| 
         Bài 5 
        Tôn giả 
        CA CHIÊN DIÊN 
        (Katyayana - Luận nghị đệ nhất)
        -ooOoo- 
        
        N gày 
        xưa, để được gọi là một nhà nho đúng nghĩa, ngoài 
        thông hiểu tứ thư, ngũ kinh, biết làm thơ phú... Nhà nho 
        còn phải biết thêm bốc, y, lý và số. Về Phật giáo để 
        được toàn bích, ngoài thông hiểu nội điển, một Tăng 
        sĩ cần phải biết thêm Thanh Minh, Nhân Minh, Công Xảo Minh, 
        và Y Phương Minh, gọi chung là Ngũ Minh. Nếu không được 
        như thế, tối đa cũng phải biết 4 hoặc 3, tối thiểu phải 
        biết 2 minh. Vì trong khi truyền đạo, dù thuộc kinh điển, 
        nhưng trình bày không mạch lạc, khúc chiếc, lý luận không 
        biện chứng, Lôgic, thì khó mà thuyết phục được người 
        nghe. Mặt khác, nếu thuộc kinh điển, có lý luận, nhưng 
        gi?ữa diễn giả và thính chúng ngôn ngữ không đồng, phải 
        nhờ đến thông dịch, diễn giả cũng không thể truyền đạt 
        hết tư tưởng, quan điểm cho thính chúng. Bởi thế, để 
        trở thành một người thuyết pháp nhà nghề, ngoài am tường 
        nội điển, tối thiểu các Tăng sĩ cần rèn luyện, biết 
        thêm ngôn ngữ và có một số kiến thức phổ thông. Thời 
        Phật còn tại thế, trong số 10 đại đệ tử, Ca Chiên 
        Diên (Katyayana) không những chỉ thông hiểu những tư tưởng 
        triết học đương thời, am tường giáo pháp của Phật, mà 
        còn có tài luận nghị khiến ai vấn nạn cũng đều thán phục. 
        Phật là Thánh chúng phong tặng cho Ca Chiên Diên là bậc Luận 
        Nghị đệ nhất.
        I- DÒNG 
        HỌ VÀ BIỆN TÀI CỦA CA CHIÊN DIÊN. 
        Ở miền Nam Ấn Ðộ, 
        nước A Bàn Ðồ (Avente), thôn Di Hầu, thuộc dòng Bà La 
        Môn, có một gia đình rất giàu sang và danh giá, được nhiều 
        người kính nể. Ngài Ca Chiên Diên (Katyayana) được sinh ra 
        trong gia đình này. Ca Chiên Diên là con thứ, thân phụ là một 
        quốc sư đương thời, Ca Chiên Diên là họ, tên là Na Da 
        Là, về sau nhờ nổi tiếng, nên mọi người dùng họ để 
        thay tên cho Tôn giả. 
        Ca Chiên Diên Có một 
        người anh cũng thông minh tài trí theo cha học đạo làm Bà 
        La Môn. 
        Ðể uyên bác hơn, Ca 
        Ca đi nhiều nơi, tham học đạo lý với các Bà La Môn danh 
        tiếng. Sau khi đã học hết kinh điển của Bà La Môn, Ca Ca 
        trở về cố hương với ý định lập đàn tràng thuyết giảng 
        kinh Vệ Ðà. Trong khi anh du học phương xa, ở nhà Ca Chiên 
        Diên cũng theo cha dồi mài kinh sử, cùng lúc với Ca Ca, Ca 
        Chiên Diên cũng lập đàn, đối diện với đàn của anh để 
        thuyết giáo, xem đã đủ sức lý luận trước mặt mọi 
        người chưa? 
        Trước hai đàn tràng, 
