Bài 5
Tôn giả
CA CHIÊN DIÊN
(Katyayana - Luận nghị đệ nhất)
-ooOoo-
N gày
xưa, để được gọi là một nhà nho đúng nghĩa, ngoài
thông hiểu tứ thư, ngũ kinh, biết làm thơ phú... Nhà nho
còn phải biết thêm bốc, y, lý và số. Về Phật giáo để
được toàn bích, ngoài thông hiểu nội điển, một Tăng
sĩ cần phải biết thêm Thanh Minh, Nhân Minh, Công Xảo Minh,
và Y Phương Minh, gọi chung là Ngũ Minh. Nếu không được
như thế, tối đa cũng phải biết 4 hoặc 3, tối thiểu phải
biết 2 minh. Vì trong khi truyền đạo, dù thuộc kinh điển,
nhưng trình bày không mạch lạc, khúc chiếc, lý luận không
biện chứng, Lôgic, thì khó mà thuyết phục được người
nghe. Mặt khác, nếu thuộc kinh điển, có lý luận, nhưng
gi?ữa diễn giả và thính chúng ngôn ngữ không đồng, phải
nhờ đến thông dịch, diễn giả cũng không thể truyền đạt
hết tư tưởng, quan điểm cho thính chúng. Bởi thế, để
trở thành một người thuyết pháp nhà nghề, ngoài am tường
nội điển, tối thiểu các Tăng sĩ cần rèn luyện, biết
thêm ngôn ngữ và có một số kiến thức phổ thông. Thời
Phật còn tại thế, trong số 10 đại đệ tử, Ca Chiên
Diên (Katyayana) không những chỉ thông hiểu những tư tưởng
triết học đương thời, am tường giáo pháp của Phật, mà
còn có tài luận nghị khiến ai vấn nạn cũng đều thán phục.
Phật là Thánh chúng phong tặng cho Ca Chiên Diên là bậc Luận
Nghị đệ nhất.
I- DÒNG
HỌ VÀ BIỆN TÀI CỦA CA CHIÊN DIÊN.
Ở miền Nam Ấn Ðộ,
nước A Bàn Ðồ (Avente), thôn Di Hầu, thuộc dòng Bà La
Môn, có một gia đình rất giàu sang và danh giá, được nhiều
người kính nể. Ngài Ca Chiên Diên (Katyayana) được sinh ra
trong gia đình này. Ca Chiên Diên là con thứ, thân phụ là một
quốc sư đương thời, Ca Chiên Diên là họ, tên là Na Da
Là, về sau nhờ nổi tiếng, nên mọi người dùng họ để
thay tên cho Tôn giả.
Ca Chiên Diên Có một
người anh cũng thông minh tài trí theo cha học đạo làm Bà
La Môn.
Ðể uyên bác hơn, Ca
Ca đi nhiều nơi, tham học đạo lý với các Bà La Môn danh
tiếng. Sau khi đã học hết kinh điển của Bà La Môn, Ca Ca
trở về cố hương với ý định lập đàn tràng thuyết giảng
kinh Vệ Ðà. Trong khi anh du học phương xa, ở nhà Ca Chiên
Diên cũng theo cha dồi mài kinh sử, cùng lúc với Ca Ca, Ca
Chiên Diên cũng lập đàn, đối diện với đàn của anh để
thuyết giáo, xem đã đủ sức lý luận trước mặt mọi
người chưa?
Trước hai đàn tràng,
mọi người cho là Ca Chiên Diên hùng biện hơn Ca Ca. Do đó,
hầu hết thính chúng đều hướng về Ca Chiên Diên. Thấy
em làm mất mặt trước đám đông, Ca Ca đến trước thân
phụ thưa kiện, và đòi trừng trị tội trịch thượng của
Ca Chiên Diên một cách thích đáng.
