Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Vào khoảng
đầu hôm, có năm trăm vị thiên tử hiện thân trang nghiêm đẹp đẽ, mang
theo những hương hoa, trân bảo từ cõi trời, đến lễ bái cúng dường Phật.
Lễ bái cúng dường xong, liền ngồi sang một bên nghe pháp. Phật thuyết
pháp Tứ diệu đế cho nghe rồi, tâm ý liền khai mở, đắc quả Tu-đà-hoàn,
liền lễ Phật rồi quay về cõi trời.
Sáng hôm sau, chư tỳ-kheo thưa hỏi Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Đêm qua có
hào quang chiếu sáng ở nơi tinh xá, chẳng hay đó là các vị Thích phạm,
tứ thiên vương, hay hai mươi tám bộ quỷ thần đến nghe pháp?”
Phật nói: “Chẳng phải Thích phạm, thiên thần, tứ thiên vương đến nghe
pháp. Ấy là năm trăm vị thiên tử từ cõi trời Đao-lỵ hiện đến cúng dường
ta. Các ngươi muốn biết nhân duyên nghiệp quả của những vị ấy, hãy chú
tâm lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà giảng giải.
“Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, vào thời của đức Phật Ca-diếp
tại thế, có hai người bà-la-môn sắp đi theo vua đến chỗ Phật mà lễ bái
cúng dường. Trong thành có một cư sĩ đến khuyên hai người bà-la-môn ấy
rằng: ‘Nay các ông được theo vua đến gặp Phật, nhân đó nên thọ lấy phép
Bát quan trai.’
“Hai người bà-la-môn hỏi: ‘Thọ phép trai giới ấy có lợi ích gì?’ Cư sĩ
ấy đáp: ‘Thọ phép trai giới ấy, tùy theo chỗ sở nguyện của mình, hết
thảy đều được thành tựu.’
“Hai người bà-la-môn liền nghe lời cư sĩ ấy, khi đến lễ Phật cùng nhau
thọ phép Bát quan trai. Một người cầu được sinh lên cõi trời, còn người
kia cầu được làm vua ở cõi người. Sau khi thọ trai giới rồi, liền cùng
nhau quay về chỗ tụ họp của những người bà-la-môn.
“Những người bà-la-môn khác bảo hai người rằng: ‘Các ông đang đói khát,
có thể đến đây cùng ăn uống.’ Hai người đáp: ‘Chúng tôi thọ trai giới
của Phật, đã quá giờ thì không ăn.’
“Những người kia nói: ‘Bà-la-môn chúng ta cũng tự có đủ phép tắc, quy
luật, sao hai người lại đi thọ trai giới của mấy ông sa-môn?’ Nói vậy
rồi lại ân cần mời thỉnh nhiều lần, ép buộc hai người phải ăn uống với
họ.
“Người bà-la-môn cầu sinh lên cõi trời, khi ấy không giữ được, liền ngồi
xuống cùng ăn uống. Do không giữ trọn giới đã thọ nên không thành sở
nguyện, mạng chung sinh vào loài rồng.
“Người bà-la-môn cầu được làm vua, kiên trì giữ giới, tuyệt không chịu
ăn uống với họ. Nhờ vậy, được thành sở nguyện, đời sau được làm một vị
quốc vương.
“Do hai người cùng thọ phép Bát quan trai với nhau, nên lại sinh ra cùng
một chỗ với nhau. Người phải sinh vào loài rồng, khi ấy ở trong cái hồ
lớn giữa vườn của nhà vua.
“Người giữ vườn mỗi ngày đều hái các loại hoa quả trong vườn dâng lên
cho vua. Ngày kia, nơi cái ao lớn giữa vườn bỗng nảy sinh một thứ quả
lạ, to lớn mà có mùi thơm ngon kỳ tuyệt.
“Người giữ vườn hái được quả ấy, tiếc không nỡ ăn, suy nghĩ rằng: ‘Ta
làm công việc này, ngày ngày ra vào đều phải qua chỗ quan giữ cửa. Nay
được quả thơm ngọt này, nên mang biếu ông ta.’ Nghĩ rồi liền mang biếu
quan giữ cửa.
“Quan giữ cửa nhận được, cũng không nỡ ăn, suy nghĩ rằng: ‘Ta mỗi ngày
ra vào đều qua chỗ quan Hoàng môn. Nay được quả lạ này, nên mang biếu
ông ta.’ Nghĩ vậy rồi, liền mang quả đi biếu.
“Quan Hoàng môn nhận được, cũng không nỡ ăn mất, suy nghĩ rằng: ‘Hoàng
hậu thời vì ta mà khéo nói với vua, khen ta có tài có đức. Nhờ vậy mà ta
mới được vua tin dùng. Nay được quả lạ này, nên mang biếu hoàng hậu mới
phải.’ Nghĩ rồi liền mang đi biếu cho hoàng hậu.
“Hoàng hậu được quả ấy rồi, liền dâng lên cho vua. Vua được quả ấy liền
bổ ra ăn, thấy hương vị ngon ngọt lạ thường xưa nay chưa từng được biết,
mới hỏi hoàng hậu rằng: ‘Do đâu mà hoàng hậu có được thứ quả ngon lạ
này?’ Hoàng hậu liền chỉ đến quan Hoàng môn. Vua truyền hỏi quan Hoàng
môn, lại chỉ đến quan Môn giám. Vua truyền hỏi quan Môn giám, liền chỉ
đến người giữ vườn.
