Bài
10
Tôn giả
LA HẦU LA
(Rahula - Mật hạnh đệ nhất)
-ooOoo-
T ục
ngữ Việt Nam có câu: "Con vua thì được làm vua, con
sãi giữ chùa thì quét lá đa".
Câu tục ngữ, con vua
quan bao giờ cũng được che chở và tiếp tục chức tước,
còn dân thì cha truyền con nối cày sâu cuốc bẩm, còn mang
ý nghĩa nói lên tính huyết thống, di truyền mà ít ai nghĩ
đến từ ý nghĩa đó, tục ngữ Việt Nam còn có thêm một
câu tương tự: "Con nhà tông không giống lông, cũng giống
cánh". Tục ngữ pháp gọi là: "Cha như thế nào, con
như thế ấy" (Tel père, tel fils). Bởi thế, với xã hội,
chúng ta có thể thiết lập công bằng trên bình diện quyền
lợi vật chất, còn huyết thống di truyền thì khó có thể
san bằng được, nếu con người không chịu cấy giống, tạo
được khí hậu đồng đều giữa các miền. Dù không có
pháp chế chính thức, người Nhật đã âm thầm lai giống
cho nên ngày nay con người có tầm vóc cao, hết gọi là Nhật
lùn, ngoài vấn đề Nhật có một đời sống vật chất
cao, đầy đủ chất dinh dưỡng. Từ đó, thực tế cho thấy
vấn đề huyết thống, di truyền rất là quan trọng đối với
con người.
Ngày xưa, ở Ấn Ðộ,
Thái Tử Tất Ðạt Ða vốn sanh từ dòng Sát Ðế Lợi, được
thừa hưởng huyết thống thông minh, tài trí, lại nhờ bối
cảnh xã hội thúc đẩy, Thái tử Tất Ðạt Ða vượt trội
lên để trở thành Phật Thích Ca đấng Pháp vương vô thượng.
Về sau La Hầu La dù có nghịch ngợm hay đùa cợt, nhưng đã
nhờ sức tiếp huyết thống của Phật Thích Ca nên đã thẳng
bước tiến trên đường đạo nghiệp trở thành một đại
đệ tử Mật hạnh đệ nhất.
I- LA HẦU
LA THỜI NIÊN THIẾU
Là đích tôn của vua Tịnh
Phạn và là cháu ngoại của vua Thiện Giác, La Hầu La
(rahula) rất được cưng chiều, sống hạnh phúc trong thời
thơ ấu.
Lý do cũng rất dễ hiểu,
Thái Tử Tất Ðạt Ða đã không những chỉ bỏ lạc thú
mà còn khước từ luôn cả ngôi báu. Bởi thế trong tương
lai người kế vị vua Tịnh Phạn chắc chắn là La Hầu La.
Ðó cũng là lý do La Hầu La được trìu mến trong hoàng
cung.
Vả lại Da Du Ðà La
không còn được gần gũi Thái tử, cho nên niềm vui duy nhất
là gần gũi La Hầu La. Chú bé La Hầu La là hình ảnh của Tất
Ðạt Ða ghi lại. Ðó cũng là lý do Da Du Ðà La nuông chiều
La Hầu La.
Sau 3 năm thành đạo,
Phật mới trở vè Thành Ca Tỳ La Vệ thăm phụ vương, di mẫu,
Da Du Ðà La và La Hầu La. cả nhà vua đích thân và nhân dân
đi đón Phật, Da Du Ðà Là và La Hầu La không đi, chỉ lên
lầu ngó trông. Ngay khi về đến hoàng cung Da Du vẫn không
đến bái chào. La Hầu La lúc nào cũng bên mẹ, nên mãi chưa
được thấy phụ thân. Khi Phật, Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên đến cung của Da Du Ðà La, La Hầu La mới biết phụ
thân. Nhưng với trí thông minh sẵn có, dù chỉ 10 tuổi, La
Hầu La, liền nghĩ Phật chẳng còn là phụ thân riêng của
La Hầu La mà là một bậc đại tử phụ của tất cả chúng
sanh. Nhưng với tính thơ ngây, La Hầu La thường đòi được
ở chung với Phật. Mỗi khi gặp Phật, La Hầu La lại đòi
Phật cho gia tài. Một hôm, sau khi từ rừng Ni Câu Ðà vào
đến hoàng cung, Phật nói với Xá Lợi Phất:
- Cậu bé La Hầu La cứ
đòi xin ta gia tài, ta không cho thứ tài sản hạnh phúc mong
manh của cuộc đời, ta muốn cho cậu bé gia tài vô giá. Ta
lại không muốn La Hầu La thừa kế ngôi báu, chỉ muốn cậu
bé xuất gia cầu đạo giải thoát. Do đó, ta muốn Xá Lợi
Phất hướng dẫn La Hầu La xuất gia làm vị Sa Di đầu tiên
trong giáo đoàn.
