng xin quy y. Khi các vị Tỳ-khưu tán dương hạnh nhẫn nại của Ðức Phật. Ngài đọc lên câu kệ trên. Bà-La-Môn là người không nóng giận
Tích chuyện Ðại đức Xá-Lợi-Phất (Sāriputta) bị mẹ già quở mắng vì bỏ nhà đi tu, nhưng Ngài nhẫn nại chịu đựng. Khi nghe thuật lại hạnh phúc nhẫn nhục của vị đệ tử mình, Ðức Phật đọc lên những lời trên. Chú thích 1. Làm tròn nhiệm vụ - Thận trọng tự khép mình vào khuôn khổ khắt khe của đời sống đạo hạnh. 2. Mang xác thân này lần cuối cùng - bởi vì, đã tận diệt mọi dục vọng, người ấy không còn tái sanh nữa. Bà-La-Môn không luyến ái dục lạc
Tích chuyện Khi bà Tỳ-khưu Ni A-La-Hán nọ bị một người trước kia có thương bà, hãm hiếp, chư Tỳ-khưu bắt đầu nghi ngờ rằng chư vị A-La-Hán còn có thể bị dục lạc cám dỗ. Ðức Phật giải thích trạng thái của các Ngài. Bà-La-Môn là người đã bỏ gánh nặng xuống
Tích chuyện Trước khi có sắc luật liên quan đến lễ xuất gia của những người thuộc giai cấp cùng đinh, một người nô lệ thuộc quyền sở hữu của gia đình Bà-La-Môn nọ bỏ trốn, xin thọ lễ xuất gia với Ðức Phật, và sớm đắc quả A-La-Hán. Một hôm, ông Bà-La-Môn thấy vị Tỳ-khưu - trước kia là nô lệ nhà ông - đi trì bình ngoài đường, liền nắm y lại. Ðức Phật giải thích cho ông rõ rằng người nô lệ ấy đã bỏ gánh nặng lại bên đàng và Ngài tuyên ngôn như trên. Chú thích 1. Gánh nặng - là gánh nặng của ngũ uẩn. 2. Siêu thoát - thoát ly, ra khỏi mọi ô nhiễm. Bà-La-Môn là người đã đạt mục tiêu cùng tột
Tích chuyện Ðại đức Tỳ-khưu Ni Khemā đến đảnh lễ Ðức Phật và, thấy Vua Trời Ðế-Thích, bà ra về. Trời Ðế-Thích bạch hỏi Ðức Phật về bà. Ðức Phật giải thích rằng đó là một tín nữ của Ngài có nhiều trí tuệ. Chú thích 1. Thấu hiểu đường chánh nẻo tà - là hiểu rõ đường nào dẫn đến khổ cảnh, đường nào dẫn đến nhàn cảnh và con đường dẫn đến Niết-bàn. Bà-La-Môn là người không trìu mến
Tích chuyện Thầy Tỳ-khưu nọ sống trong một hang đá. Vị thần, trước kia cũng ở đó, tìm chuyện phao vu để đuổi thầy ra khỏi nơi ấy. Vị tăng sĩ không giận. Trái lại, nhờ một lời nói của vị thần khuyến khích, thầy cố gắng thành đạt đạo quả A-La-Hán. Về sau, thầy trở về hầu Phật và bạch rõ tự sự. Ðức Phật khuyên dạy những lời trên. Bà-La-Môn là người không gây tổn thương cho bất luận ai
Tích chuyện Một vị tăng sĩ đã đắc quả, từ trong rừng trở về hầu Phật. Một thiếu phụ, có chuyện cãi vã với chồng, bỏ nhà, cũng vào đám rừng ấy và muốn trở về cha mẹ. Ông chồng thấy mất vợ, vào rừng tìm, thấy bà vợ đi theo sau vị A-La-Hán. Ông sanh lòng ganh tỵ, đánh đập vị A-La-Hán túi bụi, mặc dầu bà vợ hết lòng bào chữa van lơn. Về sau vị A-La-Hán bạch lại cho Ðức Phật rõ câu chuyện. Ðức Phật dạy những lời trên. Bà-La-Môn là người thân hữu giữa đám đông thù nghịch