Ca Chiên Diên được
triệu đến để tiện bề phân xử. Trước cha và anh, Ca
Chiên Diên quỳ lạy và bày tỏ:
- Thưa cha! Xin cha hãy rộng
lượng soi xét, trong lúc anh con đi phương xa học hỏi, ở
nhà con cũng theo cha cố công dồi mài kinh sử. Con thiết lập
đàn tràng để biết công lao học hỏi nghiên cứu trong bao
năm qua, kết quả như thế nào? Chỉ có thế thôi. Con cũng
không có ý đồ cạnh tranh hơn thua. Trước thính chúng, con
không rắp tâm dụ dỗ ai. Hai anh em của con sẽ phân trần với
nhau, xin cha chớ bận tâm. Hướng về Ca Ca, Ca Chiên Diên cũng
tỏ lời xin Ca Ca cảm thông, và sẽ cùng nhau hòa giải, vì
đây, chẳng qua chỉ là sự hiểu lầm mà thôi.
Trước hai người con,
Quốc sư đều quý mến, không biết nên phân xử thế nào
cho phải, chỉ hứa sẽ cho biết ý kiến sau. Cả hai đều
lui bước xong xuôi. Quốc sư bàn với phu nhân, cuối cùng
có quyết định để làm cho an lòng Ca Ca, vì ông này có nhiều
háo thắng, vả lại cũng để bảo tồn danh dự cho Ca Ca, Ca
Chiên Diên được gởi qua núi Tần Ðà, ở phương Nam học
đạo với Tiên A Tư Ðà.
Tiên A Tư Ðà là trưởng
huynh của thân mẫu Ca Chiên Diên, ông là vị tiên nhân bác
học, chứng tứ thiền, ngũ thông, được nhân dân Ấn Ðộ
trọng nể lúc bấy giờ.
Ca Chiên Diên rất được
A Tư Ðà thương mến, vì tư chất thông thái, chóng lãnh hội
những điều được truyền đạt.
Một hôm A Tư Ðà cho
Ca Chiên Diên hay rằng:
- Ta tuy thông hiểu
Thánh điển Vệ Ðà, nhưng sẽ không bằng Thái Tử Tất Ðạt
Ða con vua Tịnh Phạn, vì Thái Tử sẽ xuất gia thành đạo
vô thượng và sẽ chuyển xe chánh pháp tại vườn Lộc Uyển,
xứ Ba La Nại. Sau này, con hãy đến đó thọ giáo để triển
khai tài năng luận nghị của con. Riêng cậu, chẳng bao lâu
nữa sẽ từ giã cuộc đời, không có vinh dự gặp Phật.
Rồi để chuẩn bị
cho cháu, A Tư Ðà dẫn Ca Chiên Diên xuống núi đến lập tịnh
thất tại Ba La Nại; đúng như lời dự đoán, ít lâu sau, A
Tư Ðà từ giã cõi đời.
Nhớ lời cậu khuyên,
sau khi Phật đến Lộc Uyển chuyển pháp luân, Ca Chiên Diên
đi tìm Phật cầu sư học đạo chứng thánh và trở thành bậc
Luận Nghị đệ nhất.
II- ÐẠO
NGHIỆP CỦA CA CHIÊN DIÊN.
1. Biện luận phép
bình đẳng
Trong hàng đệ tử của
Phật, có hai nhân vật biện luận tài tình đó là Phú Lâu
Na và Ca Chiên Diên. Nhưng khi thuyết pháp Phú Lâu Na thiên về
số đông, còn Ca Chiên Diên lại thích lý luận với từng
người một.
Một hôm, Ca Chiên Diên
đến phía Tây Ấn Ðộ, nước Ma Thâu (Mathian) truyền đạo,
sau khi xem xét dân tình, phong tục địa phương, lề lối
sinh hoạt xã hội, Ca Chiên Diên đến yết kiến vua nước
Ma Thâu.