Với huyết thống Phật
chủng sẵn có, vâng lời Xá Lợi Phất, La Hầu La tháp tùng
các công tôn theo Phật về Tinh Xá Trúc Lâm, tiến tu đạo
nghiệp, nối tiếp dòng Thánh, trở thành vị Mật hạnh đệ
nhất.
II- ÐẠO
NGHIỆP LA HẦU LA
1. Sa Di nghịch ngợm
Dù đã thọ Sa di, nhưng
còn trẻ, tuổi khoảng 15, La Hầu La chưa ý thức rõ nét tầm
quan trọng của con đường mới và cũng chưa đủ kiến thức
để lãnh hội chánh pháp. Trong tăng đoàn, La Hầu La giống
như một cái máy, các bậc trưởng thượng bảo sao nghe vậy,
chẳng biết trách nhiệm của một Sa Di phải làm những gì?
Khi Xá Lợi Phất nhận
thêm chú bé Quân Ðầu vào làm Sa Di, La Hầu La bắt đầu có
bạn và thường bày các trò chơi nghịch ngợm, dối gạt
người khác. Lúc ở rừng Ôn Tuyền, ngoài thành Vương Xá,
có nhiều quan quyền, trưởng giả, cư sĩ, đến hỏi nơi Phật
đang thuyết giáo để viếng thăm, La Hầu La thường trêu chọc
bằng cách chỉ không trúng chỗ. Nếu Phật ở Tinh Xá Trúc
Lâm, La Hầu La bảo ở Kỳ Xà Quật. Ngược lại, nếu Phật
ở Kỳ Xà Quật, La Hầu La chỉ ở Trúc Lâm. Hai nơi này
cách nhau đến những 5 dặm. Bị tréo cẳng ngổng, thiên hạ
chẳng thể nào gặp Phật. Có dịp dối gạt thiên hạ, La Hầu
La tỏ vẻ thích thú. Thiên hạ rất không bằng lòng cách
trêu chọc của La Hầu La. Nhưng La Hầu La vừa là Sa Di, vừa
là con Phật, vừa là thuộc dòng họ quyền quí, không ai
dám chỉ trích hoặc trách cứ. Chuyện nghịch ngợm dối gạt
để mua vui lâu ngày cũng đến tai Phật. Phật không vui
chút nào, vì đã là một Sa Di mà tập khí vương giả, tính
ý lại chưa tẩy trừ được, Phật đích thân đến vườn
Ôn Tuyền khiển trách La Hầu La.
2. Phật răn dạy La Hầu La
Khi nghe tin Phật đến,
La Hầu La vội vàng ra nghinh đón. Thấy Phật rất oai
nghiêm, từ xa mới đến, La Hầu La đem nước đến để Phật
rửa chân. Rửa xong, Phật chỉ nước trong chậu, hỏi La Hầu
La:
- Này La Hầu La! Nước
này có thể uống được không?
- Bạch Thế Tôn! Không
thể uống.
- Tại sao?
- Vì nước đã ô uế.
- Này La Hầu La! Ông cũng
giống như thứ nước đó. Thời gian xuất gia làm Sa Di khá
dài, gần 10 năm, nhưng với lề thói xấu xa, ông chưa dứt
được. Nước ô uế không uống được, thâm tâm những người
còn ô uế các tập khí có khác gì đâu? Hình thức xuất
gia mà thân, khẩu, ý còn trần tục tất không thể thăng
hoa. Người rời bỏ thế tục phải giữ lòng thanh tịnh,
hành vi cử chỉ nhẹ nhàng, nói phô ngọt ngào, lựa lời
mà nói. Xuất gia mà không trừ bỏ ba độc uế, chẳng khác
gì nước dơ. Nước không sạch người ta sẽ đem đổ. Con
người mang nhiều tật xấu ắt sẽ sa đọa, tương lai đen
tối.
