BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with VU Times font |
KINH PHÁP CÚ Tác giả: Nārada
Mahāthera
|
Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode) |
20. CON ÐƯỜNG - MAGGA VAGGA Bát chánh đạo là con đường cao thượng nhứt hãy theo con đường ấy để đến chỗ thanh tịnh hãy theo con đường ấy để chấm dứt đau khổ, hãy tự mình cố gắng chuyên cần
Tích chuyện Sau khi đi một vòng châu du hoằng Pháp, Ðức Thế Tôn trở về tịnh xá, và giữa chúng Tăng có cuộc thảo luận về trạng thái gồ ghề hay bằng phẳng của các con đường đã trải qua. Ðức Phật lưu ý rằng thảo luận về các con đường ấy không thích hợp cho sự giải thoát và Ngài khuyên chư Tăng nên theo con đường Bát Chánh. Chú thích 1. Bát Chánh Ðạo - là con đường "Trung Ðạo" mà Ðức Phật đã tìm ra để chứng ngộ Niết-bàn. Con đường gồm: Chánh Kiến (sammā diṭṭhi), Chánh Tư Duy (sammā saṁkappa), Chánh Ngữ (sammā vācā), Chánh Nghiệp (sammā kammanta), Chánh Mạng (sammā ājīva), Chánh Tinh Tấn (sammā vāyāma), Chánh Niệm (sammā sati) và Chánh Ðịnh (sammā samādhi). Ðó là con đường Giác Ngộ duy nhứt. Ðứng về mặt triết học, tám yếu tố ấy là tám trạng thái tinh thần (hay tâm sở) nằm trong tám loại tâm siêu thế có đối tượng là Niết-bàn. 2.- Tứ Ðế - là bốn Chơn Lý Cao Quý: Khổ, nguồn gốc của khổ, sự diệt khổ, và con đường dẫn đến sự diệt khổ. Chơn Lý đầu tiên (khổ) phải được thông suốt, hiểu biết. Nguồn gốc của khổ (tức ái dục) phải được tận diệt. Sự diệt khổ (tức Niết-bàn) phải được chứng ngộ. Con đường dẫn đến sự diệt khổ (tức Bát Chánh Ðạo) phải được phát triển. Dầu chư Phật có giáng sinh hay không, bốn Chơn Lý ấy vẫn có trên thế gian. Chư Phật đã khám phá và vạch rõ cho nhơn loại. 3.- Không luyến ái - Virāya, là Niết-bàn. 4.- Gai chướng - những cây gai tham ái v.v... 5.- Kiên trì cố gắng - là tinh tấn điều phục cái dục vọng để chứng ngộ Niết-bàn. 6.- Như Lai - Khi Ðức Phật nói đến Ngài, Ngài tự xưng là Như Lai, Tathāgata, có nghĩa "người đến như thế này". Tất cả các vật hữu lậu đều vô thường
Tích chuyện Ðức Phật nhận thấy các thầy Tỳ-khưu hành thiền với đề mục "vô thường", khuyên các thầy nên tiếp tục. Chú thích 1.- Các vật hữu lậu - Sankhārā, hành, là một danh từ có nhiều nghĩa. Hành ở đây là những vật có điều kiện để phát sanh. Phải có những nguyên nhân tạo điều kiện, các vật ấy mới phát sanh nên gọi là hữu lậu, hay tùy thế. Niết-bàn là siêu thế, không nằm trong hành, sankhārā, vì không phải tùy thuộc ở nguyên nhân và không có thời gian. 2.- Phiền não - gây nên do sự chăm sóc thân ngũ uẩn. Tất cả các vật hữu lậu đều khổ não
Tích chuyện Ðức Phật nhận thấy nhiều vị Tỳ-khưu hành thiền với đề mục "khổ não", khuyên các thầy nên tiếp tục. Tất cả đều vô ngã