Thấy Ca Chiên Diên bỏ
dòng Bà La Môn, theo dòng Sát Ðế Lợi là một chuyện lạ,
vua Ma Thâu hỏi Ca Chiên Diên:
- "Ở đời ta chưa
thấy ai lại bỏ dòng họ cao quý sinh từ đầu Phạm Thiên,
để đi theo dòng họ thấp hơn như Tôn giả. Tại sao lại
như thế? Có ai ép buộc chăng?
- Ðại vương! Tôi cảm
nhận Ðức Phật là bậc đại thánh, lời Ca Chiên Diên. Trước
đây, cậu tôi là tiên A Tư Ðà khuyên tôi, tôi rất nghi ngờ,
có thể là không xác thật. Vì tôi cũng nghĩ như Ðại Vương,
trong đời ai có thể hơn dòng dõi Bà La Môn được. Nhưng
khi gặp Phật, nghe Phật khai thị, tôi tự nghĩ, trước đây
mình vô cùng lầm lẫn. Với luật Manu, xã hội được chia
thành 4 đẳng cấp: - Bà La Môn, Sát Ðế Lợi. Phệ Xá và
Thủ Ðà La. Luật này có ra, chẳng qua là do dòng Bà La Môn
muốn củng cố uy thế mà đặt ra. Giữa con người với con
người, ai cũng dòng máu đỏ, nước mắt mặn, ai cũng chào
đời với tiếng khóc, chưa hề có dấu tin-ka ở trán, hay
các vòng vàng ở cổ tay, cổ chân. Lớn lên, nếu được học,
ai cũng có thể thuộc kinh Veda, vào thương trường, ai cũng
có thể biết buôn bán. Sống ở rẫy bái ruộng đồng ai
cũng có thể biết cày cấy, được chỉ nghề nghiệp ai
cũng có thể sản xuất ra vật tiêu dùng, người không chịu
học hỏi tất sẽ ngu dốt. Do đó, có dòng này dòng khác
là do Luật Manu và xã hội gán ép cho con người. Hơn nữa,
thiện ác hay cao quý, thấp hèn, người dòng nào lại không
có. Thế nhưng, trong nhà tù, kẻ làm tôi tớ đều là người
thuộc dòng thứ dân. Còn trong dòng Bà La Môn, Sát Ðế Lợi,
không hiếm người phạm pháp, làm điều độc ác, nhưng nhờ
được che chở bởi dòng họ, người bất lương tội lỗi
vẫn ăn trên ngồi trước, thật là bất công!
Thái Tử Tất Ðạt Ða
vẫn thấy rõ thực trạng của tư tưởng, tôn giáo, xã hội
Ấn Ðộ, nên đã từ bỏ cuộc sống vương giả để đi tìm
đạo và Thành đạo. Ở đời, từ xưa đến nay, có mấy ai
dám từ chối địa vị cao sang, quyền quý và lắm lạc thú
như Phật Thích Ca? hiện nay, Phật đang chủ xướng thuyết
bình đẳng để xã hội không có cảnh người bóc lột người,
người hà hiếp người, người ăn không hết, kẻ làm đầu
tắt mặt tối mà vẫn đói khổ. Trong giáo đoàn của người
mọi người đều bình đẳng, ai có phẩm hạnh cao tất được
tôn trọng, dù đó là người thuộc dòng hạ tiện.
Thật đúng là nhà Luận
Nghị đệ nhất,Ca Chiên Diên đã thao thao thuyết phục vua
Ma Thâu, một cách biện chứng, lôgic. Bởi thế nhà vua đã
thể hội giáo pháp bình đẳng của Phật, qua lần gặp Ca
Chiên Diên, nhà vua cũng thừa nhận Ca Chiên Diên là nhà biện
luận đại tài, và yêu cầu được giới thiệu để quy y
Phật. Khi trở thành Phật tử, Vua Ma Thâu áp dụng phép
bình đẳng của Phật để điều hành việc nước. Tất cả
tù nhân ở các trại giam đều được phóng thích. Ai phạm
pháp, có tội đều được đưa đi giáo dục cải tạo, dù
đó là người thuộc dòng Bà La Môn hay Sát Ðế Lợi. Nhờ
thế cả nước, mọi người đều vui mừng, dân tình an cư
lạc nghiệp, nhân dân cả nước Ma Thâu cũng rất cảm kích
giáo pháp từ bi, trí tuệ, bình đẳng của Phật Thích Ca.