Tích chuyện Một bà tín nữ thỉnh năm vị sư về nhà trai Tăng. Ðúng theo lời, năm vị Sa-di đến nhà bà thọ thực. Nhưng, vì bà thí chủ chỉ muốn thỉnh những vị Tỳ-khưu nên bà không vui, tỏ vẻ không tôn kính và không dâng cúng vật thực. Về sau bà mới nhận ra phẩm hạnh của các vị Sa-di, mặc dầu không được tiếp đãi nồng hậu, vẫn không hề tỏ ra bất mãn. Khi nghe thuật lại câu chuyện, Ðức Phật dạy những lời trên. Chú thích 1. Không luyến ái - những người không bám víu vào thân ngũ uẩn. Bà-La-Môn là người lánh xa mọi khát vọng
Tích chuyện Một vị A-La-Hán khuyên người em Tỳ-khưu nên hườn tục, vì học mãi một câu kinh trong bốn tháng trời mà không thuộc. Những thầy Tỳ-khưu khác nghĩ chắc vị A-La-Hán kia nóng giận vì thấy em không thuộc được một câu kinh. Ðức Phật giải thích rằng chư vị A-La-Hán không còn cảm xúc nữa và vị kia khuyên em như vậy chỉ vì lòng tôn kính Giáo Pháp. Chú thích 1. Xem câu 25. Bà-La-Môn là người không xúc phạm đến ai
Tích chuyện Một vị A-La-Hán kia có thói quen nói chuyện với ai cũng dùng lời xưng hô như khi nói với người ở giai cấp cùng đinh. Các thầy Tỳ-khưu phản đối và bạch với Ðức Phật. Ðức Phật giải thích rằng vị ấy không có ý định xấu mà đó chỉ là một tiền khiên tật, một thói quen có năng lực dồi dào, chuyển từ kiếp sống quá khứ sang kiếp hiện tại. Và Ðức Phật đọc câu kệ trên. Bà-La-Môn là người không trộm cắp
Tích chuyện Một vị A-La-Hán thấy miếng vải bỏ rơi dưới đất, vừa lượm lên thì người chủ khúc vải nhận thấy, tri hô Ngài lấy trộm. Vị A-La-Hán giải thích rằng Ngài không có ý định trộm cắp và trao vải lại cho chủ. Nhưng người kia đem câu chuyện thuật cho các vị khác, và các vị ấy cười chê. Ðức Phật giải thích rằng chư vị A-La-Hán không khi nào còn trộm cắp của người khác. Bà-La-Môn là người không tham vọng
Tích chuyện Ðại đức Xá-Lợi-Phất (Sāriputta) an cư kiết hạ ở một nơi nọ cùng với nhiều vị Tỳ-khưu khác. Khi ra hạ, Ngài khuyên các vị kia nên nhường các bộ y thiện tín đã dâng cho những nhà sư trẻ tuổi và các vị Sa-di. Rồi Ngài ra đi, trở về hầu Ðức Phật. Lúc ấy các vị kia hiểu lầm, tưởng Ðại đức Xá-Lợi-Phất còn lòng tham muốn. Ðức Phật giải thích thái độ của người đã đắc quả A-La-Hán như Ðại đức Xá-Lợi-Phất. Bà-La-Môn là người không còn luyến ái
Tích chuyện Một câu chuyện tương tợ như chuyện trên xảy đến cho Ðại đức Mục-Kiền-Liên (Moggallāna). Bà-La-Môn là người đã vượt khỏi thiện và ác
Tích chuyện Khi các vị Tỳ-khưu tỏ lời thán phục và tán dương công đức của Ðại đức Revata, Ðức Phật ghi nhận rằng Ðại đức Revata đã vượt lên khỏi điều ác và điều thiện. Chú thích 1. Ràng buộc - là tham, sân, si, ngã mạn và tà kiến. Bà-La-Môn là người trong sạch
