Bài 3
Tôn giả
PHÚ LÂU NA
(Purana - Thuyết pháp đệ nhất)
-ooOoo-
N gười
đời có câu: "Muốn bắt cọp hãy vào hang cọp". Muốn
vào hang cọp lại phải cần can đảm, không can đảm không
thể nào bắt được cọp; Người chiến sĩ muốn thắng kẻ
thù cần phải can đảm xông pha ở chiến trường. Cũng thế,
người hành đạo phải can đảm chịu mọi thử thách. Có
can đảm, thắng lướt mọi gian lao mới thành tựu được sự
nghiệp đời hoặc đạo. Trong số 10 đại đệ tử của Phật,
Phú Lâu Na trở thành một vị thuyết pháp đệ nhất nhờ
đức can đảm, đi bất cứ nơi đâu, kể cả xứ bạo ngược
nhất. Còn kể thứ bậc trong giáo đoàn, Phú Lâu Na được
xếp vào hàng thứ 3 trong Thánh chúng, sau Xá Lợi Phất và Mục
Kiền Liên.
I- DÒNG
HỌ VÀ DANH HIỆU CỦA PHÚ LÂU NA
Ở Ấn Ðộ, dòng họ
Phú Lâu Na có danh tiếng lại giàu có. Phú Lâu Na rất được
cha mẹ thương yêu. Tôn giả có khuôn mặt tròn đầy, mắt
chan chứa vẻ từ hòa, người độ lượng khoan dung, nhưng rất
can đảm. Như bao nhiêu người khác ở Ấn Ðộ, người con
được gọi bằng tên mẹ. Theo tiếng Phạn gọi cho đủ là
Phú Lâu Na Ði Ða La Ni (Pràna Maitràgani puttra), gọi tắt là
Phú Lâu Na (Puràna), người Trung Quốc dịch tắt là Mãn Từ
Tử, tức là con của bà Mãn Từ.
Danh hiệu của tôn giả
biểu hiện một con người có hoài bảo vô tận, có lòng từ
vô tận như non cao, núi rộng, sông dài. Về sau, khi đã xuất
gia, đi du hóa, giáo pháp mà tôn giả tuyên truyết cũng trường
mãn vô cùng.
II - ÐẠO
NGHIỆP CỦA PHÚ LÂU NA
1. Phú Lâu Na được Ðức
Phật thọ ký.
Ngoài đức tính từ
hòa, do truyền thống dòng họ huân đúc, Phú Lâu Na còn có
tài hùng biện. Với tài sẵn có, Phú Lâu Na đã giúp Phật
truyền bá chánh pháp khắp nơi và được mọi tầng lớp dân
chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Tại nước Kiều Tát Di, tôn
giả đã thuyết phục chúng Tỳ Kheo ẩn cư đi bố giáo.
Trông chúng hội có Tỳ Kheo làm việc tà, tôn giả đã sử
dụng ngôn ngữ xảo diệu để cản ngăn. Tại núi Kỳ Xà
Quật, trong cuộc kiết tập kinh điển về phần Luật Tạng,
Maha Ca Diếp đem 8 pháp ẩm thực ra yêu cầu các Tỳ Kheo phải
giữ. Theo Phật, trong hoàn cảnh đặc biệt, Tỳ Kheo có thể
có 8 điều tùy nghi không bị ngăn cấm: - Chứa thức ăn
trong phòng, nấu nước trong tự viện, tự nấu, tự lấy thức
ăn, từ chỗ khác đem thức ăn về, ăn các thứ trái cây,
ăn những thực vật sản xuất từ hồ ao và không ăn cá thịt.
Phú Lâu Na đã đứng về
phe tự do, nên đã chống 8 việc mà Ca Diếp cấm các Tỳ
Kheo. Ðiểm đặc biệt mà Phú Lâu Na đã được trội hơn các
đại đệ tử là tinh thần bố giáo cao độ.
Tôn giả không những
thường xuyên đi bố giáo mà cả những nơi xa xôi hẻo
lánh, dân tình bạo ngược, Tôn giả đều can đảm xung
phong. Bởi thế: TÔN GIẢ PHÚ LÂU NA ÐƯỢC TÔN XƯNG LÀ VỊ
THUYẾT PHÁP ÐỆ NHẤT.
Thấy Phú Lâu Na có đức
từ ái, tín tâm thâm hậu, hùng biện xảo diệu và bố
giáo cao độ, Phật đã hết lời tán dương và thọ ký cho
Phú Lâu Na trong tương lai sẽ trở thành Phật hiệu là Pháp
Minh Như Lai, tại thế giới ta bà nầy. Lúc đó, người tịnh
nên độ cũng vô cùng an tịnh, con người không tâm phân biệt
chủng tộc. Cuộc sống bình đẳng, xã hội không có kẻ phản
nghịch trộm cướp, tranh chấp...
2. Phú Lâu Na bố giáo
ở Duna
Trong sự nghiệp thuyết
pháp độ sinh, Phú Lâu Na không cần khen ngợi, cung kính,
không ngại khó khăn, gian khổ. Dù những nơi hẻo lánh xa
xuôi, đầy ác độc, Phú Lâu Na cũng nhiệt tình, tìm cách
đến đó truyền bá chính pháp.