Ca Chiên Diên đến đâu cũng được trọng nể hoan nghênh
nhiệt liệt.
2. Ðạo đức không ở
tuổi tác
Ca Chiên Diên đem giáo
pháp bình đẳng của Phật truyền bá khắp nơi, khiến mức
độ tôn kính Bà La Môn trong nhân dân ngày một giảm sút. Bởi
thế, các Bà La Môn rất oán hận Ca Chiên Diên và luôn luôn
tìm cơ hội để đả kích.
Một hôm ở Ba La Nại,
bên ao Ô Nê, Ca Chiên Diên đang tọa đàm với các Tỳ Kheo
đồng học. Trong lúc đó có một Bà La Môn thuộc hàng Trưởng
lão đến khiêu khích, ông chống gậy đến đứng cạnh Ca
Chiên Diên, nhưng Ca Chiên Diên vẫn điềm tĩnh trong việc tọa
đàm, không đứng dậy chào hỏi và nhường chỗ, Ðạo sĩ
nổi giận, lên tiếng trách móc:
- Các ông còn trẻ, gọi
là tu hành, giữ gìn oai nghi tế hạnh, tại sao gặp người
già cả, bậc trưởng thượng không chào hỏi, đón tiếp?
Các Tỳ Kheo có vẻ bối
rối, Ca Chiên Diên vẫn không nao núng, nói:
- Chính ông mới là con
người mất lịch sự, ông là ai mà đường đột vào đây,
la lối ầm ĩ như thế? Phẩm hạnh không ở nơi người đầu
bạc. Người không có cung cách, biết tôn trọng sự yên tĩnh
của người khác, nhất là trong lúc tọa đàm, học tập,
già mà như thế có đáng được trọng vọng không?
Nghe Ca Chiên Diên lý luận,
ông già Bà La Môn càng nổi nóng hơn cho là Ca Chiên Diên hổn
láo rồi cầm gậy đe dọa Ca Chiên Diên. Lửa đỏ, không
nên thêm dầu, mặc cho ông già quát tháo, Ca Chiên Diên điềm
tĩnh nói:
- Ông thô tháo quá, mất
hết tư cách cho nên chúng tôi không thể tôn trọng được,
tuổi lớn nhưng ông không biết trau dồi tác phong đạo đức,
tham đắm sắc trần phiền não, tật đố, si mê... Không
buông bỏ tất yếu không bằng tuổi trẻ, đáng được cho
người tôn kính, đó là người không ái dục, không tham
danh lợi, không nóng nảy, chấp trước...
Nghe Ca Chiên Diên nói
có lý quá, hết cách phê phán, lão Bà La Môn lầm lũi rút
lui.
Một hôm khác, có một
lão Bà La Môn khác khá giỏi biện luận, từ xứ Câu Thi Na
xa xuôi, tìm đến Ba La Nại kêu đích danh Ca Chiên Diên hạch
hỏi:
- Này Ca Chiên Diên! Ta
nghe ngươi bỏ Bà La Môn giáo để theo ông Cù Ðàm phải
không? Người phản bội tín ngưỡng lỗi nhiều hay ít? Ông
lại hay đem giáo pháp của Phật thuyết dụ các Bà La Môn,
vô lễ thật.
Nghe Bà La Môn kết đủ
thứ tội một cách ầm ĩ, với đức tính điềm tĩnh nhưng
lý luận sắc bén, Ca Chiên Diên chậm rãi trả lời:
- Ông xem tấm áo cà sa
trên thân tôi là biết tôi đã cải tôn giáo rồi, cần gì
phải đặt vấn đề. Với tín ngưỡng có nhiều thần quyền,
có luật lệ mất bình đẳng, người theo tín ngưỡng đó
có đáng để tuân hành không? Người đã biết con đường
chính đạo có cần hướng dẫn cho gia đình bạn hữu, người
theo tà giáo trở về nẻo chính hay không?