“Vua liền gọi người giữ vườn đến, quở trách rằng: ‘Trong vườn có thứ quả
ngon lạ đến thế, tại sao không dâng lên ta mà mang cho người khác?’ Nói
rồi muốn bắt tội. Người giữ vườn hết lời phân trần, rằng trong vườn
chẳng hề có thứ quả ấy, chỉ là tự nhiên hóa sinh một quả nơi hồ lớn mà
thôi. Vua không nghe, truyền rằng: ‘Tạm tha chết cho ngươi, nhưng từ nay
về sau phải thường dâng loại quả ấy. Nhược bằng không có tất phải tội
chết.’
“Người giữ vườn trở về, vào trong vườn đến bên bờ hồ mà than khóc thảm
thiết. Loại quả ấy chẳng trồng trong vườn này, nay biết tìm ở đâu mà có
được? Nếu không có, tất phải tội chết không tránh khỏi.
“Bấy giờ, long vương trong hồ lớn nghe tiếng than khóc liền hiện lên,
hóa thân làm một người từ xa đi lại, hỏi rằng: ‘Có việc chi mà người
khóc lóc sầu thảm như vậy?’
“Người giữ vườn nói: ‘Ngày hôm qua tôi được một quả cây ngon lạ nổi lên
từ hồ này, mang cho quan giữ cửa. Ông này lại mang cho quan Hoàng môn,
quan Hoàng môn dâng cho hoàng hậu, hoàng hậu lại dâng cho vua. Vua ăn
quả ấy thấy ngon ngọt, bây giờ buộc tôi phải từ nay về sau phải thường
dâng cho vua quả ấy, nếu không thì bắt tội chết. Nhưng quả ấy không
trồng mà được, nay tôi biết tìm ở đâu ra? Vì vậy mà đến đây than khóc.’
“Hóa thân của long vương nghe vậy rồi, liền trở về thủy phủ dưới lòng hồ
sâu, lấy loại quả ngon lạ ấy lên, đặt trong một cái khay bằng vàng, trao
cho người giữ vườn và nói rằng: ‘Nay ngươi mang quả này mà dâng cho vua,
ta nhờ ngươi nói với vua điều này: Ta với vua vào thời Phật còn tại thế,
vốn là bạn thân với nhau, cùng tu tập Bát quan trai giới. Vua giữ giới
trọn vẹn, cầu làm vua thì nay được làm vua. Còn ta do không giữ giới
trọn vẹn, nên sinh vào loài rồng. Vì vậy, ta muốn thọ phép Bát quan trai
mà tu tập một lần nữa, cầu xả bỏ thân này. Ngươi hãy nói với vua tìm cho
ta một bản kinh văn để ta theo đó tu tập. Nếu không giúp ta, ta sẽ biến
cả nước của vua thành biển lớn.’
“Người làm vườn đến dâng quả cho vua, rồi trình bày lại những lời rồng
nói. Vua nghe việc ấy rồi thì trong lòng lo lắng, không vui. Bởi vì thời
ấy không có Phật ra đời, đến tên gọi còn chẳng ai biết đến, huống là tìm
được kinh văn? Mà nếu không tìm được, cả nước phải nguy hại. Nghĩ như
vậy rồi chẳng biết làm sao được.
“Bấy giờ, có một vị đại thần được vua kính trọng lắm. Vua sai triệu đến
bảo rằng: ‘Long thần nhờ ta tìm bản văn Bát quan trai. Nay khanh nên vì
ta sớm tìm cho được bản văn ấy.’ Đại thần đáp: ‘Thời nay không có pháp
Phật, làm sao tìm được kinh văn? Vua nói: ‘Nếu không tìm được, phải bắt
tội chết.’
“Đại thần nhận lệnh vua rồi, trong lòng lo âu, mặt mày biến sắc. Khi trở
về nhà bồn chồn lo lắng không yên. Người cha của ông là một vị kỳ lão đã
rất cao niên, nhìn thấy vậy thì đoán biết có chuyện nghiêm trọng, liền
hỏi: ‘Con có việc gì lo lắng lắm hay sao?’ Đại thần thuật chuyện vua
buộc phải tìm văn kinh Bát quan trai.
“Người cha liền nói: ‘Cha thường nhìn thấy cây cột nhà ta có ánh hào
quang tỏa ra. Nay con nên đập phá ra mà xem thử. Cha nghĩ là có vật lạ
trong đó.’
“Đại thần nghe lời cha, đập cây cột nhà, liền thấy trong đó có hai quyển
kinh. Một là văn kinh Thập nhị nhân duyên, hai là văn kinh Bát quan trai
giới.
“Đại thần mang văn kinh Bát quan trai dâng lên vua. Vua mừng rỡ liền
mang đưa cho long vương. Long vương được văn kinh rồi, vui mừng khôn
xiết, liền mang rất nhiều báu vật quý giá ở chốn thủy cung mà tặng cho
vua.
“Long vương trở về cùng với số rồng con, cộng cả thảy 500 người, đồng
thọ phép Bát quan trai. Chuyên cần tu tập, không một mảy may sai sót,
hủy phạm. Đến khi mạng chung, tất cả đều được sinh lên cảnh trời
Đao-lỵ.”
Phật bảo chư tỳ-kheo: “Này các tỳ-kheo! Năm trăm vị thiên tử đêm qua đến
cúng dường ta, chính là 500 con rồng ngày trước. Nhờ tinh cần tu tập Bát
quan trai giới nên được phước báo sinh lên cõi trời.”
Phật thuyết nhân duyên đôi bạn đồng tu Bát quan trai giới rồi, chư
tỳ-kheo trong chúng hội có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả
Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có
nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu
quả vô thượng Bồ-đề.
Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng
tin nhận.