Tích chuyện Ðức Phật nhận thấy nhiều vị Tỳ-khưu hành thiền về lý vô ngã, khuyên dạy các thầy nên tiếp tục. Chú thích 1.- Vô thường (anicca), khổ não (dukkha) và vô ngã anattā) là đặc tánh của tất cả những vật hữu lậu, hay tùy thế, tức là những gì phải do nguyên nhân tạo điều kiện để phát sanh. Do nhờ suy niệm về ba đặc tánh này mà chứng Niết-bàn. Hành giả có thể chọn đặc tánh nào thích hợp với mình nhứt trong ba đặc tánh ấy để hành. Lý vô ngã (anattā) là nền tảng của Phật giáo. Danh từ sankhārā, vật hữu lậu, được dùng trong hai câu đầu. Ở câu thứ ba, Ðức Phật dùng danh từ dhamma, pháp. Bản chú giải gọi dhamma là uẩn (khandhā), và sankhārā bản chú giải cũng gọi là uẩn. Nếu vậy dhamma đồng nghĩa với sankhārā và như thế không có lý do nào Ðức Phật dùng danh từ sankhārā ở hai câu đầu mà đến câu thứ ba lại dùng danh từ dhamma. Saṅkhārā chỉ áp dụng cho những vật hữu lậu. Dhamma áp dụng cho cả hai, những vật hữu lậu và những vật vô lậu. Vậy trong câu thứ ba, các pháp, dhamma, bao gồm cả hai, các pháp hữu lậu, tại thế, và các pháp vô lậu, siêu thế. Ðể chỉ rằng dầu ở trạng thái Niết-bàn cũng không có một linh hồn trường tồn không biến đổi, Ðức Phật dùng danh từ "Pháp", dhamma, ở câu thứ ba, là trạng thái siêu thế xác thực và không có linh hồn. "Tất cả các thể chất đều vô ngã. Khi, do nhờ trí tuệ, ta chứng ngộ được (điều ấy), ta không chú tâm (thoát lên cao hơn) (thế gian) phiền não này. Ðó là con đường trong sạch". -- Radhakrishnan. Kẻ lười biếng không chứng ngộ con đường
Tích chuyện Nhiều vị tăng sĩ kéo nhau vào rừng hành thiền và đắc quả A-La-Hán trong lúc có một nhóm khác không chịu đi, ở lại chùa. Khi các vị ở rừng về, Ðức Phật có lời chào đón thân thiện mà không có lời nào với các vị ở lại. Thái độ của Ðức Phật khuyến khích và thúc đẩy các vị không đi càng tinh tấn thêm lên để cũng đắc quả A-La-Hán. Ðêm đến, các vị ấy tận lực chuyên cần, nhưng không may, gặp phải trở ngại. Các vị kia phải đến hỗ trợ. Ðức Phật giảng rằng người lười biếng dã dượi phải gặp nhiều khó khăn mới chứng ngộ được. Chú thích 1.- Tinh thần suy nhược - Saṁsannasaṁkappamano, cái tâm trong ấy tư tưởng chơn chánh bị suy đồi. Hãy thanh lọc thân, khẩu, ý
Tích chuyện Một vị tăng sĩ có lời nói gây chia rẽ hai vị khác, vốn là bạn thân. Sau khi viên tịch, thầy tái sanh làm ngã quỷ có hình thù xấu xa. Ðức Mục-Kiền-Liên (Moggallāna) gặp lại và trở về bạch với Ðức Phật. Ðức Phật giảng về hậu quả tai hại của lời nói đâm thọc, gây chia rẽ. Hãy làm thế nào để tăng trưởng trí tuệ