        mọi người cho là Ca Chiên Diên hùng biện hơn Ca Ca. Do đó, 
        hầu hết thính chúng đều hướng về Ca Chiên Diên. Thấy 
        em làm mất mặt trước đám đông, Ca Ca đến trước thân 
        phụ thưa kiện, và đòi trừng trị tội trịch thượng của 
        Ca Chiên Diên một cách thích đáng. 
        Ca Chiên Diên được 
        triệu đến để tiện bề phân xử. Trước cha và anh, Ca 
        Chiên Diên quỳ lạy và bày tỏ: 
        - Thưa cha! Xin cha hãy rộng 
        lượng soi xét, trong lúc anh con đi phương xa học hỏi, ở 
        nhà con cũng theo cha cố công dồi mài kinh sử. Con thiết lập 
        đàn tràng để biết công lao học hỏi nghiên cứu trong bao 
        năm qua, kết quả như thế nào? Chỉ có thế thôi. Con cũng 
        không có ý đồ cạnh tranh hơn thua. Trước thính chúng, con 
        không rắp tâm dụ dỗ ai. Hai anh em của con sẽ phân trần với 
        nhau, xin cha chớ bận tâm. Hướng về Ca Ca, Ca Chiên Diên cũng 
        tỏ lời xin Ca Ca cảm thông, và sẽ cùng nhau hòa giải, vì 
        đây, chẳng qua chỉ là sự hiểu lầm mà thôi. 
        Trước hai người con, 
        Quốc sư đều quý mến, không biết nên phân xử thế nào 
        cho phải, chỉ hứa sẽ cho biết ý kiến sau. Cả hai đều 
        lui bước xong xuôi. Quốc sư bàn với phu nhân, cuối cùng 
        có quyết định để làm cho an lòng Ca Ca, vì ông này có nhiều 
        háo thắng, vả lại cũng để bảo tồn danh dự cho Ca Ca, Ca 
        Chiên Diên được gởi qua núi Tần Ðà, ở phương Nam học 
        đạo với Tiên A Tư Ðà. 
        Tiên A Tư Ðà là trưởng 
        huynh của thân mẫu Ca Chiên Diên, ông là vị tiên nhân bác 
        học, chứng tứ thiền, ngũ thông, được nhân dân Ấn Ðộ 
        trọng nể lúc bấy giờ. 
        Ca Chiên Diên rất được 
        A Tư Ðà thương mến, vì tư chất thông thái, chóng lãnh hội 
        những điều được truyền đạt. 
        Một hôm A Tư Ðà cho 
        Ca Chiên Diên hay rằng: 
        - Ta tuy thông hiểu 
        Thánh điển Vệ Ðà, nhưng sẽ không bằng Thái Tử Tất Ðạt 
        Ða con vua Tịnh Phạn, vì Thái Tử sẽ xuất gia thành đạo 
        vô thượng và sẽ chuyển xe chánh pháp tại vườn Lộc Uyển, 
        xứ Ba La Nại. Sau này, con hãy đến đó thọ giáo để triển 
        khai tài năng luận nghị của con. Riêng cậu, chẳng bao lâu 
        nữa sẽ từ giã cuộc đời, không có vinh dự gặp Phật. 
        Rồi để chuẩn bị 
        cho cháu, A Tư Ðà dẫn Ca Chiên Diên xuống núi đến lập tịnh 
        thất tại Ba La Nại; đúng như lời dự đoán, ít lâu sau, A 
        Tư Ðà từ giã cõi đời. 
        Nhớ lời cậu khuyên, 
        sau khi Phật đến Lộc Uyển chuyển pháp luân, Ca Chiên Diên 
        đi tìm Phật cầu sư học đạo chứng thánh và trở thành bậc 
        Luận Nghị đệ nhất. 
        II- ÐẠO 
        NGHIỆP CỦA CA CHIÊN DIÊN. 
        