Nói xong, Phật bảo La
Hầu La mang chậu đi đổ nước dơ rồi mang chậu về. Khi
trở lại, Phật hỏi:
- Này La Hầu La! Chậu
này có đựng thức ăn được không?
- Thưa không.
- Tại sao?
- Vì vết dơ bám đầy
chậu.
- Này La Hầu La! Chậu
dơ không đựng thức ăn được, thân dơ cũng thế thôi.
Ông chỉ là một hình đồng Sa Di mà thân, khẩu, ý không đồng,
không tu tập giới, định, tuệ, tâm không trong sạch, lời
nói bông đùa nghịch ngợm, thân dính đầy cấu uế, mất hết
oai nghi, như thế, khác gì nước uế, chậu dơ. Chậu dùng
không được thì giữ lại làm gì?
Nói vừa dứt lời, Phật
lấy chân đá nhẹ vào chậu, khiến chậu vở đôi, lại hỏi
tiếp:
- Này La Hầu La! Người
có tiếc cái chậu không?
- Thưa không.
- Tại sao?
- Vì chậu dơ, có gì
phải tiếc!
- Này La Hầu La! Vì chậu
dơ người không tiếc khi nó vỡ. Giống như mọi người không
thương kính ngươi, vì ông còn nhiều lầm lỗi, kể cả việc
nói để mà chơi. Mang danh xuất gia, ăn nói không được thật
thà, oai nghi thiếu chửng chực, phỉnh gạt người khác, ai
mà thương mến ngươi được?
Nói xong, Phật còn đem
chuyện xưa để răn dạy thêm. Xưa kia có một ông vua, chuẩn
bị đầy đủ cho con voi lâm trận, mình mặc áo giáp, ngà nối
tên nhọn, túi giắt kiếm báu... Khi lâm trận, voi sử dụng
đủ các bộ phận của cơ thể, như hai chân trước, hai chân
sau, đầu, tai, ngà, đuôi. Nhưng không dùng cái vòi, luôn
luôn co lại, giấu kín. Nếu không bảo vệ cái vòi, thì bị
tên bắn, liền bị toi mạng. Phật khuyên La Hầu La cần cẩn
thận lời nói, giống như con voi bảo vệ cái vòi. Mở miệng
nói dối, dù nói chơi, huệ mạng của người sẽ mất. Con
voi ra trận mà không biết bảo vệ cái vòi thì chẳng còn
biết sợ gì hết. Con người không cẩn thận, cân nhắc lời
nói để cứ nói lừa, nói láo, nói dối sẽ không có tàm
quí và không cứ một việc xấu xa nào mà không làm. Bởi
thế, con người hãy rán giữ miệng, giữ mồm.
Nghe răn dạy, La Hầu La tỉnh ngộ, phát nguyện
sửa đổi oai nghi, bỏ lời dối gạt, âm thầm vắng vẻ,
tu luyện Mật hạnh.
3. Tu hạnh nhẫn nhục
Tuy La Hầu La đã phát
nguyện giữ gìn giới luật, cẩn thận lời nói, tiến tu Mật
hạnh, Phật vẫn bảo Xá Lợi Phất luôn luôn kềm chế La Hầu
La bằng những công tác hằng ngày. Theo lời Phật, Xá Lợi
Phất giao việc quét dọn sân vườn cho La Hầu La. Một hôm
sau khi thực hiện xong công tác hằng ngày. La Hầu La vẫn
vào giảng đường nghe Phật thuyết pháp. Mãi đến tối mới
trở về phòng, La Hầu La thấy một khách tăng đã dọn y
bát của La Hầu La ra ngoài và chiếm phòng nằm ngủ, theo sự
hướng dẫn của vị quản lý. Vì đã nguyện kín tiếng lặng
hơi, theo pháp Mật hạnh, La Hầu La đành ôm y bát ra sân ngồi.