Tích chuyện Do thiện nghiệp đã tạo trong quá khứ, người nọ có được một đặc điểm lạ thường là từ rún phát sanh ánh sáng tương tợ như ánh sáng mặt trăng. Nhưng khi ông đến hầu Phật thì ánh sáng ấy tự nhiên tan mất. Ông bạch hỏi Ðức Phật vì sao. Ðức Phật hứa sẽ giải đáp chừng nào ông xuất gia. Về sau ông thọ lễ xuất gia và đắc đạo quả A-La-Hán. Lúc ấy Ðức Phật đọc lên câu kệ trên. Chú thích 1. Không chao động - bởi những ô nhiễm. 2. Ðể trở thành - tức Hữu (bhava). Ái dẫn đến thủ và Hữu. Bà-La-Môn là người không bám bíu vào điều chi
Tích chuyện Ðức Phật tuyên ngôn như trên khi đề cập đến vị A-La-Hán Sivāli, người đã phải chịu đau đớn lâu dài khi còn ở trong lòng mẹ. Chú thích 1. Vũng lầy này - đó là vũng lầy của tham ái v.v... 2. Con đường này - là con đường của dục vọng. 3. Si mê - những gì che lấp, không cho ta thấy Tứ Diệu Ðế. 4. Ðã xuyên qua - tức người đã vượt qua bốn trận lụt lội là ái dục, hữu, tà kiến và vô minh. Bà-La-Môn là người đã dứt bỏ dục lạc
Tích chuyện Cô gái giang hồ nọ cố gắng cám dỗ một thầy Tỳ-khưu trẻ tuổi, xuất thân từ một gia đình giàu có, nhưng cô thất bại. Ðức Phật đọc những lời trên để khen ngợi thầy Tỳ-khưu ấy. Bà-La-Môn là người dứt bỏ ái dục
Tích chuyện Một người giàu sang nọ từ bỏ thế gian, thọ lễ xuất gia và đắc quả A-La-Hán. Ðức Phật đọc những lời trên chỉ rằng vị kia không còn luyến ái tài sản, vợ con. Bà-La-Môn là người đã tách rời mọi ràng buộc
Tích chuyện Khi có người hỏi, một thầy Tỳ-khưu, trước kia hành nghề khiêu vũ, trả lời rằng thầy không còn mảy may nào ham muốn khiêu vũ. Giảng về sự thay đổi nếp sống và sự thành đạt đạo quả của thầy, Ðức Phật phật dạy những lời trên. Bà-La-Môn là người đã dứt bỏ ưa và ghét
Tích chuyện Một câu chuyện tương tợ như chuyện trên. Chú thích 1. Ưa - tức luyến ái, đeo níu theo dục lạc. 2. Ghét - arati, là không ưa đời sống cô độc trong rừng (bản chú giải) 3. Ô nhiễm - upadhi, có bốn loại upadhi (ô nhiễm) là: uẩn (khandha), dục vọng (kilesa), hoạt động có tác ý (abhisaṁkhāra) và dục lạc (kāma). 4. Thế gian - đó là thế gian ngũ uẩn. Bà-La-Môn là người không trìu mến
Bà-La-Môn là người đã đắc quả A-La-Hán
Tích chuyện Người nọ tên Vangīsa có biệt tài biết được một người chết tái sanh đi đâu khi gõ nhẹ vào cái sọ của người chết. Ngày kia ông đến nơi Phật ngự và nói đúng tất cả mọi trường hợp, ngoại trừ trường hợp của một vị A-La-Hán đã viên tịch. Ông không thể biết được vị ấy đi về đâu, bà bạch hỏi Ðức Phật ông phải làm thế nào để biết. Ðức Phật nói nếu ông xuất gia Ngài sẽ chỉ dạy. Vì muốn biết, ông nọ xin thọ lễ xuất gia và sớm đắc quả A-La-Hán. Ðức Phật dạy câu trên khi nhắc đến ông. Chú thích 1. Thiện thệ - sugataṁ, người có cuộc hành trình toàn hảo. Trong thực tế, người có sự ra đi tốt đẹp, tức là đi về Niết-bàn. 2. Giác ngộ - buddhaṁ, người đã thấu triệt Tứ Diệu Ðế. 3. Gandhabba - Càn-Thác-Bà, là một hạng chúng sanh ở cảnh Trời. Bà-La-Môn là người không ao ước gì