        1. Biện luận phép 
        bình đẳng 
        
        Trong hàng đệ tử của 
        Phật, có hai nhân vật biện luận tài tình đó là Phú Lâu 
        Na và Ca Chiên Diên. Nhưng khi thuyết pháp Phú Lâu Na thiên về 
        số đông, còn Ca Chiên Diên lại thích lý luận với từng 
        người một. 
        Một hôm, Ca Chiên Diên 
        đến phía Tây Ấn Ðộ, nước Ma Thâu (Mathian) truyền đạo, 
        sau khi xem xét dân tình, phong tục địa phương, lề lối 
        sinh hoạt xã hội, Ca Chiên Diên đến yết kiến vua nước 
        Ma Thâu. 
        Thấy Ca Chiên Diên bỏ 
        dòng Bà La Môn, theo dòng Sát Ðế Lợi là một chuyện lạ, 
        vua Ma Thâu hỏi Ca Chiên Diên: 
        - "Ở đời ta chưa 
        thấy ai lại bỏ dòng họ cao quý sinh từ đầu Phạm Thiên, 
        để đi theo dòng họ thấp hơn như Tôn giả. Tại sao lại 
        như thế? Có ai ép buộc chăng? 
        - Ðại vương! Tôi cảm 
        nhận Ðức Phật là bậc đại thánh, lời Ca Chiên Diên. Trước 
        đây, cậu tôi là tiên A Tư Ðà khuyên tôi, tôi rất nghi ngờ, 
        có thể là không xác thật. Vì tôi cũng nghĩ như Ðại Vương, 
        trong đời ai có thể hơn dòng dõi Bà La Môn được. Nhưng 
        khi gặp Phật, nghe Phật khai thị, tôi tự nghĩ, trước đây 
        mình vô cùng lầm lẫn. Với luật Manu, xã hội được chia 
        thành 4 đẳng cấp: - Bà La Môn, Sát Ðế Lợi. Phệ Xá và 
        Thủ Ðà La. Luật này có ra, chẳng qua là do dòng Bà La Môn 
        muốn củng cố uy thế mà đặt ra. Giữa con người với con 
        người, ai cũng dòng máu đỏ, nước mắt mặn, ai cũng chào 
        đời với tiếng khóc, chưa hề có dấu tin-ka ở trán, hay 
        các vòng vàng ở cổ tay, cổ chân. Lớn lên, nếu được học, 
        ai cũng có thể thuộc kinh Veda, vào thương trường, ai cũng 
        có thể biết buôn bán. Sống ở rẫy bái ruộng đồng ai 
        cũng có thể biết cày cấy, được chỉ nghề nghiệp ai 
        cũng có thể sản xuất ra vật tiêu dùng, người không chịu 
        học hỏi tất sẽ ngu dốt. Do đó, có dòng này dòng khác 
        là do Luật Manu và xã hội gán ép cho con người. Hơn nữa, 
        thiện ác hay cao quý, thấp hèn, người dòng nào lại không 
        có. Thế nhưng, trong nhà tù, kẻ làm tôi tớ đều là người 
        thuộc dòng thứ dân. Còn trong dòng Bà La Môn, Sát Ðế Lợi, 
        không hiếm người phạm pháp, làm điều độc ác, nhưng nhờ 
        được che chở bởi dòng họ, người bất lương tội lỗi 
        vẫn ăn trên ngồi trước, thật là bất công! 
        Thái Tử Tất Ðạt Ða 
        vẫn thấy rõ thực trạng của tư tưởng, tôn giáo, xã hội 
        Ấn Ðộ, nên đã từ bỏ cuộc sống vương giả để đi tìm 
        đạo và Thành đạo. Ở đời, từ xưa đến nay, có mấy ai 
        dám từ chối địa vị cao sang, quyền quý và lắm lạc thú 
        như Phật Thích Ca? hiện nay, Phật đang chủ xướng thuyết 
        bình đẳng để xã hội không có cảnh người bóc lột người, 
        người hà hiếp người, người ăn không hết, kẻ làm đầu 
        tắt mặt tối mà vẫn đói khổ. Trong giáo đoàn của người 
        mọi người đều bình đẳng, ai có phẩm hạnh cao tất được 
        tôn trọng, dù đó là người thuộc dòng hạ tiện. 
        Thật đúng là nhà Luận 
        Nghị đệ nhất,Ca Chiên Diên đã thao thao thuyết phục vua 
        Ma Thâu, một cách biện chứng, lôgic. Bởi thế nhà vua đã 
        thể hội giáo pháp bình đẳng của Phật, qua lần gặp Ca 
        Chiên Diên, nhà vua cũng thừa nhận Ca Chiên Diên là nhà biện 
        luận đại tài, và yêu cầu được giới thiệu để quy y 
        Phật. Khi trở thành Phật tử, Vua Ma Thâu áp dụng phép 
        bình đẳng của Phật để điều hành việc nước. Tất cả 
        tù nhân ở các trại giam đều được phóng thích. Ai phạm 
        pháp, có tội đều được đưa đi giáo dục cải tạo, dù 
        đó là người thuộc dòng Bà La Môn hay Sát Ðế Lợi. Nhờ 
        thế cả nước, mọi người đều vui mừng, dân tình an cư 
        lạc nghiệp, nhân dân cả nước Ma Thâu cũng rất cảm kích 
        giáo pháp từ bi, trí tuệ, bình đẳng của Phật Thích Ca. 
        Ca Chiên Diên đến đâu cũng được trọng nể hoan nghênh 
        nhiệt liệt. 
        