Theo thông lệ hằng năm,
sau mùa an cư, Phật lại phân bố các đệ tử đến các địa
phương truyền đạo. Trong danh sách các giáo khu, Tôn giả thấy
không có tên nước Du Na (Suna). Phú Lâu Na hỏi Phật lý do,
Phật cho hay nơi đó quá xa xôi hẻo lánh, đường đi hiểm
trở, dân tình rất dã man, bạo ngược. Vì ngại nguy hiểm
đến tính mạng cho giáo sĩ, nên Phật không ghi tên nước
Du Na vào danh sách và phân bố chúng đệ tử đi đến đó
truyền giáo. Phú Lâu Na xin Phật được đến đó Bố giáo.
Phật hỏi: - Ông không
sợ nguy hiểm sao?
Không biểu lộ một
nét mặt lo sợ, lại tỏ ra can đảm, cương quyết, Phú Lâu
Na mỉm cười và bạch Phật:
- Bạch Ðức Thế Tôn!
Người xuất gia phải có chí thượng cầu hạ hóa, muốn
thành tựu sự nghiệp, dù ở lãnh vực nào, con người cần
phải vượt qua khó khăn gian khổ. Có gian nguy thành công mới
vinh hiển. Chông gai là điều kiện thử thách con người.
Ánh sáng Phật pháp cần bình đẳng soi rọi khắp nơi, Phật
pháp cần phải được truyền bá đến đó, có ánh sáng Phật
pháp, con người mới được cải thiện, bóng tôi mê muội
được đánh tan... Dù có thịt nát xương tan, con nguyện đến
đó, đến nước Du Na để thuyết pháp.
Ðể xem Phú Lâu Na can
đảm đến mức độ nào, Ðức Phật hỏi:
- Này ông Phú Lâu Na!
Giả sử đến Du Na, người ta chửi rủa, nhục mạ ông,
thì ông nghĩ sao và xử lý bằng cách nào?
- Bạch đức Thế Tôn!
Họ vẫn còn tốt đối với con vì chưa đến nổi dã man, họ
chỉ chửi mắng mà chưa đem gậy gộc để đánh con.
- Nếu họ dùng roi, gậy,
gạch ngói đánh chọi ông thì sao?
- Con thấy họ còn tốt,
vì họ chỉ mới rượt đuổi mà chưa gây thương tích cho
con.
- Nếu họ dùng dao búa
gây thương tích cho ông?
- Con vẫn còn cảm ơn
họ, vì họ còn tốt, còn lương tri chưa nỡ giết chết
con.
- Nếu họ giết ông?
- Con lại cảm ơn họ
bội phần, vì họ đã giúp con từ bỏ xác thân hư ảo, ô
trược, sớm nhập Niết Bàn. Ðó là dịp may hiếm có, chết
vì truyền bá chánh pháp, con sẵn sàng đón nhận mà không
có gì ân hận, có ân hận chăng là tiếc cho con chưa được
nghe chánh pháp, thấy con đường giải thoát sinh tử luân hồi
nghiệp báo.
Với những lời dũng cảm chưa từng nghe, Phật
cảm động khen rằng:
- Nầy ông Phú Lâu Na!
Ông là một con người rất can đảm, xứng đáng là đệ tử
của ta. Hạnh tu đạo bố giáo, nhẫn nhục của ông thật
là siêu tuyệt hiếm có.
Nói lời ban khen Phú Lâu xong, hướng về chúng
đệ tử, Phật nói:
- Nầy các Tỳ Kheo!
Phú Lâu Na là một con người can đảm trong sự nghiệp thuyết
giáo độ sinh đang được tán dương. Trong công tác đi truyền
giáo, một giảng sư cần có những đức tính sau đây:
1- Thông hiểu giáo
nghĩa
2- Nói năng lưu loát
3- Không lo sợ trước đám đông
4- Biện tài vô ngại
5- Vận dụng phương tiện khôn khéo
6- Tùy theo cảnh cơ mà bố giáo
7- Ðầy đủ oai nghi
8- Tinh tấn dũng mãnh
9- Thân tâm tráng kiện
10- Có đầy đủ uy lực.
Nấy các Tỷ Kheo! Phú
Lâu Na là một con người có đầy đủ các đức tính đó,
ta không còn e ngại gì nữa mà không ủy thác cho Phú Lâu Na
đến Du Na để bố giác.
Ðúng như Phật đã đánh
giá, tại xứ Du Na Phú Lâu Na không những không bị hề hấn
gì mà sự nghiệp bố giáo lại đạt được kết quả rực
rỡ. Ở Du Na chưa đầy một năm, Phú Lâu Na đã thu vào
giáo đoàn hơn 500 đệ tử, và kiến lập khoảng 50 cảnh
già lam.
Phú Lâu Na xứng danh
là thuyết pháp đệ nhất,được như thế là nhờ tôn giả
đã thành tựu được 4 phép bồ tát.
1) Ðối với giáo
pháp chưa từng nghe, tôn giả luôn luôn tỏ thái độ trầm
tỉnh, để tư duy nghĩa lý không vội phê phán.