Chưa chịu thua, vì mục
đích đến để hạ bệ Ca Chiên Diên, lão Bà La Môn hỏi:
- Này Ca Chiên Diên! Ngươi
là Tỳ Kheo, sao không biết giữ oai nghi tế hạnh, trước đây
đã không cung kính một lão Bà La Môn trưởng thượng?
Ca Chiên Diên dõng dạc
trả lời:
- Giá trị con người
không ở tuổi tác mà là ở phẩm hạnh. Tôi đã quy y Phật,
quy y Pháp của Phật, cho nên đương nhiên tôi không thể chấp
nhận tà thuyết vái lạy thầy tà bạn ác, người không có
tư cách được, đó là chuyện đương nhiên, mắc mớ gì
mà ông thắc mắc?
Nghe Ca Chiên Diên đối
đáp sắc bén, lão Bà La Môn khâm phục và xin được giới
thiệu để gia nhập hàng đệ tử Phật.
3. Nguyên nhân tranh cãi
Một buổi sáng sớm,
trên đường đi khất thực, một Bà La Môn chận Ca Chiên
Diên lại và hỏi:
- Tôi nghe tiếng Tôn giả
đã lâu mà nay mới gặp, thật là may mắn. Hiện giờ trong
tư tưởng, tôi có một thắc mắc mà không giải đáp được,
tiện đây xin tôn giả chỉ giúp.
- Ông cứ tự nhiên
nói, Ca Chiên Diên đáp.
- Thưa Tôn giả! Trên
thế gian này tôi thấy Sát Ðế Lợi tranh cải với Sát Ðế
Lợi, Bà La Môn tranh cải với Bà La Môn. Nguyên nhân gì mà
họ lại tranh cải như thế?
Ca Chiên Diên đáp:
- Vì tham dục mê hoặc.
- Thưa Tôn giả! Còn Sa
Môn với Sa Môn tranh cải vì lý do gì?
- Vì ngã kiến và pháp
chấp.
- Thế trên cõi đời nầy
ai là người không bị tham dục mê hoặc và ngã kiến, pháp
chấp để nương theo?
Chẳng do dự, Ca Chiên
Diên đáp:
- Ðức Phật!
Ðạo sĩ Bà La Môn cảm
thấy lời của Ca Chiên Diên thật xảo tuyệt nên yêu cầu
Tôn giả cho được quy y Phật.
4. Bán nghèo
Tại nước A Bàn Ðề
(Avanti), trên đường đi du hóa, Ca Chiên Diên gặp một người
đàn bà ôm một vò nước ngồi khóc nỉ non, bên bờ sông.
Cảm thấy cảnh đáng thương, Ca Chiên Diên dừng bước hỏi:
- Tại sao lại khóc
lóc thê thảm như thế? Hãy cho biết lý do, thử xem tôi có
giúp được gì cho bà chăng?
- Chắc ông không giúp
được gì đâu? Bà ta nói
- Nếu không giúp vật
chất, tôi có thể chỉ cho bà phương pháp giải quyết, Ca
Chiên Diên từ tốn đáp.
- Ðời thật là bất
công! Bà nói, người giàu thì càng giàu thêm, dư ăn dư xài,
kho lẫm tràn đầy. Ngược lại, người nghèo ngày càng xơ
xác, đổ mồ hôi mà vẫn không đủ ăn. Cái khó lại bó
cái khôn! Không có cách xoay xở. Tôi sinh ra trong gia đình
nô lệ khốn cùng, từ khi chào đời đến nay, không lúc
nào mà cái khổ không đeo đẳng. Vì thế, đến nay, tôi
không còn sức chịu đựng, chỉ muốn đi tìm cái chết may
ra mới hết khổ.