        2. Ðạo đức không ở 
        tuổi tác 
        
        Ca Chiên Diên đem giáo 
        pháp bình đẳng của Phật truyền bá khắp nơi, khiến mức 
        độ tôn kính Bà La Môn trong nhân dân ngày một giảm sút. Bởi 
        thế, các Bà La Môn rất oán hận Ca Chiên Diên và luôn luôn 
        tìm cơ hội để đả kích. 
        Một hôm ở Ba La Nại, 
        bên ao Ô Nê, Ca Chiên Diên đang tọa đàm với các Tỳ Kheo 
        đồng học. Trong lúc đó có một Bà La Môn thuộc hàng Trưởng 
        lão đến khiêu khích, ông chống gậy đến đứng cạnh Ca 
        Chiên Diên, nhưng Ca Chiên Diên vẫn điềm tĩnh trong việc tọa 
        đàm, không đứng dậy chào hỏi và nhường chỗ, Ðạo sĩ 
        nổi giận, lên tiếng trách móc: 
        - Các ông còn trẻ, gọi 
        là tu hành, giữ gìn oai nghi tế hạnh, tại sao gặp người 
        già cả, bậc trưởng thượng không chào hỏi, đón tiếp? 
        Các Tỳ Kheo có vẻ bối 
        rối, Ca Chiên Diên vẫn không nao núng, nói: 
        - Chính ông mới là con 
        người mất lịch sự, ông là ai mà đường đột vào đây, 
        la lối ầm ĩ như thế? Phẩm hạnh không ở nơi người đầu 
        bạc. Người không có cung cách, biết tôn trọng sự yên tĩnh 
        của người khác, nhất là trong lúc tọa đàm, học tập, 
        già mà như thế có đáng được trọng vọng không? 
        Nghe Ca Chiên Diên lý luận, 
        ông già Bà La Môn càng nổi nóng hơn cho là Ca Chiên Diên hổn 
        láo rồi cầm gậy đe dọa Ca Chiên Diên. Lửa đỏ, không 
        nên thêm dầu, mặc cho ông già quát tháo, Ca Chiên Diên điềm 
        tĩnh nói: 
        - Ông thô tháo quá, mất 
        hết tư cách cho nên chúng tôi không thể tôn trọng được, 
        tuổi lớn nhưng ông không biết trau dồi tác phong đạo đức, 
        tham đắm sắc trần phiền não, tật đố, si mê... Không 
        buông bỏ tất yếu không bằng tuổi trẻ, đáng được cho 
        người tôn kính, đó là người không ái dục, không tham 
        danh lợi, không nóng nảy, chấp trước... 
        Nghe Ca Chiên Diên nói 
        có lý quá, hết cách phê phán, lão Bà La Môn lầm lũi rút 
        lui. 
        Một hôm khác, có một 
        lão Bà La Môn khác khá giỏi biện luận, từ xứ Câu Thi Na 
        xa xuôi, tìm đến Ba La Nại kêu đích danh Ca Chiên Diên hạch 
        hỏi: 
        - Này Ca Chiên Diên! Ta 
        nghe ngươi bỏ Bà La Môn giáo để theo ông Cù Ðàm phải 
        không? Người phản bội tín ngưỡng lỗi nhiều hay ít? Ông 
        lại hay đem giáo pháp của Phật thuyết dụ các Bà La Môn, 
        vô lễ thật. 
        Nghe Bà La Môn kết đủ 
        thứ tội một cách ầm ĩ, với đức tính điềm tĩnh nhưng 
        lý luận sắc bén, Ca Chiên Diên chậm rãi trả lời: 
        - Ông xem tấm áo cà sa 
        trên thân tôi là biết tôi đã cải tôn giáo rồi, cần gì 
        phải đặt vấn đề. Với tín ngưỡng có nhiều thần quyền, 
        có luật lệ mất bình đẳng, người theo tín ngưỡng đó 
        có đáng để tuân hành không? Người đã biết con đường 
        chính đạo có cần hướng dẫn cho gia đình bạn hữu, người 
        theo tà giáo trở về nẻo chính hay không? 
        Chưa chịu thua, vì mục 
        đích đến để hạ bệ Ca Chiên Diên, lão Bà La Môn hỏi: 
        - Này Ca Chiên Diên! Ngươi 
        là Tỳ Kheo, sao không biết giữ oai nghi tế hạnh, trước đây 
        đã không cung kính một lão Bà La Môn trưởng thượng? 
        Ca Chiên Diên dõng dạc 
        trả lời: 
        - Giá trị con người 
        không ở tuổi tác mà là ở phẩm hạnh. Tôi đã quy y Phật, 
        quy y Pháp của Phật, cho nên đương nhiên tôi không thể chấp 
        nhận tà thuyết vái lạy thầy tà bạn ác, người không có 
        tư cách được, đó là chuyện đương nhiên, mắc mớ gì 
        mà ông thắc mắc? 
        Nghe Ca Chiên Diên đối 
        đáp sắc bén, lão Bà La Môn khâm phục và xin được giới 
        thiệu để gia nhập hàng đệ tử Phật. 
        
