BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font


Phật và Thánh chúng
Thích Minh Tuệ
Sài Gòn, 1990


Bài 10

Tôn giả LA HẦU LA
(Rahula - Mật hạnh đệ nhất)

-ooOoo-

Tục ngữ Việt Nam có câu: "Con vua thì được làm vua, con sãi giữ chùa thì quét lá đa".

Câu tục ngữ, con vua quan bao giờ cũng được che chở và tiếp tục chức tước, còn dân thì cha truyền con nối cày sâu cuốc bẩm, còn mang ý nghĩa nói lên tính huyết thống, di truyền mà ít ai nghĩ đến từ ý nghĩa đó, tục ngữ Việt Nam còn có thêm một câu tương tự: "Con nhà tông không giống lông, cũng giống cánh". Tục ngữ pháp gọi là: "Cha như thế nào, con như thế ấy" (Tel père, tel fils). Bởi thế, với xã hội, chúng ta có thể thiết lập công bằng trên bình diện quyền lợi vật chất, còn huyết thống di truyền thì khó có thể san bằng được, nếu con người không chịu cấy giống, tạo được khí hậu đồng đều giữa các miền. Dù không có pháp chế chính thức, người Nhật đã âm thầm lai giống cho nên ngày nay con người có tầm vóc cao, hết gọi là Nhật lùn, ngoài vấn đề Nhật có một đời sống vật chất cao, đầy đủ chất dinh dưỡng. Từ đó, thực tế cho thấy vấn đề huyết thống, di truyền rất là quan trọng đối với con người.

Ngày xưa, ở Ấn Ðộ, Thái Tử Tất Ðạt Ða vốn sanh từ dòng Sát Ðế Lợi, được thừa hưởng huyết thống thông minh, tài trí, lại nhờ bối cảnh xã hội thúc đẩy, Thái tử Tất Ðạt Ða vượt trội lên để trở thành Phật Thích Ca đấng Pháp vương vô thượng. Về sau La Hầu La dù có nghịch ngợm hay đùa cợt, nhưng đã nhờ sức tiếp huyết thống của Phật Thích Ca nên đã thẳng bước tiến trên đường đạo nghiệp trở thành một đại đệ tử Mật hạnh đệ nhất.

I- LA HẦU LA THỜI NIÊN THIẾU

Là đích tôn của vua Tịnh Phạn và là cháu ngoại của vua Thiện Giác, La Hầu La (rahula) rất được cưng chiều, sống hạnh phúc trong thời thơ ấu.

Lý do cũng rất dễ hiểu, Thái Tử Tất Ðạt Ða đã không những chỉ bỏ lạc thú mà còn khước từ luôn cả ngôi báu. Bởi thế trong tương lai người kế vị vua Tịnh Phạn chắc chắn là La Hầu La. Ðó cũng là lý do La Hầu La được trìu mến trong hoàng cung.

Vả lại Da Du Ðà La không còn được gần gũi Thái tử, cho nên niềm vui duy nhất là gần gũi La Hầu La. Chú bé La Hầu La là hình ảnh của Tất Ðạt Ða ghi lại. Ðó cũng là lý do Da Du Ðà La nuông chiều La Hầu La.

Sau 3 năm thành đạo, Phật mới trở vè Thành Ca Tỳ La Vệ thăm phụ vương, di mẫu, Da Du Ðà La và La Hầu La. cả nhà vua đích thân và nhân dân đi đón Phật, Da Du Ðà Là và La Hầu La không đi, chỉ lên lầu ngó trông. Ngay khi về đến hoàng cung Da Du vẫn không đến bái chào. La Hầu La lúc nào cũng bên mẹ, nên mãi chưa được thấy phụ thân. Khi Phật, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đến cung của Da Du Ðà La, La Hầu La mới biết phụ thân. Nhưng với trí thông minh sẵn có, dù chỉ 10 tuổi, La Hầu La, liền nghĩ Phật chẳng còn là phụ thân riêng của La Hầu La mà là một bậc đại tử phụ của tất cả chúng sanh. Nhưng với tính thơ ngây, La Hầu La thường đòi được ở chung với Phật. Mỗi khi gặp Phật, La Hầu La lại đòi Phật cho gia tài. Một hôm, sau khi từ rừng Ni Câu Ðà vào đến hoàng cung, Phật nói với Xá Lợi Phất:

