Lúc ấy, Phật ở gần thành Tỳ-xà-ly, ven sông Di-hầu. Trong thành có một
trưởng giả tên là Giá-la, vừa gặp được một người vừa ý, mới cưới làm vợ.
Người vợ khi mang thai, bỗng nhiên trở nên hôi hám lạ thời, chẳng ai dám
đến gần. Người chồng hỏi: “Ngày trước bà không hôi hám thế này, sao nay
bỗng nhiên thay đổi, trở nên hôi hám đến thế?” Vợ đáp rằng: “Điều này
chắc hẳn là do đứa con đang mang trong bụng. Do nghiệp lực của nó mà
khiến ra có chuyện như vậy.”
Khi đủ ngày tháng, bà hạ sinh một bé trai hình dung cực kỳ xấu xí, khó
coi. Lại khi sinh ra có phân dơ bao quanh người, hôi hám cùng cực. Dần
dần lớn lên, cứ muốn tìm đến những chỗ dơ nhớp có phân người, khuyên
can, dạy dỗ cũng chẳng rời xa những nơi ấy được.
Cha mẹ, thân thuộc họ hàng thấy sự kỳ quái, dơ nhớp như vậy dần dần
không chịu nổi, xô đuổi ra chỗ xa vắng, chẳng cho về nhà nữa. Từ đó
thằng bé lang thang tìm những chỗ dơ nhớp mà ở, ăn phân dơ, uống nước
tiểu người, xem đó là những món ngon lạ nhất. Nhân dân đều nghe biết,
gọi nó là quỷ Diêm-bà-la.
Trong xứ ngày ấy có một thầy ngoại đạo đi du phương, tình cờ gặp
Diêm-bà-la, liền thốt ra lời này: “Lành thay!” Diêm-bà-la từ bé đến lớn
chưa từng được ai thân cận, gần gũi, ngay cả đến cha mẹ còn xa lánh, nên
nghe thầy ngoại đạo nói lời thân mật với mình thì vui mừng không kể
xiết, liền quỳ dưới chân thầy mà cầu xin được thâu nhận làm đệ tử.
Thầy ngoại đạo nhận Diêm-bà-la làm đệ tử, dạy phải sống lõa thể, lấy tro
hòa nước bôi trét lên khắp người, gọi đó là phép tu tịnh hạnh.
Diêm-bà-la tuy nghe theo thầy, nhưng vẫn không bỏ được tập tính cũ, thời
tìm đến ở những nơi dơ nhớp và ăn phân người, uống nước tiểu. Những kẻ
đồng tu ngoại đạo thấy vậy thì la mắng thậm tệ, hoặc có khi lấy gậy gộc
mà đuổi đánh. Nhiều lần như vậy, Diêm-bà-la sợ quá trốn ra bờ sông, tìm
được một cái hang sâu mà lánh vào đó, đêm đêm mới rời hang mà đi kiếm
ăn.
Nơi bờ sông ấy có 500 ngạ quỷ hình thể cực kỳ xấu xí, gớm ghiếc. Đám ngạ
quỷ ấy thấy Diêm-bà-la đến ở gần bên nhưng vẫn thản nhiên, không hề chê
bai hay mắng nhiếc gì. Diêm-bà-la thấy vậy mừng lắm, thường nghĩ rằng:
“Ta sống với loài người từ bao lâu nay, chỉ toàn nghe những lời chê bai,
la mắng, lại còn đòn roi đánh đập, xô đuổi, khổ não cùng cực. Thật chẳng
bằng như nay sống chung với lũ quỷ này, thoát được những nạn khổ ấy.”
Không ngờ lũ quỷ ấy tuy chẳng chê bai hình dạng của Diêm-bà-la, nhưng
khi thấy chàng ta tìm ăn phân người, uống nước tiểu thì thảy đều ghê sợ,
chẳng muốn ở gần, mới rủ nhau bỏ đi nơi khác. Diêm-bà-la buồn rầu thảm
thiết, nói rằng: “Ta mang thân xấu xí, chưa từng có bạn hữu. Nay gặp
được các ngươi tưởng là cùng chung thân phận, có thể sống với nhau mà
chia sẻ vui buồn. Ngờ đâu nay các ngươi cũng muốn bỏ ta mà đi.” Nói như
vậy rồi, trong lòng đau đớn khôn nguôi, nằm lăn trên đất chẳng muốn dậy.
Đức Thế Tôn ngày đêm thời lấy tâm đại bi quán sát chúng sanh, biết nơi
nào có thể độ thoát được đều tùy duyên mà đến cứu độ cho. Bấy giờ Phật
thấy biết Diêm-bà-la sầu khổ cùng cực, biết là cơ duyên đã đến nên hiện
thân đến nơi ấy mà thuyết pháp cho nghe.
Diêm-bà-la được nghe Phật thuyết pháp rồi, sinh lòng vui mừng khôn xiết.
Lại được thấy thân Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, hào
quang chiếu sáng quanh thân rực rỡ, trong lòng vô cùng hoan hỷ, liền quỳ
xuống chí thành lễ Phật, thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Người hạ tiện, xấu
xí, dơ nhớp như con đây, có thể nào xuất gia được chăng?”