        3. Nguyên nhân tranh cãi 
        
        Một buổi sáng sớm, 
        trên đường đi khất thực, một Bà La Môn chận Ca Chiên 
        Diên lại và hỏi: 
        - Tôi nghe tiếng Tôn giả 
        đã lâu mà nay mới gặp, thật là may mắn. Hiện giờ trong 
        tư tưởng, tôi có một thắc mắc mà không giải đáp được, 
        tiện đây xin tôn giả chỉ giúp. 
        - Ông cứ tự nhiên 
        nói, Ca Chiên Diên đáp. 
        - Thưa Tôn giả! Trên 
        thế gian này tôi thấy Sát Ðế Lợi tranh cải với Sát Ðế 
        Lợi, Bà La Môn tranh cải với Bà La Môn. Nguyên nhân gì mà 
        họ lại tranh cải như thế? 
        Ca Chiên Diên đáp: 
        - Vì tham dục mê hoặc. 
        - Thưa Tôn giả! Còn Sa 
        Môn với Sa Môn tranh cải vì lý do gì? 
        - Vì ngã kiến và pháp 
        chấp. 
        - Thế trên cõi đời nầy 
        ai là người không bị tham dục mê hoặc và ngã kiến, pháp 
        chấp để nương theo? 
        Chẳng do dự, Ca Chiên 
        Diên đáp: 
        - Ðức Phật! 
        Ðạo sĩ Bà La Môn cảm 
        thấy lời của Ca Chiên Diên thật xảo tuyệt nên yêu cầu 
        Tôn giả cho được quy y Phật. 
        