Tích chuyện Một bà vợ có tâm đạo rất nhiệt thành được chồng cho phép xuất gia Tỳ-khưu ni và đắc quả A-La-Hán. Ngày kia ông chồng, cũng đã thành đạt đạo quả A-Na-Hàm (Anāgāmi, Bất Lai), đến gần bà và nêu lên nhiều câu hỏi khó về Giáo Pháp để thử khả năng. Bà giải đáp thỏa đáng tất cả những câu hỏi. Khi ấy ông chồng hỏi thêm về những câu ngoài phạm vi hiểu biết của bà. Bà dẫn đến Ðức Phật. Nghe những lời giải đáp của bà, Ðức Phật khen ngợi với câu kệ trên. Bà-La-Môn là người đã giác ngộ
Tích chuyện Ðức Phật đọc câu kệ trên khi nhắc đến đức vô úy của Ngài Angulimāla. Chú thích 1. Vô úy - usabhaṁ là con trâu cổ. Ý nói người vô úy, không sợ sệt, giống như con trâu cổ. 2. Ðại hiền thánh - mahesiṁ, người tìm giới, định, tuệ cao thượng. 3. Người đã khắc phục - vijitāvinaṁ, người đã khắc phục mọi dục vọng. 4. Người đã rửa sạch - nahātakam, người đã thanh lọc mọi ô nhiễm. 5. Giác ngộ - buddhaṁ, người đã thông suốt Tứ Diệu Ðế. Bà-La-Môn là người tự làm cho mình trở nên toàn thiện
Tích chuyện Một lần nọ Ðức Thế Tôn bị nhức mỏi vì bệnh phong thấp. Một thiện tín lo nấu nước nóng cho Ngài tắm. Khi bệnh tình của Ðức Phật đã được bình phục, vị thiện tín đến bạch hỏi Ngài vật cúng dường phải dâng đến cho hạng người như thế nào để được quả phước dồi dào. Ðể giải đáp, Ðức Phật đọc câu kệ trên. Chú thích 1. Nhàn cảnh - sagga, là sáu cảnh Trời Dục, mười sáu cảnh Trời Sắc Giới và bốn cảnh Trời Vô Sắc. 2. Cảnh khổ - apāya, là bốn trạng thái bất hạnh. 3. Mức tận cùng của mọi kiếp sống - jātikkhayaṁ tức là đạo quả A-La-Hán. 4. Tự mình cải tiến - abhiññāvosito, tức là đến mức cùng tột, bằng cách thông suốt những điều phải được thông suốt, xa lìa những điều phải được xa lìa, chứng ngộ những gì phải được chứng ngộ, và trau dồi những gì phải được trau dồi. (Theo bản chú giải). 5. Hoàn tất - sabbavositavosānaṁ tức là sống đời phạm hạnh thiêng liêng dẫn đến mức tận cùng là tuệ giác có liên quan đến con đường A-La-Hán, chấm dứt mọi dục vọng. -ooOoo- Hạnh phúc thay, chư Phật giáng sinh! -ooOoo- Ðầu
trang | Mục
lục | 01 | 02
| 03 | 04 | 05
| 06 | 07 | 08
| 09 | 10 | |
Chân thành cám ơn Tỳ kheo Minh Tịnh, Tỳ kheo Thiện Minh, và
Bác Phạm Kim Khánh
đã gửi tặng bản vi tính và các tư liệu cần thiết để thực hiện ấn bản Internet
này (Bình Anson, 01-2004).
last updated: 08-01-2004