Ca Chiên Diên đáp:
- Không cần khóc lóc,
trong cuộc đời nầy đâu phải chỉ có bà nghèo. Thiên hạ,
đa phần là người nghèo. Bà thử xem tại nước này có bao
nhiêu nhà giàu. Với những thứ tiền của tràn đầy kho lẫm,
chắc gì những người giàu đã là không khổ? Vì lòng tham
ô không đáy, có một h? lại muốn 10. Lòng tham dục hành hạ
con người ghê gớm lắm! Bởi thế, tuy nghèo, nhưng lòng
không dơ bợn, biết vừa đủ, là thấy thoải mái hơn. Ðức
Phật đã nói - "Người giàu tuy ở thiên đường cũng
không vừa ý, người nghèo lại biết vừa đủ tuy nằm trên
đất vẫn thấy an lạc".
- Ðó là lý thuyết
thôi ông ơi! Bà ta nói, thực tế khác hẳn. Người giàu
khác với kẻ nghèo. Vì muốn ăn là có ăn, muốn mặc là
có mặc. Họ bỏ tiền ra là muốn chi cũng được. Còn
nghèo như tôi suốt đời làm nô lệ, làm việc quần quật
cả ngày mà đôi lúc còn bị roi vọt chửi rủa, thức từ
4, 5 giờ đến quá 12 giờ đêm mà cơm không đặng no, áo
rách tả tơi, đúng là nghèo truyền kiếp! Vì thế tôi muốn
chết, may ra mới hết thống khổ. Nhưng chết đâu có được.
Do đó, có thể nào không khóc được ông ơi!
- Vậy bà hãy bán cái
nghèo đi, Ca Chiên Diên nói.
- Cái nghèo đâu có
bán được, Bà nói, ai lại dại dột mà đi mua cái nghèo?
- Nếu bà chịu bán
tôi sẵn sàng mua.
- Thôi đừng đùa, tội
quá ông ơi!
- Tôi tu hành, đùa với
bà có lợi ích gì? Tôi mua thật đấy. Cái nghèo có thể
bán lắm chứ? Có điều là người ta không biết cách bán.
Phương pháp bán nghèo là bố thí. Mọi sự kiện trên đời
đều có nguyên nhân. Giàu là kết quả của sự tu phước bố
thí. Còn nghèo là vì đã quá keo kiệt. Vì thế, thực hành
hạnh bố thí là phương pháp bán nghèo độc đáo nhất.
- Nhưng tôi nghèo rớt
mùng tơi, có gì mà để bố thí cho ông. Cái vò trong tay
tôi là của chủ Bà La Môn tôi đâu có đem bố thí được.
Lỡ tay làm bể là đã bị ăn đòn, huống gì là đem bố thí
cho người khác.
- Tôi đang khát nước.
Vậy bà hãy đem vò nước xuống sông múc nước bố thí cho
tôi. Ðó là cách tôi mua nghèo cho bà.
Nghe xong, bà liền đi múc
nước bố thí và tỉnh ngộ. Nhờ Ca Chiên Diên chỉ dẫn,
bà ta thường làm việc bố thí, ít ham muốn, biết vừa đủ,
lòng được thoải mái, và cuộc đời trở nên an lạc hơn
trước.
Nhờ tài luận nghị,
suốt đời đi giáo hóa Ca Chiên Diên đã cảm hóa được
nhiều người, dẫn dắt người nghèo về với Ðức Phật,
ai cũng thấy an lạc ngay trên cõi đời này.
III- NHẬN
THỨC VÀ KẾT LUẬN
* Ðức Phật ra đời với
mục đích chính yếu là khai hóa cho nhân loại chúng sinh biết
con đường giác ngộ và giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Tuy nhiên không phải vì thế mà Phật bỏ quên vấn đề xây
dựng con người, xây dựng xã hội. Ðó là mầm móng cho giải
thoát sinh, già, bịnh, chết. Mầm móng không xây thì lâu đài
không có chỗ dựa vững chắc. Trong kinh Bách Dụ có câu
chuyện:
- Người mướn thợ
xây nhà mà chỉ đòi xây lầu không cần xây nền móng, người
đời gọi đó là: Xây nhà trên nền cát. Việc làm đó chẳng
bao giờ thực hiện được.