        4. Bán nghèo 
        
        Tại nước A Bàn Ðề 
        (Avanti), trên đường đi du hóa, Ca Chiên Diên gặp một người 
        đàn bà ôm một vò nước ngồi khóc nỉ non, bên bờ sông. 
        Cảm thấy cảnh đáng thương, Ca Chiên Diên dừng bước hỏi: 
        - Tại sao lại khóc 
        lóc thê thảm như thế? Hãy cho biết lý do, thử xem tôi có 
        giúp được gì cho bà chăng? 
        - Chắc ông không giúp 
        được gì đâu? Bà ta nói 
        - Nếu không giúp vật 
        chất, tôi có thể chỉ cho bà phương pháp giải quyết, Ca 
        Chiên Diên từ tốn đáp. 
        - Ðời thật là bất 
        công! Bà nói, người giàu thì càng giàu thêm, dư ăn dư xài, 
        kho lẫm tràn đầy. Ngược lại, người nghèo ngày càng xơ 
        xác, đổ mồ hôi mà vẫn không đủ ăn. Cái khó lại bó 
        cái khôn! Không có cách xoay xở. Tôi sinh ra trong gia đình 
        nô lệ khốn cùng, từ khi chào đời đến nay, không lúc 
        nào mà cái khổ không đeo đẳng. Vì thế, đến nay, tôi 
        không còn sức chịu đựng, chỉ muốn đi tìm cái chết may 
        ra mới hết khổ. 
        Ca Chiên Diên đáp: 
        - Không cần khóc lóc, 
        trong cuộc đời nầy đâu phải chỉ có bà nghèo. Thiên hạ, 
        đa phần là người nghèo. Bà thử xem tại nước này có bao 
        nhiêu nhà giàu. Với những thứ tiền của tràn đầy kho lẫm, 
        chắc gì những người giàu đã là không khổ? Vì lòng tham 
        ô không đáy, có một h? lại muốn 10. Lòng tham dục hành hạ 
        con người ghê gớm lắm! Bởi thế, tuy nghèo, nhưng lòng 
        không dơ bợn, biết vừa đủ, là thấy thoải mái hơn. Ðức 
        Phật đã nói - "Người giàu tuy ở thiên đường cũng 
        không vừa ý, người nghèo lại biết vừa đủ tuy nằm trên 
        đất vẫn thấy an lạc". 
        - Ðó là lý thuyết 
        thôi ông ơi! Bà ta nói, thực tế khác hẳn. Người giàu 
        khác với kẻ nghèo. Vì muốn ăn là có ăn, muốn mặc là 
        có mặc. Họ bỏ tiền ra là muốn chi cũng được. Còn 
        nghèo như tôi suốt đời làm nô lệ, làm việc quần quật 
        cả ngày mà đôi lúc còn bị roi vọt chửi rủa, thức từ 
        4, 5 giờ đến quá 12 giờ đêm mà cơm không đặng no, áo 
        rách tả tơi, đúng là nghèo truyền kiếp! Vì thế tôi muốn 
        chết, may ra mới hết thống khổ. Nhưng chết đâu có được. 
        Do đó, có thể nào không khóc được ông ơi! 
        - Vậy bà hãy bán cái 
        nghèo đi, Ca Chiên Diên nói. 
        - Cái nghèo đâu có 
        bán được, Bà nói, ai lại dại dột mà đi mua cái nghèo? 
        - Nếu bà chịu bán 
        tôi sẵn sàng mua. 
        - Thôi đừng đùa, tội 
        quá ông ơi! 
        - Tôi tu hành, đùa với 
        bà có lợi ích gì? Tôi mua thật đấy. Cái nghèo có thể 
        bán lắm chứ? Có điều là người ta không biết cách bán. 
        Phương pháp bán nghèo là bố thí. Mọi sự kiện trên đời 
        đều có nguyên nhân. Giàu là kết quả của sự tu phước bố 
        thí. Còn nghèo là vì đã quá keo kiệt. Vì thế, thực hành 
        hạnh bố thí là phương pháp bán nghèo độc đáo nhất. 
        - Nhưng tôi nghèo rớt 
        mùng tơi, có gì mà để bố thí cho ông. Cái vò trong tay 
        tôi là của chủ Bà La Môn tôi đâu có đem bố thí được. 
        Lỡ tay làm bể là đã bị ăn đòn, huống gì là đem bố thí 
        cho người khác. 
        - Tôi đang khát nước. 
        Vậy bà hãy đem vò nước xuống sông múc nước bố thí cho 
        tôi. Ðó là cách tôi mua nghèo cho bà. 
        Nghe xong, bà liền đi múc 
        nước bố thí và tỉnh ngộ. Nhờ Ca Chiên Diên chỉ dẫn, 
        bà ta thường làm việc bố thí, ít ham muốn, biết vừa đủ, 
        lòng được thoải mái, và cuộc đời trở nên an lạc hơn 
        trước. 
        Nhờ tài luận nghị, 
        suốt đời đi giáo hóa Ca Chiên Diên đã cảm hóa được 
        nhiều người, dẫn dắt người nghèo về với Ðức Phật, 
        ai cũng thấy an lạc ngay trên cõi đời này. 
        III- NHẬN 
        THỨC VÀ KẾT LUẬN 
        * Ðức Phật ra đời với 
        mục đích chính yếu là khai hóa cho nhân loại chúng sinh biết 
        con đường giác ngộ và giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. 
        Tuy nhiên không phải vì thế mà Phật bỏ quên vấn đề xây 
        dựng con người, xây dựng xã hội. Ðó là mầm móng cho giải 
        thoát sinh, già, bịnh, chết. Mầm móng không xây thì lâu đài 
        không có chỗ dựa vững chắc. Trong kinh Bách Dụ có câu 
        chuyện: 
        
          - Người mướn thợ 
          xây nhà mà chỉ đòi xây lầu không cần xây nền móng, người 
          đời gọi đó là: Xây nhà trên nền cát. Việc làm đó chẳng 
          bao giờ thực hiện được. 
         