- Cậu bé La Hầu La cứ đòi xin ta gia tài, ta không cho thứ tài sản hạnh phúc mong manh của cuộc đời, ta muốn cho cậu bé gia tài vô giá. Ta lại không muốn La Hầu La thừa kế ngôi báu, chỉ muốn cậu bé xuất gia cầu đạo giải thoát. Do đó, ta muốn Xá Lợi Phất hướng dẫn La Hầu La xuất gia làm vị Sa Di đầu tiên trong giáo đoàn.

Với huyết thống Phật chủng sẵn có, vâng lời Xá Lợi Phất, La Hầu La tháp tùng các công tôn theo Phật về Tinh Xá Trúc Lâm, tiến tu đạo nghiệp, nối tiếp dòng Thánh, trở thành vị Mật hạnh đệ nhất.

II- ÐẠO NGHIỆP LA HẦU LA

1. Sa Di nghịch ngợm

Dù đã thọ Sa di, nhưng còn trẻ, tuổi khoảng 15, La Hầu La chưa ý thức rõ nét tầm quan trọng của con đường mới và cũng chưa đủ kiến thức để lãnh hội chánh pháp. Trong tăng đoàn, La Hầu La giống như một cái máy, các bậc trưởng thượng bảo sao nghe vậy, chẳng biết trách nhiệm của một Sa Di phải làm những gì?

Khi Xá Lợi Phất nhận thêm chú bé Quân Ðầu vào làm Sa Di, La Hầu La bắt đầu có bạn và thường bày các trò chơi nghịch ngợm, dối gạt người khác. Lúc ở rừng Ôn Tuyền, ngoài thành Vương Xá, có nhiều quan quyền, trưởng giả, cư sĩ, đến hỏi nơi Phật đang thuyết giáo để viếng thăm, La Hầu La thường trêu chọc bằng cách chỉ không trúng chỗ. Nếu Phật ở Tinh Xá Trúc Lâm, La Hầu La bảo ở Kỳ Xà Quật. Ngược lại, nếu Phật ở Kỳ Xà Quật, La Hầu La chỉ ở Trúc Lâm. Hai nơi này cách nhau đến những 5 dặm. Bị tréo cẳng ngổng, thiên hạ chẳng thể nào gặp Phật. Có dịp dối gạt thiên hạ, La Hầu La tỏ vẻ thích thú. Thiên hạ rất không bằng lòng cách trêu chọc của La Hầu La. Nhưng La Hầu La vừa là Sa Di, vừa là con Phật, vừa là thuộc dòng họ quyền quí, không ai dám chỉ trích hoặc trách cứ. Chuyện nghịch ngợm dối gạt để mua vui lâu ngày cũng đến tai Phật. Phật không vui chút nào, vì đã là một Sa Di mà tập khí vương giả, tính ý lại chưa tẩy trừ được, Phật đích thân đến vườn Ôn Tuyền khiển trách La Hầu La.

2. Phật răn dạy La Hầu La

Khi nghe tin Phật đến, La Hầu La vội vàng ra nghinh đón. Thấy Phật rất oai nghiêm, từ xa mới đến, La Hầu La đem nước đến để Phật rửa chân. Rửa xong, Phật chỉ nước trong chậu, hỏi La Hầu La:

- Này La Hầu La! Nước này có thể uống được không?

- Bạch Thế Tôn! Không thể uống.

- Tại sao?

- Vì nước đã ô uế.

- Này La Hầu La! Ông cũng giống như thứ nước đó. Thời gian xuất gia làm Sa Di khá dài, gần 10 năm, nhưng với lề thói xấu xa, ông chưa dứt được. Nước ô uế không uống được, thâm tâm những người còn ô uế các tập khí có khác gì đâu? Hình thức xuất gia mà thân, khẩu, ý còn trần tục tất không thể thăng hoa. Người rời bỏ thế tục phải giữ lòng thanh tịnh, hành vi cử chỉ nhẹ nhàng, nói phô ngọt ngào, lựa lời mà nói. Xuất gia mà không trừ bỏ ba độc uế, chẳng khác gì nước dơ. Nước không sạch người ta sẽ đem đổ. Con người mang nhiều tật xấu ắt sẽ sa đọa, tương lai đen tối.