Thình lình trời đỗ mưa xối xả, La Hầu La lại ôm y bát
vào nhà xí. Cũng vì trời mưa, nước ngập hang, một con rắn
tìm nơi tránh nạn, bò vô nhà xí. Vì trời tối, La Hầu La
ngồi bất động không thấy rắn. Ngược lại, rắn trong
cơn nước ngập, bò kiếm chỗ khô ráo nên cũng không biết
có người trong nhà xí. Ngay tối hôm đó, có người báo cho
Phật hay La Hầu La bị một khách tăng chiếm phòng và có thể
La Hầu La ẩn mưa trong nhà xí. Phật liền đi tìm La Hầu
La. Khi rọi đèn vào nhà xí, Phật thấy La Hầu La ngồi bó
gối ở một góc, con rắn khoanh tròn ở một góc. Vì có
ánh sáng, rắn nằm bất động, còn La Hầu La được Phật
gọi ra và dẫn vào Tinh Xá. Sáng hôm sau, Phật tập hợp tăng
đoàn, ban hành qui chế, Sa Di có thể ở chung phòng với tỳ
kheo.
Từ đó, La Hầu La được
ở chung phòng với Xá Lợi Phất, hai thầy trò sát cánh
nhau. Một hôm, hai thầy trò đi khất thực. Vì kính Tỳ kheo
hơn Sa Di, các đàn việt đem vật ngon cúng cho Tỳ kheo, cò
Sa Di La Hầu La nhận những vật thực ít chất dinh dưỡng,
như xác mè, rau đậu... Tuy đã phát nguyện nhẫn nhịn, tịnh
hóa thân tâm, các tập khí bị dồn nén lâu ngày, giờ có
thời cơ trỗi dậy. Với ý nghĩ tuổi đang lớn, cần được
dinh dưỡng khi khất thực về với vẻ mặt La Hầu La lộ nét
u buồn. Phật hỏi lý do La Hầu La trình lại sự cố. Phật
dạy La Hầu La nên kính lão, vả lại đi tu đâu có cần miếng
ăn, ăn để sống chứ đâu phải sống để ăn. Bởi thế,
Phật khuyên La Hầu La nên chú trọng đến hạnh tu, không
nên quá quan tâm đến ăn uống. Thức ăn chỉ là thuốc trị
bệnh đói. Tuy nhiên, Phật cũng bảo Xá Lợi Phất nên chăm
sóc đến sức khỏe của tuổi trẻ bằng cách lưu tâm đến
sự ăn uống cho đủ chất dinh dưỡng.
Một hôm khác, hai thầy
trò vào thành Vương Xá khất thực. Trên đường đi, chẳng
may hai thầy trò gặp một chàng du đảng. Hắn ta chặn đường,
văng tục, lấy cát bỏ vào bình bát của Xá Lợi Phất và
vác gậy đánh La Hầu La túi bụi rồi bỏ đi. Vì sức yếu
La Hầu La không chống trả nổi, đầu bị chảy máu. Lại cũng
do tập khí bị dồn nén, chưa dứt sạch, mặt La Hầu La tức
giận bừng bừng và ôm đầu khóc thê thảm. Xá Lợi Phất
từ tốn khuyến giáo.
- Này La Hầu La! Tuổi
đã 18, 19 sắp được thọ cụ túc giới rồi, còn là đ? tử
Phật, ngươi hãy quyết tâm nhổ sạch tập khí 3 độc, bằng
Mật hạnh nhẫn nhục cao độ. Kẻ hành giả không nên oán
cừu thù hận, hãy đem đức tính từ bi thương yêu tất cả
chúng sanh, ở đời, khen chê, vinh nhục là điều không đáng
cho người tu hành lưu tâm. Theo Phật, điều đáng cho hành
giả ghi nhớ là ở thế gian, sức mạnh của nhẫn nhục có
thể thắng tất cả sức mạnh khác, dù lớn lao đến đâu.
Vừa khuyên giải, Xá Lợi
Phất vừa băng bó vết thương cho La Hầu La. Khi về đến
Tinh Xá, Xá Lợi Phất trình tâu Phật sự tình vừa mới xảy
ra trong buổi sáng, trên đường hai thầy trò đi khất thực.