        * Trong kinh Phật dạy: 
        Phật pháp bất ly thế gian giác, ly thể mích Bồ Ðề do nhu 
        cầu thế giác. (Phật pháp không ngoài thế gian mà giác ngộ, 
        xa lìa cuộc đời mà tin Bồ Ðề, giống như tìm lông rùa sừng 
        thỏ). 
        * Một trong những 
        nguyên nhân thúc đẩy Tất Ðạt Ða xuất gia chính là xã hội 
        không bình đẳng, không an lạc của Ấn Ðộ lúc bấy giờ. 
        * Noi gương Ðức Phật, 
        trên đường đi bố giáo Ca Chiên Diên đến gặp vua nước 
        Ma Thâu. Nhân cơ hội nhà vua kích bác vấn đề bỏ đẳng cấp 
        cao theo đẳng cấp thấp của mình, Ca Chiên Diên đã đem 
        thuyết bình đẳng diễn giảng. 
        
          Sau cuộc hội kiến với 
          Ca Chiên Diên, Vua nước Ma Thâu áp dụng giáo pháp bình đẳng 
          vào xã hội, nhờ đó nước Ma Thâu được an lạc, không 
          còn cảnh người bóc lột người, kẻ nô lệ luôn luôn chịu 
          cảnh nô lệ, người Bà La Môn, Sát Ðế Lợi, cứ tiếp tục 
          ăn trên ngồi trước dù phạm pháp, ác độc. Qua câu chuyện 
          vua nước Ma Thâu, thực hành pháp bình đẳng trong công 
          tác xây dựng xã hội cho thấy Ðạo Phật không tiêu cực, 
          xa thực tế... để đi tìm một thế giới trên 9 tầng 
          mây. 
         
        * Ngoài truyền bá giáo 
        thuyết bình đẳng, Ca Chiên Diên còn đề cao giá trị con người 
        qua phẩm giá đạo đức. Ðể từ đó có tinh thần vị tha, 
        bố thí, giúp cho con người hết đói nghèo và đặc biệt là 
        loại trừ tính tham dục, mê hoặc, ngã kiến, ngã chấp, để 
        sống hòa hợp không tranh cãi. 
        * Với những tinh thần 
        đạo lý, qua các cuộc hùng biện của Ca Chiên Diên, ngày 
        nay con người cần được phổ biến, học hỏi. Bởi vì cuộc 
        sống của con người giữa Nam và Bắc còn chênh lệch, có 
        những nơi còn quá đói nghèo, cần được giúp đỡ. Ðặc 
        biệt và có thể nói là nguy hiểm hơn giữa Ðông và Tây 
        đang âm thầm giữ miếng với nhau, dù có kêu gọi xích lại 
        gần nhau nhưng thực sự còn có khoảng cách quá rộng! 
        * * * 
        
        CÂU HỎI THẢO LUẬN 
        
          1. Ðể được toàn 
          bích, Tăng sĩ cần học hỏi những gì? 
          2. Dòng họ và biện 
          tài của Ca Chiên Diên như thế nào? 
          3. Trong trường hợp 
          nào, biện luận pháp bình đẳng? 
          4. Các đạo sĩ Bà La 
          Môn khiêu khích Ca Chiên Diên qua những gì? Ca Chiên Diên đã 
          biện luận như thế nào? 
          5. Nguyên nhân nào con 
          người thường tranh cãi nhau? 
          6. Với bà lão ôm vò 
          ngồi khóc, Ca Chiên Diên đã khuyến hóa như thế nào? 
          7. Với những tinh thần 
          đạo lý mà Ca Chiên Diên đã tranh biện, ngày nay, con người 
          có cần không? Tại sao? 
         
        
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | 1.01 
        | 1.02 | 1.03 | 1.04 
        | 1.05 | 1.06 | 1.07 
        | 1.08 | 
        | 2.01 | 2.02 | 2.03 
        | 2.04 | 2.05 | 2.06 
        | 2.07 | 2.08 | 2.09 
        | 2.10 | 3 | Mục 
        lục  |