Nói xong, Phật bảo La Hầu La mang chậu đi đổ nước dơ rồi mang chậu về. Khi trở lại, Phật hỏi:

- Này La Hầu La! Chậu này có đựng thức ăn được không?

- Thưa không.

- Tại sao?

- Vì vết dơ bám đầy chậu.

- Này La Hầu La! Chậu dơ không đựng thức ăn được, thân dơ cũng thế thôi. Ông chỉ là một hình đồng Sa Di mà thân, khẩu, ý không đồng, không tu tập giới, định, tuệ, tâm không trong sạch, lời nói bông đùa nghịch ngợm, thân dính đầy cấu uế, mất hết oai nghi, như thế, khác gì nước uế, chậu dơ. Chậu dùng không được thì giữ lại làm gì?

Nói vừa dứt lời, Phật lấy chân đá nhẹ vào chậu, khiến chậu vở đôi, lại hỏi tiếp:

- Này La Hầu La! Người có tiếc cái chậu không?

- Thưa không.

- Tại sao?

- Vì chậu dơ, có gì phải tiếc!

- Này La Hầu La! Vì chậu dơ người không tiếc khi nó vỡ. Giống như mọi người không thương kính ngươi, vì ông còn nhiều lầm lỗi, kể cả việc nói để mà chơi. Mang danh xuất gia, ăn nói không được thật thà, oai nghi thiếu chửng chực, phỉnh gạt người khác, ai mà thương mến ngươi được?

Nói xong, Phật còn đem chuyện xưa để răn dạy thêm. Xưa kia có một ông vua, chuẩn bị đầy đủ cho con voi lâm trận, mình mặc áo giáp, ngà nối tên nhọn, túi giắt kiếm báu... Khi lâm trận, voi sử dụng đủ các bộ phận của cơ thể, như hai chân trước, hai chân sau, đầu, tai, ngà, đuôi. Nhưng không dùng cái vòi, luôn luôn co lại, giấu kín. Nếu không bảo vệ cái vòi, thì bị tên bắn, liền bị toi mạng. Phật khuyên La Hầu La cần cẩn thận lời nói, giống như con voi bảo vệ cái vòi. Mở miệng nói dối, dù nói chơi, huệ mạng của người sẽ mất. Con voi ra trận mà không biết bảo vệ cái vòi thì chẳng còn biết sợ gì hết. Con người không cẩn thận, cân nhắc lời nói để cứ nói lừa, nói láo, nói dối sẽ không có tàm quí và không cứ một việc xấu xa nào mà không làm. Bởi thế, con người hãy rán giữ miệng, giữ mồm.

Nghe răn dạy, La Hầu La tỉnh ngộ, phát nguyện sửa đổi oai nghi, bỏ lời dối gạt, âm thầm vắng vẻ, tu luyện Mật hạnh.