Tích chuyện Một vị Tỳ-khưu tên Pothila có tài học rộng, thông suốt Giáo Pháp, nhưng Ðức Phật vẫn gọi là "Pothila trống rỗng" để khuyến khích thầy cố gắng đạt đến đạo quả A-La-Hán. Vị tăng sĩ hiểu ý, rút vào rừng sâu thanh vắng hành thiền. Chấp nhận lời khuyên của một Sa-di trẻ tuổi, thầy tinh tấn thực hành thiền định để đắc quả A-La-Hán. Ðức Phật dùng tuệ nhãn thấy vậy, hiện thân đến trước thầy và dạy những lời trên. Hãy dứt bỏ luyến ái ngày nào còn luyến ái, tâm còn bị trói buộc
Tích chuyện Vài vị Tỳ-khưu già khóc một bà thí chủ, chết cũng lớn tuổi. Ðức Phật khuyên các thầy thực hành tâm không luyến ái. Chú thích 1.- Rừng - vana, có nghĩa là đám rừng của những dục vọng như tham ái, sân hận và si mê. 2.- Khi Ðức Phật vừa nói "hãy đốn rừng", có vài vị Tỳ-khưu hiểu sai, theo nghĩa trắng. Ðọc ngay được tư tưởng sai lầm ấy Ðức Phật thêm đoạn sau, dạy rõ rằng rừng đây không phải là cây thật sự mà chỉ là những dục vọng. 3.- Cây lớn và cây nhỏ - Vana có nghĩa là cây to và vanatha là những cây nhỏ. Ở đây, vana là những dục vọng lớn, có nhiều mặt năng lực và vanatha là những dục vọng nhỏ, ít năng lực hơn. 4.- Hãy sống không rừng - Tận diệt tất cả dục vọng bằng bốn Ðạo, hãy làm người không dục vọng. Hãy phát triển con đường an tịnh
Tích chuyện Một vị Tỳ-khưu đang hành thiền về ô trược của thể xác nhưng không hiệu quả. Ðức Phật thấy vậy trao cho thầy một cành sen và dạy thầy an trụ tâm vào đây. Vị Tỳ-khưu thành công, đắc những từng thiền và phát triển tâm lực. Theo lời khuyên của Ðức Phật về sau thầy đắc quả A-La-Hán. Kẻ si mê khôg nhận định mối hiểm họa của sự chết
Tích chuyện Một thương gia, cùng tùy tùng gia thuộc, dừng chơn nghỉ bên bờ sông. Lúc ấy trời mưa tầm tã. Ông suy nghĩ: "Ta sẽ bán hết hàng, rồi sẽ lưu lại đây mùa này, kế mùa kia". Ðức Phật nhận thấy rằng trong bảy ngày nữa ông sẽ chết. Ðại đức A Nan Ðà (Ānanda) đến gặp và cho ông hay về cái chết sắp đến của ông. Ông thương gia hối hận, thỉnh Ðức Phật và chư Tăng về chỗ ngụ, để bát cúng dường. Ðức Phật khuyên ông nên hành thiền về cái chết. Ông làm theo, đắc từng Thánh đầu tiên, và tịch diệt như Ðức Phật đã tiên đoán. Cái chết nắm lấy kẻ đam mê
Tích chuyện Xem Tích chuyện phía dưới câu 114. Trong giờ phút lâm chung không có sự bảo trợ của ai cả
Tích chuyện Một thiếu phụ tên Patācārā mất những người thân yêu gần gũi nhứt của bà trong một trường hợp vô cùng thê thảm. Bà phát điên và chạy cùng đường. Ðức Phật từ bi an ủi bà và đọc những câu trên. -ooOoo- Ðầu
trang | Mục
lục | 01 | 02
| 03 | 04 | 05
| 06 | 07 | 08
| 09 | 10 | |
Chân thành cám ơn Tỳ kheo Minh Tịnh, Tỳ kheo Thiện Minh, và
Bác Phạm Kim Khánh
đã gửi tặng bản vi tính và các tư liệu cần thiết để thực hiện ấn bản Internet
này (Bình Anson, 01-2004).
last updated: 08-01-2004