Phật dạy Diêm-bà-la rằng: “Trong đạo pháp của ta, không có hạng người
nào mà lại không được xuất gia cả.”
Diêm-bà-la nghe vậy thì vui mừng khôn xiết, liền quỳ lạy, cầu thỉnh xin
được xuất gia nhập đạo. Bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói rằng: “Lành thay
đó, tỳ-kheo!” Tức thì râu tóc tự nhiên rụng sạch, áo cà-sa hiện nơi
thân, thành một vị sa-môn oai nghi đầy đủ.
Diêm-bà-la được Phật độ cho xuất gia rồi, trong lòng hoan hỷ, liền đọc
kệ rằng:
Nay nhờ ơn Phật,
Được tròn sở nguyện.
Bỏ thân dơ nhớp,
Được thành sa-môn.
Phật bảo Diêm-bà-la rằng: “Nhà ngươi nay đã được xuất gia thành đệ tử
của ta rồi đó.”
Diêm-bà-la từ đó chuyên cần tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A-La-hán, có
đủ Ba trí sáng, Sáu phép thần thông, hàng trời người thảy đều kính
ngưỡng.
Bấy giờ, chư tỳ-kheo thấy việc như thế, liền thưa hỏi Phật rằng: “Bạch
Thế Tôn! Chẳng hay tỳ-kheo Diêm-bà-la đây trước đã tạo những ác nghiệp
gì mà nay phải chịu khổ báo như vậy? Lại có nhân duyên gì được gặp Phật
và tu tập sớm đắc đạo quả?”
Phật liền đọc cho chư tỳ-kheo nghe bài kệ rằng:
Đã tạo nghiệp thiện, ác,
Trăm kiếp đều chẳng mất.
Đều do nghiệp, nhân duyên,
Nên chịu quả như thế.
Chư tỳ-kheo nghe kệ rồi, liền thưa hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn! Chẳng hay
nhân duyên quá khứ như thế nào? Xin vì chúng con giảng giải cho được
biết.”
Phật bảo chư tỳ-kheo: “Các ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì các
ngươi mà phân biệt giảng nói. Vào giữa Hiền kiếp này, tuổi thọ con người
kéo dài đến bốn mươi ngàn năm. Khi ấy, xứ Ba-la-nại có Phật ra đời hiệu
là Ca-la-ca Tôn-đà, cùng với các vị tỳ-kheo đi giáo hóa khắp nơi, đến
một nước tên là Bảo Điện.
Vua nước ấy liền cùng với quần thần ra khỏi thành nghinh tiếp Phật,
thỉnh Phật vào thành thọ nhận cúng dường trong ba tháng. Phật nhận lời.
Nhà vua được Phật nhận lời, liền truyền cho sắp xếp, chuẩn bị đầy đủ mọi
thứ để cúng dường. Lại cho xây dựng một khu tự viện rất nhiều phòng ốc
dành cho chư tăng, thỉnh một vị tỳ-kheo đứng đầu coi sóc, quản lý mọi
việc.
Ngày nọ, có vị tỳ-kheo đã chứng quả A-La-hán đi hành hóa phương xa, ghé
vào tự viện ấy. Những người thiện tín đang làm công việc trong tự viện,
nhìn thấy oai nghi của vị A-La-hán đều vui mừng chiêm ngưỡng, thỉnh vào
phòng trong nấu nước thơm cúng dường cho ngài tắm rửa, lại lấy các thứ
bột hương chiên-đàn quý giá để bôi lên thân ngài.
Bấy giờ vị tỳ-kheo chủ trì nơi ấy vừa đi ra ngoài về, thấy việc như vậy
thì sinh lòng ganh ghét, sân hận, liền buông lời thóa mạ rằng: “Ngươi là
người xuất gia, sao dám lấy hương thơm của người khác mà dùng trên thân
mình như vậy?”
Vị A-La-hán nghe lời nói đó, liền lấy lòng từ bi mà thương xót cho vị
tỳ-kheo ấy, biết rằng ông ta sẽ phải thọ khổ báo vì lời nói ấy. Ngài
muốn giúp ông sinh lòng hối cải để giảm bớt tội nghiệp, nên liền bay lên
giữa hư không, hiện đủ mười tám phép thần biến. Vị tỳ-kheo kia thấy vậy
vô cùng hổ thẹn, hối hận, liền lễ bái cầu xin sám hối.
Do nghiệp duyên như thế, đã năm trăm kiếp qua rồi, người ấy vẫn thường
phải thọ thân xấu xí, dơ nhớp, chẳng ai dám đến gần.”
Phật bảo chư tỳ-kheo: “Tỳ-kheo buông lời xúc phạm vị A-La-hán ngày xưa,
nay chính là tỳ-kheo Diêm-bà-la đó. Nhờ khi ấy đã sám hối với vị
A-La-hán kia, nên nay mới được gặp ta và xuất gia đắc đạo.”
Phật thuyết nhân duyên của Diêm-bà-la rồi, chư tỳ-kheo thảy đều tự biết
phòng hộ các nghiệp thân, miệng, ý, lìa bỏ lòng ganh ghét, sân hận, lánh
sợ đường sinh tử, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả
Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có
nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu
quả vô thượng Bồ-đề.
Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng
tin nhận.