3. Tu hạnh nhẫn nhục

Tuy La Hầu La đã phát nguyện giữ gìn giới luật, cẩn thận lời nói, tiến tu Mật hạnh, Phật vẫn bảo Xá Lợi Phất luôn luôn kềm chế La Hầu La bằng những công tác hằng ngày. Theo lời Phật, Xá Lợi Phất giao việc quét dọn sân vườn cho La Hầu La. Một hôm sau khi thực hiện xong công tác hằng ngày. La Hầu La vẫn vào giảng đường nghe Phật thuyết pháp. Mãi đến tối mới trở về phòng, La Hầu La thấy một khách tăng đã dọn y bát của La Hầu La ra ngoài và chiếm phòng nằm ngủ, theo sự hướng dẫn của vị quản lý. Vì đã nguyện kín tiếng lặng hơi, theo pháp Mật hạnh, La Hầu La đành ôm y bát ra sân ngồi. Thình lình trời đỗ mưa xối xả, La Hầu La lại ôm y bát vào nhà xí. Cũng vì trời mưa, nước ngập hang, một con rắn tìm nơi tránh nạn, bò vô nhà xí. Vì trời tối, La Hầu La ngồi bất động không thấy rắn. Ngược lại, rắn trong cơn nước ngập, bò kiếm chỗ khô ráo nên cũng không biết có người trong nhà xí. Ngay tối hôm đó, có người báo cho Phật hay La Hầu La bị một khách tăng chiếm phòng và có thể La Hầu La ẩn mưa trong nhà xí. Phật liền đi tìm La Hầu La. Khi rọi đèn vào nhà xí, Phật thấy La Hầu La ngồi bó gối ở một góc, con rắn khoanh tròn ở một góc. Vì có ánh sáng, rắn nằm bất động, còn La Hầu La được Phật gọi ra và dẫn vào Tinh Xá. Sáng hôm sau, Phật tập hợp tăng đoàn, ban hành qui chế, Sa Di có thể ở chung phòng với tỳ kheo.

Từ đó, La Hầu La được ở chung phòng với Xá Lợi Phất, hai thầy trò sát cánh nhau. Một hôm, hai thầy trò đi khất thực. Vì kính Tỳ kheo hơn Sa Di, các đàn việt đem vật ngon cúng cho Tỳ kheo, cò Sa Di La Hầu La nhận những vật thực ít chất dinh dưỡng, như xác mè, rau đậu... Tuy đã phát nguyện nhẫn nhịn, tịnh hóa thân tâm, các tập khí bị dồn nén lâu ngày, giờ có thời cơ trỗi dậy. Với ý nghĩ tuổi đang lớn, cần được dinh dưỡng khi khất thực về với vẻ mặt La Hầu La lộ nét u buồn. Phật hỏi lý do La Hầu La trình lại sự cố. Phật dạy La Hầu La nên kính lão, vả lại đi tu đâu có cần miếng ăn, ăn để sống chứ đâu phải sống để ăn. Bởi thế, Phật khuyên La Hầu La nên chú trọng đến hạnh tu, không nên quá quan tâm đến ăn uống. Thức ăn chỉ là thuốc trị bệnh đói. Tuy nhiên, Phật cũng bảo Xá Lợi Phất nên chăm sóc đến sức khỏe của tuổi trẻ bằng cách lưu tâm đến sự ăn uống cho đủ chất dinh dưỡng.

Một hôm khác, hai thầy trò vào thành Vương Xá khất thực. Trên đường đi, chẳng may hai thầy trò gặp một chàng du đảng. Hắn ta chặn đường, văng tục, lấy cát bỏ vào bình bát của Xá Lợi Phất và vác gậy đánh La Hầu La túi bụi rồi bỏ đi. Vì sức yếu La Hầu La không chống trả nổi, đầu bị chảy máu. Lại cũng do tập khí bị dồn nén, chưa dứt sạch, mặt La Hầu La tức giận bừng bừng và ôm đầu khóc thê thảm. Xá Lợi Phất từ tốn khuyến giáo.

- Này La Hầu La! Tuổi đã 18, 19 sắp được thọ cụ túc giới rồi, còn là đ? tử Phật, ngươi hãy quyết tâm nhổ sạch tập khí 3 độc, bằng Mật hạnh nhẫn nhục cao độ. Kẻ hành giả không nên oán cừu thù hận, hãy đem đức tính từ bi thương yêu tất cả chúng sanh, ở đời, khen chê, vinh nhục là điều không đáng cho người tu hành lưu tâm. Theo Phật, điều đáng cho hành giả ghi nhớ là ở thế gian, sức mạnh của nhẫn nhục có thể thắng tất cả sức mạnh khác, dù lớn lao đến đâu.