Phật xoay về phía La Hầu La ôn tồn dạy:
- Này La Hầu La! Nhẫn
nhục là hạnh vô cùng cao quý. Muốn thấy Phật, thuận
pháp, gần tăng. Ông hãy tu hạnh nhẫn nhục. Người biết
nhẫn nhục tâm hồn sẽ thư thái, an ổn, diệt trừ được
cái tai họa, trí tuệ phát sinh, trí tuệ là kiếm báu chặt
đứt gốc rễ vô minh, tham ái, ngã chấp. Người có trí tuệ,
dù có chung đụng với thế lực vẫn khôg bị ô nhiễm. Nhẫn
nhục là điều kiện làm tăng thượng duyên, tuyên dương chánh
pháp, là tư lương để sớm được giải thoát sinh tử
luân hồi.
Ðể khai thị thêm,
giúp La Hầu La có đủ điều kiện tiến tu và chứng thánh,
ngưng giây lát, Phật lại khuyến hóa tiếp:
- Này La Hầu La! Ðể nối
tiếp dòng Thánh không phụ các ân ngươi hãy nhìn thẳng
vào thực tại của muôn vật. Ngươi hãy nhìn thẳng vào thực
tại của muôn vật. Ngươi có thấy vật nào đứng yên
không? Tất cả năng động trong sinh diệt, diệt sinh. Ngươi
cần đem trí tuệ soi suốt tính vô thường, vô ngã vạn vật,
kể cả thân tâm của ông, có suốt rõ như thế, tâm mới
không chấp trước, dính mắc vào bất cứ một thứ gì, để
tu niệm, giữ 8 vạn oai nghi và ba ngàn tế hạnh, hầu sớm
được giải thoát. Trong ngươi, có huyết thống cao quý cho
nên ngươi không thể trì trệ trên con đường triển khai Phật
chủng.
Nghe Phật cảnh tỉnh,
choáng váng đầu óc, La Hầu La dành mọi thời gian, chuyên
tâm tu luyện oai nghi, tế hạnh. Cuối cùng La Hầu La trở
thành bậc có Mật hạnh đệ nhất được Phật khen ngợi và
khuyên trang trãi tâm từ đồng thể khắp mọi loài đưa chúng
sinh qua bờ giải thoát.
4. Tiếp nhận Tinh Xá
Tuổi còn trẻ, ít tham
gia sinh hoạt của tăng đoàn, chỉ vâng lời Phật, chuyên tu
oai nghi tế hạnh, lúc 20 tuổi, La Hầu La chứng Thánh và
được nhiều kính trọng. Vì thế La Hầu La được tín
chúng cúng dường nhiều nhất.
Một hôm, Phật ở Ca Tỳ
La Vệ thuyết pháp, có một trưởng giả đến xin quy y Phật,
nhưng lại rất hữu duyên với La Hầu La. Sau ngày quy y vì
cùng một quê hương Ca Tỳ La Vệ, ông trưởng giả cúng dường
cho La Hầu La đủ các thứ cần dùng. Sẵn có tài sản, ông
trưởng giả xây cất một tinh xá, dâng cúng cho La Hầu La.
Tinh xá khang trang, rộng rãi nên La Hầu La dọn về thường
trú ở đó. Trên đường đi bố giáo, các Tỳ kheo cũng thường
ghé lại tinh xá của La Hầu La. Vì thế, Tinh Xá lúc nào cũng
đông khách ra vào. Vì nghĩ Tinh Xá do mình cúng nên mình có
trách nhiệm quản lý, ông trưởng giả rất siêng năng lui tới
tinh xá bàn bạc với La Hầu La việc này, việc nọ. Ðôi
lúc ông còn lấn cả quyền hạn trụ trì của La Hầu La.
Vì ngại mất hạnh nhẫn nhục và mất lịch sự. La Hầu La
luôn niềm nở với trưởng giả, dù thực sự lòng không
được vui. Vì chưa nghe Phật chế giới tiếp nhận và quản
lý Tinh Xá thế nào trong dịp trở về Trúc Lâm, La Hầu La
thỉnh Phật ý kiến. Phật dạy rằng:
- Trong giáo pháp của
ta việc của tăng đoàn, hàng tín chúng không được can dự
vào. Phòng ốc, tinh xá của Tăng đoàn cư sĩ Phật tử không
có quyền quản lý. Dù bất cứ việc gì, kể cả Tinh Xá
sau khi đã dâng cúng, quyền sở hữu thuộc về chư tăng. Do
đó, Tinh Xá không phải là một khách sạn, người bỏ tiền
xây cất có quyền cho ai vào ở thì cứ tự tiện.
