Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Bấy giờ
chư tỳ-kheo bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chẳng hay vì nhân duyên gì mà
Phật thường tán thán, ca ngợi công đức của việc bố thí. Không biết
nguyên do việc ấy thế nào, xin Phật từ bi vì chúng con mà phân biệt
giảng thuyết.”
Đức Thế Tôn đáp rằng: “Này chư tỳ-kheo! Hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì
các ngươi mà phân biệt giảng nói.
“Này chư tỳ-kheo! Ta nhớ lại về thuở quá khứ cách nay vô số kiếp, nước
Ba-la-nại có vị vua tên là Phạm-dự, trị nước theo chánh pháp, nhân dân
an ổn, thịnh vượng, không có nạn đao binh, chinh chiến. Trong cõi nước
của ngài, các loại trâu bò, voi ngựa, gia súc, thảy đều đông đúc.
“Bấy giờ trong nước có một người bà-la-môn giỏi thuật chiêm tinh, tâu
với vua rằng: ‘Thần xem thiên văn thấy có hỏa tinh sanh lại phương này.
Ứng theo điềm ấy, khắp nước sẽ phải chịu một cơn hạn hán kéo dài đến 12
năm, mùa màng chẳng thu được gì, nhân dân hết sức đói khổ.’
“Vua Phạm-dự nghe lời ấy rồi, trong lòng buồn bã lo âu, tự suy nghĩ
rằng: ‘Nay ta biết tìm cách chi để cứu nhân dân sống qua khỏi kiếp nạn
này?’
“Liền cho gọi những người giỏi thuật toán số đến bảo rằng: ‘Các ngươi
hãy tính hết số dân trong nước, đem so với số lúa thóc hiện có trong các
kho, rồi chia đều xem có thể cung cấp được bao lâu.’
“Những người ấy vâng lệnh vua, tổ chức một cuộc điều tra khắp nước, rồi
báo với vua rằng: ‘Nếu chia đều ra, phân phát cho mỗi người một thăng
lúa, thì có thể phân phát được 6 năm. Chia như vậy cũng chẳng đủ ăn, nên
số người chết chắc là nhiều lắm. Riêng phần của vua thì được chia hai
thăng.’ Vua liền ra lệnh cứ y vậy mà phân phát.
“Có một người bà-la-môn sau đó tìm đến vua, tâu rằng: ‘Tâu đại vương!
Chỉ có riêng mình tôi bị sót tên không được chia lúa. Mạng sống chỉ còn
trong nay mai. Xin đại vương từ bi thương xót, cấp cho ít nhiều.’
“Vua Phạm-dự nghe nói vậy, liền tự nghĩ rằng: ‘Nay người này đang cơn
đói thiếu, cần ta bố thí ít nhiều. Nếu ta chẳng thể vì người mà bố thí,
thì nói gì đến chuyện sau này tế độ chúng sanh, lại trong vô lượng kiếp
vì chúng sanh mà chịu những sự khổ não?’ Nghĩ như vậy rồi, liền giảm
phần mình một nửa số lúa, bố thí cho người bà-la-môn ấy.
“Khi ấy, lòng bố thí của vua cảm động đến cả trời đất, khiến cho cung
điện của vua trời Đế-thích tự nhiên chấn động, chẳng được yên ổn.
Đế-thích suy nghĩ rằng: ‘Nguyên do gì mà cung điện của ta tự nhiên chấn
động? Hay là do ta phước đức đã hết, mạng sắp tự diệt nên có điềm báo
này?’
“Nghĩ như vậy rồi, liền dùng thần thông quán sát, thấy biết việc vua
Phạm-dự trong cơn đói thiếu, có thể vì chúng sanh mà làm được việc rất
khó làm, nên cảm ứng đến cung điện nơi cõi trời rung chuyển chấn động.
“Đế-thích liền nghĩ: ‘Nay ta nên đến đó, thử lòng vua xem có thật như
thế chăng.’ Liền tự biến hình thành một người bà-la-môn già yếu, bệnh
hoạn, chống gậy đến chỗ vua Phạm-dự mà xin ăn. Khi ấy, vua Phạm-dự suy
nghĩ: ‘Thân mạng này của ta, dẫu cho có bố thí hay không thì cuối cùng
cũng đi đến chỗ chết mà thôi.’ Nghĩ như vậy rồi, trong lòng vui vẻ muốn
bố thí, được lợi ích cho chúng sanh thì dù chết cũng không hối hận. Còn
chỉ một phần lúa duy nhất của mình, vua liền mang ra bố thí cho người
bà-la-môn già yếu ấy.
“Đế-thích nhận bố thí rồi, liền hỏi vua rằng: ‘Đại vương trong cơn đói
khát, cơ khổ mà có thể làm được việc rất khó làm, xả bỏ cả thân mạng,
như vậy ắt cầu được sanh cõi trời, hoặc cầu làm Chuyển luân Thánh vương
chăng, hay cầu được sự vui thú, vinh hoa nơi cõi thế?’
“Vua Phạm-dự đáp: ‘Tôi thật chẳng cầu hết thảy những điều ấy, duy chỉ
nguyện trong đời vị lai được thành chánh giác, cứu tế chúng sanh thoát
mọi khổ não.’
“Phát nguyện ấy xong, Đế-thích liền nói: ‘Lành thay, lành thay! Thật
chưa từng có vậy!’ Nói xong, hiện lại nguyên hình, nói với vua Phạm-dự
rằng: ‘Ta thật là vua trời Đế-thích. Nay đại vương nên truyền lệnh cho
dân chúng chuẩn bị dọn sửa ruộng đất, trong vòng bảy ngày ta sẽ cho một
cơn mưa lớn.’
“Vua Phạm-dự nghe vậy vui mừng khôn xiết, liền truyền rao trong dân
chúng, phải cày dọn ruộng đất sẵn sàng, trong vòng bảy ngày sẽ có mưa
lớn. Nhân dân được tin hết sức vui mừng, lập tức cày dọn ruộng đất chờ
sẵn. Đúng bảy ngày quả nhiên trời đổ cơn mưa lớn. Năm đó mùa màng bội
thu, không còn đói thiếu.”
Phật lại bảo A-nan rằng: “Vua Phạm-dự thuở ấy, chính là ta ngày nay. Do
nhân duyên ấy, ta thường tán thán công đức bố thí là vô cùng lớn lao,
không thể nói hết.”
Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng
tin nhận.