Vừa khuyên giải, Xá Lợi Phất vừa băng bó vết thương cho La Hầu La. Khi về đến Tinh Xá, Xá Lợi Phất trình tâu Phật sự tình vừa mới xảy ra trong buổi sáng, trên đường hai thầy trò đi khất thực. Phật xoay về phía La Hầu La ôn tồn dạy:

- Này La Hầu La! Nhẫn nhục là hạnh vô cùng cao quý. Muốn thấy Phật, thuận pháp, gần tăng. Ông hãy tu hạnh nhẫn nhục. Người biết nhẫn nhục tâm hồn sẽ thư thái, an ổn, diệt trừ được cái tai họa, trí tuệ phát sinh, trí tuệ là kiếm báu chặt đứt gốc rễ vô minh, tham ái, ngã chấp. Người có trí tuệ, dù có chung đụng với thế lực vẫn khôg bị ô nhiễm. Nhẫn nhục là điều kiện làm tăng thượng duyên, tuyên dương chánh pháp, là tư lương để sớm được giải thoát sinh tử luân hồi.

Ðể khai thị thêm, giúp La Hầu La có đủ điều kiện tiến tu và chứng thánh, ngưng giây lát, Phật lại khuyến hóa tiếp:

- Này La Hầu La! Ðể nối tiếp dòng Thánh không phụ các ân ngươi hãy nhìn thẳng vào thực tại của muôn vật. Ngươi hãy nhìn thẳng vào thực tại của muôn vật. Ngươi có thấy vật nào đứng yên không? Tất cả năng động trong sinh diệt, diệt sinh. Ngươi cần đem trí tuệ soi suốt tính vô thường, vô ngã vạn vật, kể cả thân tâm của ông, có suốt rõ như thế, tâm mới không chấp trước, dính mắc vào bất cứ một thứ gì, để tu niệm, giữ 8 vạn oai nghi và ba ngàn tế hạnh, hầu sớm được giải thoát. Trong ngươi, có huyết thống cao quý cho nên ngươi không thể trì trệ trên con đường triển khai Phật chủng.

Nghe Phật cảnh tỉnh, choáng váng đầu óc, La Hầu La dành mọi thời gian, chuyên tâm tu luyện oai nghi, tế hạnh. Cuối cùng La Hầu La trở thành bậc có Mật hạnh đệ nhất được Phật khen ngợi và khuyên trang trãi tâm từ đồng thể khắp mọi loài đưa chúng sinh qua bờ giải thoát.

4. Tiếp nhận Tinh Xá

Tuổi còn trẻ, ít tham gia sinh hoạt của tăng đoàn, chỉ vâng lời Phật, chuyên tu oai nghi tế hạnh, lúc 20 tuổi, La Hầu La chứng Thánh và được nhiều kính trọng. Vì thế La Hầu La được tín chúng cúng dường nhiều nhất.

Một hôm, Phật ở Ca Tỳ La Vệ thuyết pháp, có một trưởng giả đến xin quy y Phật, nhưng lại rất hữu duyên với La Hầu La. Sau ngày quy y vì cùng một quê hương Ca Tỳ La Vệ, ông trưởng giả cúng dường cho La Hầu La đủ các thứ cần dùng. Sẵn có tài sản, ông trưởng giả xây cất một tinh xá, dâng cúng cho La Hầu La. Tinh xá khang trang, rộng rãi nên La Hầu La dọn về thường trú ở đó. Trên đường đi bố giáo, các Tỳ kheo cũng thường ghé lại tinh xá của La Hầu La. Vì thế, Tinh Xá lúc nào cũng đông khách ra vào. Vì nghĩ Tinh Xá do mình cúng nên mình có trách nhiệm quản lý, ông trưởng giả rất siêng năng lui tới tinh xá bàn bạc với La Hầu La việc này, việc nọ. Ðôi lúc ông còn lấn cả quyền hạn trụ trì của La Hầu La. Vì ngại mất hạnh nhẫn nhục và mất lịch sự. La Hầu La luôn niềm nở với trưởng giả, dù thực sự lòng không được vui. Vì chưa nghe Phật chế giới tiếp nhận và quản lý Tinh Xá thế nào trong dịp trở về Trúc Lâm, La Hầu La thỉnh Phật ý kiến. Phật dạy rằng:

- Trong giáo pháp của ta việc của tăng đoàn, hàng tín chúng không được can dự vào. Phòng ốc, tinh xá của Tăng đoàn cư sĩ Phật tử không có quyền quản lý. Dù bất cứ việc gì, kể cả Tinh Xá sau khi đã dâng cúng, quyền sở hữu thuộc về chư tăng. Do đó, Tinh Xá không phải là một khách sạn, người bỏ tiền xây cất có quyền cho ai vào ở thì cứ tự tiện.