Nghe Phật giải thích
rõ ràng, La Hầu La về trình bày với ông trưởng giả. Ðã
không thông hiểu Phật pháp lại ỷ đã bỏ tài sản ra xây
dựng, đương nhiên ông có quyền quản lý. Do đó, trước kính
trọng cúng dường cho La Hầu La bao nhiêu, bây giờ ông trưởng
giả lại oán thù La Hầu La bấy nhiêu, xem La Hầu La là người
chiếm đoạt tài sản.
Một hôm, La Hầu La có
việc phải vào thành Xá Vệ, đúng lúc ông trưởng giả viếng
thăm tinh xá. Vì tâm bất bằng có sẵn, lại thấy Tinh Xá vắng
vẻ, ông trưởng giả vội vàng đem tinh xá cúng dường cho
một Tỳ kheo khác. Khi xong việc trở về, thấy tinh xá có
người đến ở, giống như lúc bị chiếm phòng hồi còn Sa
Di ngây thơ. Với tâm không vụ lợi tranh chấp, xả bỏ tất
cả, La Hầu La ôm y bát trở về tinh xá Kỳ Hoàn xin phòng
ở. thấy lạ, Phật hỏi lý do, La Hầu La trình bày với Phật,
Tinh Xá đã bị ông trưởng giả thu hồi và đem cúng dường
cho một Tỳ kheo khác. Phật nghĩ, người không hiểu Phật
pháp mà đem đi làm Phật sự, thật là một điều khó. Phật
triệu tập tăng đoàn và dạy:
- Những vật đã đem bố
thí cho người, tín thí đem tặng lại cho các ông, các ông
không được tiếp nhận. Nói thế không phải ta thiên vị,
bênh vực quyền lợi cho La Hầu La. Phép tắc trong giáo đoàn
phải được qui định rõ ràng để tránh các rắc rối về
sau.
Ðúng là vị có Mật hạnh,
dù bị chiếm phòng ốc hay Tinh Xá đang ở, La Hầu La không
có tâm tranh chấp, đố kỵ, tỏ bày thái độ bất bình.
III- LA
HẦU LA NIẾT BÀN
Về sự đản sinh và
Niết Bàn của La Hầu La có hai truyền thuyết: Một thuyết
cho rằng năm 19 tuổi Thái Tử Tất Ðạt Ða sinh La Hầu La.
Một thuyết khác cho rằng: Năm Thái Tử Tất Ðạt Ða 25 tuổi,
La Hầu La ra đời.
Về năm Niết Bàn của
La Hầu La cũng có hai truyền thuyết. Một thuyết nói La Hầu
La Niết Bàn trước Phật vài năm. Thuyết khác ghi: Khi Phật
Niết Bàn La Hầu La còn quỳ bên Phật.
Theo truyền ký, bà Da
Du Ðà La cùng tuổi với Phật, nhưng Niết Bàn năm 78 tuổi
như thế là trước Phật 2 năm. Còn La Hầu La Niết Bàn
không quá 50 tuổi, trước cả Phật và Da Du Ðà La.
IV. NHẬN
THỨC VÀ KẾT LUẬN
Trong hàng Thánh chúng,
La Hầu La là vị tu chứng trẻ nhất, lúc mới 20 tuổi.
Ðúng là mê nhất kiếp ngộ nhất thời, vừa vâng lời Phật
bỏ tính ham chơi của tuổi trẻ, tu chẳng bao lâu La Hầu La
liền chứng Thánh vị. Lúc còn là chú tiểu và cả lúc đã
thọ Sa Di, La Hầu La biểu thị tính hồn nhiên, thơ ngây,
nghịch ngợm... của thế hệ tuổi trẻ ngày xưa. Nếu đem
so với thế hệ tuổi trẻ ngày nay, chúng ta thấy vào cuối
thế kỷ 20 này, trẻ con khôn lanh thiệt sớm, chúng không
còn cái ngây thơ hồn nhiên như thế hệ tuổi trẻ của cha
anh. Chúng ta không nên méo mó, phải thẳng thắn thừa nhận
rằng, trong hiện tại, con em chúng ta đang thiếu hướng dẫn.