* Trong kinh Phật dạy:
Phật pháp bất ly thế gian giác, ly thể mích Bồ Ðề do nhu
cầu thế giác. (Phật pháp không ngoài thế gian mà giác ngộ,
xa lìa cuộc đời mà tin Bồ Ðề, giống như tìm lông rùa sừng
thỏ).
* Một trong những
nguyên nhân thúc đẩy Tất Ðạt Ða xuất gia chính là xã hội
không bình đẳng, không an lạc của Ấn Ðộ lúc bấy giờ.
* Noi gương Ðức Phật,
trên đường đi bố giáo Ca Chiên Diên đến gặp vua nước
Ma Thâu. Nhân cơ hội nhà vua kích bác vấn đề bỏ đẳng cấp
cao theo đẳng cấp thấp của mình, Ca Chiên Diên đã đem
thuyết bình đẳng diễn giảng.
Sau cuộc hội kiến với
Ca Chiên Diên, Vua nước Ma Thâu áp dụng giáo pháp bình đẳng
vào xã hội, nhờ đó nước Ma Thâu được an lạc, không
còn cảnh người bóc lột người, kẻ nô lệ luôn luôn chịu
cảnh nô lệ, người Bà La Môn, Sát Ðế Lợi, cứ tiếp tục
ăn trên ngồi trước dù phạm pháp, ác độc. Qua câu chuyện
vua nước Ma Thâu, thực hành pháp bình đẳng trong công
tác xây dựng xã hội cho thấy Ðạo Phật không tiêu cực,
xa thực tế... để đi tìm một thế giới trên 9 tầng
mây.
* Ngoài truyền bá giáo
thuyết bình đẳng, Ca Chiên Diên còn đề cao giá trị con người
qua phẩm giá đạo đức. Ðể từ đó có tinh thần vị tha,
bố thí, giúp cho con người hết đói nghèo và đặc biệt là
loại trừ tính tham dục, mê hoặc, ngã kiến, ngã chấp, để
sống hòa hợp không tranh cãi.
* Với những tinh thần
đạo lý, qua các cuộc hùng biện của Ca Chiên Diên, ngày
nay con người cần được phổ biến, học hỏi. Bởi vì cuộc
sống của con người giữa Nam và Bắc còn chênh lệch, có
những nơi còn quá đói nghèo, cần được giúp đỡ. Ðặc
biệt và có thể nói là nguy hiểm hơn giữa Ðông và Tây
đang âm thầm giữ miếng với nhau, dù có kêu gọi xích lại
gần nhau nhưng thực sự còn có khoảng cách quá rộng!
* * *
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Ðể được toàn
bích, Tăng sĩ cần học hỏi những gì?
2. Dòng họ và biện
tài của Ca Chiên Diên như thế nào?
3. Trong trường hợp
nào, biện luận pháp bình đẳng?
4. Các đạo sĩ Bà La
Môn khiêu khích Ca Chiên Diên qua những gì? Ca Chiên Diên đã
biện luận như thế nào?
5. Nguyên nhân nào con
người thường tranh cãi nhau?
6. Với bà lão ôm vò
ngồi khóc, Ca Chiên Diên đã khuyến hóa như thế nào?
7. Với những tinh thần
đạo lý mà Ca Chiên Diên đã tranh biện, ngày nay, con người
có cần không? Tại sao?
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.01
| 1.02 | 1.03 | 1.04
| 1.05 | 1.06 | 1.07
| 1.08 |
| 2.01 | 2.02 | 2.03
| 2.04 | 2.05 | 2.06
| 2.07 | 2.08 | 2.09
| 2.10 | 3 | Mục
lục |