Nghe Phật giải thích rõ ràng, La Hầu La về trình bày với ông trưởng giả. Ðã không thông hiểu Phật pháp lại ỷ đã bỏ tài sản ra xây dựng, đương nhiên ông có quyền quản lý. Do đó, trước kính trọng cúng dường cho La Hầu La bao nhiêu, bây giờ ông trưởng giả lại oán thù La Hầu La bấy nhiêu, xem La Hầu La là người chiếm đoạt tài sản.

Một hôm, La Hầu La có việc phải vào thành Xá Vệ, đúng lúc ông trưởng giả viếng thăm tinh xá. Vì tâm bất bằng có sẵn, lại thấy Tinh Xá vắng vẻ, ông trưởng giả vội vàng đem tinh xá cúng dường cho một Tỳ kheo khác. Khi xong việc trở về, thấy tinh xá có người đến ở, giống như lúc bị chiếm phòng hồi còn Sa Di ngây thơ. Với tâm không vụ lợi tranh chấp, xả bỏ tất cả, La Hầu La ôm y bát trở về tinh xá Kỳ Hoàn xin phòng ở. thấy lạ, Phật hỏi lý do, La Hầu La trình bày với Phật, Tinh Xá đã bị ông trưởng giả thu hồi và đem cúng dường cho một Tỳ kheo khác. Phật nghĩ, người không hiểu Phật pháp mà đem đi làm Phật sự, thật là một điều khó. Phật triệu tập tăng đoàn và dạy:

- Những vật đã đem bố thí cho người, tín thí đem tặng lại cho các ông, các ông không được tiếp nhận. Nói thế không phải ta thiên vị, bênh vực quyền lợi cho La Hầu La. Phép tắc trong giáo đoàn phải được qui định rõ ràng để tránh các rắc rối về sau.

Ðúng là vị có Mật hạnh, dù bị chiếm phòng ốc hay Tinh Xá đang ở, La Hầu La không có tâm tranh chấp, đố kỵ, tỏ bày thái độ bất bình.

III- LA HẦU LA NIẾT BÀN

Về sự đản sinh và Niết Bàn của La Hầu La có hai truyền thuyết: Một thuyết cho rằng năm 19 tuổi Thái Tử Tất Ðạt Ða sinh La Hầu La. Một thuyết khác cho rằng: Năm Thái Tử Tất Ðạt Ða 25 tuổi, La Hầu La ra đời.

Về năm Niết Bàn của La Hầu La cũng có hai truyền thuyết. Một thuyết nói La Hầu La Niết Bàn trước Phật vài năm. Thuyết khác ghi: Khi Phật Niết Bàn La Hầu La còn quỳ bên Phật.

Theo truyền ký, bà Da Du Ðà La cùng tuổi với Phật, nhưng Niết Bàn năm 78 tuổi như thế là trước Phật 2 năm. Còn La Hầu La Niết Bàn không quá 50 tuổi, trước cả Phật và Da Du Ðà La.

IV. NHẬN THỨC VÀ KẾT LUẬN

Trong hàng Thánh chúng, La Hầu La là vị tu chứng trẻ nhất, lúc mới 20 tuổi. Ðúng là mê nhất kiếp ngộ nhất thời, vừa vâng lời Phật bỏ tính ham chơi của tuổi trẻ, tu chẳng bao lâu La Hầu La liền chứng Thánh vị. Lúc còn là chú tiểu và cả lúc đã thọ Sa Di, La Hầu La biểu thị tính hồn nhiên, thơ ngây, nghịch ngợm... của thế hệ tuổi trẻ ngày xưa. Nếu đem so với thế hệ tuổi trẻ ngày nay, chúng ta thấy vào cuối thế kỷ 20 này, trẻ con khôn lanh thiệt sớm, chúng không còn cái ngây thơ hồn nhiên như thế hệ tuổi trẻ của cha anh. Chúng ta không nên méo mó, phải thẳng thắn thừa nhận rằng, trong hiện tại, con em chúng ta đang thiếu hướng dẫn. Nạn phá phách, xì ke, ma túy nghiện ngập đang lan tàn trong giới trẻ. Gia đình, học đường cần tìm biện pháp chấn chỉnh, đưa tuổi trẻ vào nề nếp. Chúng ta không thể ham lo đời sống kinh tế rồi bỏ quên tuổi trẻ, thế hệ mau sau của Tổ quốc. Do đó với người lớn của chúng ta hãy noi gương Ðức Phật và Xá Lợi Phất đi sâu sát rèn luyện tuổi trẻ sớm nên người tốt trong xã hội.

