Lúc ấy, Phật ở gần thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Vua nước
Câu-tát-la là Ba-tư-nặc và vua nước Ma-kiệt-đề là A-xà-thế đang đánh
nhau.
Khi ấy, cả hai vua đều có đủ bốn đoàn quân là: quân cưỡi voi, quân cưỡi
ngựa, quân dùng xe và quân đánh bộ. Vua Ba-tư-nặc ra quân thất bại, thua
to đến ba lần. Vua chạy trở về nước Câu-tát-la, vào trong thành nội lo
rầu phiền muộn, bỏ ăn mất ngủ, đêm ngày lo nghĩ.
Bấy giờ, tại thành Xá-vệ có một người trưởng giả giàu có, vàng bạc châu
báu nhiều không kể xiết. Nghe chuyện vua Ba-tư-nặc thất trận trở về
phiền muộn trong thành, liền đến tâu với vua rằng: “Tâu bệ hạ! Kẻ hèn
này sẵn có nhiều vàng bạc châu báu, xin dâng bệ hạ tùy nghi sử dụng. Có
thể lấy đó để tuyển mộ thêm binh lính, mua nhiều ngựa tốt, lại cùng với
nước kia giao chiến nữa mà dành phần thắng. Cớ gì mà bệ hạ phải buồn bực
như vậy?”
Vua Ba-tư-nặc liền nhận lời. Ông trưởng giả mang hết vàng bạc châu báu
dâng lên cho vua, vua lấy đó mà tuyển mộ rất đông quân binh, mua thêm
nhiều ngựa tốt. Lại cho người đi khắp nước mà cầu bậc mưu sĩ ra giúp.
Bấy giờ, có một vị tướng giỏi nghe lời hiệu triệu của vua mà đến giúp,
nhân đi qua cửa thành nghe có hai vị tướng sĩ cùng nhau luận bàn về binh
pháp. Một người nói rằng: “Phép dùng binh nên chọn những quân binh hùng
mạnh nhất cho đi trước, những quân binh bậc trung thì đi giữa, còn những
quân yếu nhất thì cho đi sau hết.” Vị tướng nghe rồi, khi đến chầu vua
liền thuật lại như vậy.
Vua Ba-tư-nặc nghe rồi liền tin theo lời ấy, họp đủ bốn đoàn binh kéo
tới đánh vua A-xà-thế, bố trí quân binh mạnh nhất đi đầu và quân binh
yếu nhất đi sau. Quả nhiên thắng được quân vua A-xà-thế, thu bắt được
rất nhiều voi ngựa, xe cộ, lại thừa thắng mà bắt sống cả vua A-xà-thế
nữa.
Vua Ba-tư-nặc dẫn vua A-xà-thế đến chỗ Phật. Tới nơi, vua lạy chào
Phật, bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Tôi với vua A-xà-thế thật không sanh
lòng oán ghét, song vua ấy tự sanh lòng thù nghịch với tôi mà gây cuộc
binh đao. Tuy vậy, vua cha của A-xà-thế ngày trước là bạn hữu của tôi,
nên nay tôi không muốn xuống tay hại mạng người. Ý tôi muốn thả cho vua
A-xà-thế về nước cũ.”
Khi ấy, đức Phật khen vua Ba-tư-nặc mà nói rằng: “Hay lắm, hay lắm. Đối
với chỗ người thân kẻ oán đều giữ lòng bình đẳng như nhau, chính là chỗ
các bậc thánh hiền đều khen ngợi.” Phật lại thuyết kệ rằng :
Bại thì sanh lo sợ,
Thắng nên lòng hân hoan.
Nay ngươi thả vua kia,
Đôi bên đều vui cả!
Nếu biết bỏ thắng bại,
Đó là vui lớn nhất.
Vua Ba-tư-nặc nghe Phật thuyết kệ rồi, liền vui vẻ thả vua A-xà-thế cho
về nước cũ.
Vua trở về cung, lòng tự nghĩ rằng: “Ta sở dĩ ngày nay được chiến thắng,
là nhờ có ông trưởng giả kia dâng lên trân bảo, vàng bạc để chiêu mộ
thêm tướng sĩ.” Nghĩ như vậy, liền tức thời cho mời vị trưởng giả đến,
bảo rằng: “Ta có được chiến thắng như ngày nay là nhờ có khanh dâng lên
tài vật, giúp chiêu mộ binh tướng. Nay ta muốn ban thưởng cho khanh thật
trọng hậu, vậy khanh muốn gì cứ nói ra.”
Trưởng giả tâu: “Xin đại vương xá tội cho, tôi mới dám nói.” Vua đáp:
“Khanh muốn gì cứ nói, ta sẽ lắng nghe, không bắt tội.” Trưởng giả tâu
rằng: “Tôi muốn được thay đại vương mà cầm quyền trị nước trong bảy
ngày.”
Vua liền hứa thuận cho, truyền đánh trống loan báo ra khắp nước, lập ông
trưởng giả lên làm vua trong bảy ngày.
Ông trưởng giả lên làm vua rồi, liền sai người đi đánh trống mà loan báo
khắp nơi trong thành rằng: “Trong hạn bảy ngày, tất cả nhân dân đều được
tự do, không bị bắt buộc phải làm bất cứ việc gì do quan viên sai
khiến.” Lại sai sứ đến nói với vua các nước nhỏ chư hầu rằng, trong hạn
bảy ngày, phải bãi bỏ hết mọi việc triều chính mà về kinh đô bái kiến
vua mới.
Khi các vua tề tựu về, ông liền thỉnh Phật và chư tăng đến để cúng dường
trọng thể, lại khuyến khích hết thảy các vua chư hầu cùng các vị quan
thuộc quy y Tam Bảo. Người người đều nghe lời khuyên của ông mà quy y
theo Phật, số nhiều không tính hết.
Ông trưởng giả làm xong những việc ấy, trải qua bảy ngày rồi, liền đến
chỗ Phật ngự, lễ bái cung kính và phát lời nguyện lớn rằng: “Nhờ công
đức cúng dường hôm nay, trong đời vị lai tôi nguyện sẽ có thể vì những
chúng sanh mù lòa mà cứu giúp cho được sáng mắt, vì những chúng sanh
chẳng quy y Phật mà độ cho quy y, những chúng sanh không người cứu hộ sẽ
được cứu hộ, những chúng sanh không được an ổn sẽ được an ổn, những
chúng sanh chưa nhập Niết-bàn sẽ được nhập Niết-bàn.”
Ông trưởng giả phát nguyện rồi, đức Phật liền mỉm cười, từ nơi trán,
giữa hai lông mày phóng ra một đạo hào quang năm sắc, bay quanh Phật ba
vòng rồi lại theo chỗ trên trán Phật mà bay trở vào.
Khi ấy, A-nan bạch Phật rằng: “Như Lai là đấng tôn quý, chẳng vô cớ mà
cười bao giờ. Nay vì nhân duyên gì mà Phật mỉm cười, xin giảng giải cho
được biết.”
Phật bảo A-nan: “Ngươi có thấy vị trưởng giả vừa làm vua bảy ngày đây
chăng?” A-nan thưa: “Bạch Thế Tôn, con đã thấy.”
Phật nói: “Vị đại trưởng giả đây nhờ công đức thỉnh Phật cúng dường,
trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp nữa sẽ thành Phật hiệu là Tối Thắng, hóa độ
chúng sanh nhiều vô số. Vì nhân duyên ấy mà ta mỉm cười.”
Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng
tin nhận.