Nạn phá phách, xì ke, ma túy nghiện ngập đang lan tàn trong
giới trẻ. Gia đình, học đường cần tìm biện pháp chấn
chỉnh, đưa tuổi trẻ vào nề nếp. Chúng ta không thể ham
lo đời sống kinh tế rồi bỏ quên tuổi trẻ, thế hệ mau
sau của Tổ quốc. Do đó với người lớn của chúng ta hãy
noi gương Ðức Phật và Xá Lợi Phất đi sâu sát rèn luyện
tuổi trẻ sớm nên người tốt trong xã hội.
Trên đây là nói về mặt
chung của xã hội, còn mặt riêng trong giới Tăng Ni trẻ, chúng
ta phải noi gương La Hầu La về mặt giới đức tu trì.
Trong tuổi trẻ, La Hầu La có đùa nghịch nhưng là đứa trẻ
nghịch hồn nhiên, trong trắng, không bê tha ô nhiễm... Bởi
thế sau khi nghe giáo huấn của Phật và Xá Lợi Phất, La Hầu
La đã dễ dàng loại trừ những trò chơi trêu chọc nghịch
ngợm và gia công trau dồi oai nghi, tế hạnh, để chứng Thánh
quả. Các Tăng Ni trẻ nên khép mình trong khuôn khổ nhà
chùa, tâm thường bất túc, tu trì, giới định, tuệ để
trở thành một tăng sĩ thật tài, có đức, hữu ích cho
giáo hội, cho dân tộc. Có học, có tu, có thực tài, có đức
hạnh, vị thể của chúng ta trong giáo đoàn và ngoài xã hội,
mới vững, mới lâu dài. Người xưa có nói: "Hữu hoạn
bất tài, hà hoạn vô vị". (Chỉ sợ không tài, lo gì
không có địa vị). Ðối với cuộc đời, người có tài
đức, nếu vì một lý do nào đó không thành công thì cũng
thành nhân". Riêng tu sĩ vấn đề tiến tu đạo nghiệp
là chính.
La Hầu La nhờ âm thầm
bỏ công rèn luyện oai nghi tế hạnh nên đã trở thành vị
Mật hạnh đệ nhất ngay lúc còn trẻ. Trong công tác của
giáo đoàn, dù không có những hoạt động sôi nổi như Xá
Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên... nhưng
đã chứng Thánh, có Mật hạnh đệ nhất,La Hầu La đã có
vị thế lâu dài trong hàng Thánh chúng, 10 đại đệ tử của
Phật.
* * *
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Thời niên thiếu
La Hầu La như thế nào?
2. Lúc mới trở
thành Sa di. La Hầu La như thế nào?
3. Phật răn dạy La Hầu
La những gì?
4. Vì tu hạnh nhẫn
nhục, La Hầu La đã chịu những thua thiệt gì?
5. Phật chế giới
cho phép sa di được ở chung phòng với Tỳ kheo trong trường
hợp nào?
6. Về vũ trụ, nhân
sinh, Phật dạy La Hầu La phải có cái nhìn như thế nào?
7. Phật dạy hàng Tỳ
kheo khi tiếp nhận tài sản phải như thế nào?
8. Trong trường hợp
nào, Phật dạy các Tỳ kheo cách tiếp nhận tài sản?
9. Các truyền thuyết
ghi chép vấn đề La Hầu La niết bàn như thế nào?
10. Ở hiện tại và
mai sau Phật, Xá Lợi Phất và La Hầu La nêu gương gì cho
bậc làm cha mẹ, sư trưởng và thế hệ trẻ trong xã hội,
trong Tăng Ni trẻ?
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.01
| 1.02 | 1.03 | 1.04
| 1.05 | 1.06 | 1.07
| 1.08 |
| 2.01 | 2.02 | 2.03
| 2.04 | 2.05 | 2.06
| 2.07 | 2.08 | 2.09
| 2.10 | 3 | Mục lục |