Trên đây là nói về mặt chung của xã hội, còn mặt riêng trong giới Tăng Ni trẻ, chúng ta phải noi gương La Hầu La về mặt giới đức tu trì. Trong tuổi trẻ, La Hầu La có đùa nghịch nhưng là đứa trẻ nghịch hồn nhiên, trong trắng, không bê tha ô nhiễm... Bởi thế sau khi nghe giáo huấn của Phật và Xá Lợi Phất, La Hầu La đã dễ dàng loại trừ những trò chơi trêu chọc nghịch ngợm và gia công trau dồi oai nghi, tế hạnh, để chứng Thánh quả. Các Tăng Ni trẻ nên khép mình trong khuôn khổ nhà chùa, tâm thường bất túc, tu trì, giới định, tuệ để trở thành một tăng sĩ thật tài, có đức, hữu ích cho giáo hội, cho dân tộc. Có học, có tu, có thực tài, có đức hạnh, vị thể của chúng ta trong giáo đoàn và ngoài xã hội, mới vững, mới lâu dài. Người xưa có nói: "Hữu hoạn bất tài, hà hoạn vô vị". (Chỉ sợ không tài, lo gì không có địa vị). Ðối với cuộc đời, người có tài đức, nếu vì một lý do nào đó không thành công thì cũng thành nhân". Riêng tu sĩ vấn đề tiến tu đạo nghiệp là chính.

La Hầu La nhờ âm thầm bỏ công rèn luyện oai nghi tế hạnh nên đã trở thành vị Mật hạnh đệ nhất ngay lúc còn trẻ. Trong công tác của giáo đoàn, dù không có những hoạt động sôi nổi như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên... nhưng đã chứng Thánh, có Mật hạnh đệ nhất,La Hầu La đã có vị thế lâu dài trong hàng Thánh chúng, 10 đại đệ tử của Phật.

* * *

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Thời niên thiếu La Hầu La như thế nào?

2. Lúc mới trở thành Sa di. La Hầu La như thế nào?

3. Phật răn dạy La Hầu La những gì?

4. Vì tu hạnh nhẫn nhục, La Hầu La đã chịu những thua thiệt gì?

5. Phật chế giới cho phép sa di được ở chung phòng với Tỳ kheo trong trường hợp nào?

6. Về vũ trụ, nhân sinh, Phật dạy La Hầu La phải có cái nhìn như thế nào?

7. Phật dạy hàng Tỳ kheo khi tiếp nhận tài sản phải như thế nào?

8. Trong trường hợp nào, Phật dạy các Tỳ kheo cách tiếp nhận tài sản?

9. Các truyền thuyết ghi chép vấn đề La Hầu La niết bàn như thế nào?

10. Ở hiện tại và mai sau Phật, Xá Lợi Phất và La Hầu La nêu gương gì cho bậc làm cha mẹ, sư trưởng và thế hệ trẻ trong xã hội, trong Tăng Ni trẻ?

-ooOoo-

Ðầu trang | 1.01 | 1.02 | 1.03 | 1.04 | 1.05 | 1.06 | 1.07 | 1.08 |
| 2.01 | 2.02 | 2.03 | 2.04 | 2.05 | 2.06 | 2.07 | 2.08 | 2.09 | 2.10 | 3 | Mục lục

Chân thành cám ơn Đại đức Giác Đồng đã gửi tặng phiên bản điện tử (Bình Anson, 07-2001)


[Trở về trang Thư Mục]