2) Không cần đa văn,
vì đa văn dục tâm dễ khởi; không cần nhàn hạ, vì
nhàn hạ lạc tâm dễ sinh. Ngược lại lo tu tứ quán để
đoạn tham dục, tu nhân duyên quán để đoạn ngu si.
3) Thấu rõ triệt để
5 ấm, 12 nhập, 18 giới, 12 nhân duyên, để thành tựu trí
vô sở đắc, trí vô sư, có thành tựu trí đó mới hết
niệm phân biệt và nhờ đó mới đủ sức tuyên dương đạo
pháp.
4) Rộng thực hành bố
thí, sau nghiêm trì giới luật, thường dũng mãnh, nhẫn nhục,
tịnh tinh tấn Bồ Ðề.
III- CUỐI
CUỘC ÐỜI CỦA PHÚ LÂU NA
Sau Phật Niết Bàn 3
tháng, tại núi Kỳ Xà Quật Ma Ha Ca Diếp tổ chức kết tập
kinh luật. Vì đi thuyết pháp xa về muộn, Phú Lâu Na được
Ca Diếp trình bày lại diễn tiến của cuộc kiết tập và
nói: - Kinh luật kiết tập gần xong, Tôn giả có ý kiến
gì cần phát biểu xin cho biết?
Phú Lâu Na đồng ý tất
cả, riêng 8 phép ăn uống Phú Lâu Na không đồng ý với Ca
Diếp. Sau cuộc tranh cãi, Ca Diếp không chịu thay đổi, theo
đúng ý chỉ của Phật. Vì quan điểm tự do, Phú Lâu Na
nói với Ca Diếp:
- Với 8 phép ăn uống,
tôi không chấp nhận theo quan điểm của Ngài. Tôi nhất quyết
theo ý chỉ của Ðức Thế Tôn.
Nói xong, tôn giả Phú
Lâu Na lại lên đường tiếp tục hành trình hoằng pháp. Về
sau, chúng ta không rõ Phú Lâu Na Niết Bàn lúc nào và ở đâu.
Vì chưa thấy tài liệu khảo cứu ghi chép.
IV- NHẬN
THỨC VÀ KẾT LUẬN
Là đệ tử của Phật,
cần phải đem giáo pháp của Phật truyền bá sâu rộng để
khai thị cho mọi người. Trong những thời kỳ mà cuộc đời
đang đen tối bởi si mê, tham ái, ngã chấp, ác độc... ánh
sáng trí tuệ của đạo Phật lại cần thiết hơn bao giờ
hết, như xứ Du Na, thời Phật còn tại thế chẳng hạn. Bởi
thế, Phú Lâu Na đã can đảm lên đường đi bố giáo. Từ
đó, trong hàng Thánh chúng, tôn xưng Phú Lâu Na là một bậc
thuyết pháp đệ nhất.
Tuy nhiên lòng can đảm
không chưa đủ, nếu không có tài hùng biện, lòng từ ái,
oai nghi, đĩnh đạc... Sự can đảm có thể trở thành liều
lĩnh. Tại Du Na, Phú Lâu Na thành công nhờ có đầy đủ các
đức tính cần thiết đó. Với phong cách bố giáo của Phú
Lâu Na cho chúng ta thấy rằng phương pháp truyền bá tư tưởng
của Ðức Phật, của Phật giáo khác hẳn với các tôn
giáo. Phật giáo truyền đạo không kèm theo lưỡi gươm, không
núp hình dưới những chiêu bài khai hóa, không kèm theo danh
lợi vật chất...
Bởi thế lịch sử Phật
pháp không làm tổn hại cho bất cứ một người nào, một
quốc gia xã hội nào. Sự truyền bá Ðạo Phật luôn luôn
mang tính nhân bản, tôn trọng mọi truyền thống tốt đẹp
của các dân tộc. Phật giáo là một bông hoa tô điểm cho
các dân tộc thêm tươi thắm. Phật giáo cũng là một bông
hoa rất mềm mại, nhưng không vì thế mà dễ dàng bị bẻ
gãy. Tại Ấn Ðộ, sau thời gian Ðức Phật qua đời, vua A
Dục (Asoka), Ca ni sắc ca (Kanisca), Bà La Môn giáo sống dậy,
Phật giáo bị càn quét, nhưng tư tưởng Ðức Phật không
vì thế mà bị mai một. Tại Trung Quốc qua nạn tam võ, đặc
biệt là Võ Tôn nhà Ðường. Việt Nam vào cuối nhà Trần,
Phật giáo vẫn không bị tiêu diệt.
Ngày nay với đà tiến
của khoa học, con đường bành trướng của các tôn giáo
có phần chùn lại, ngược hẳn với Phật giáo, đặc biệt
là các nơi ở Trời Tây, nơi cha đẻ của khoa học, Phật
giáo đang đà phát triển, nhiều người hướng về Ðông phương
tìm hiểu Ðạo Phật. Do đó, chúng ta tin rằng Phật giáo
không thể bị tiêu diệt, khi con người chưa phải là Thánh
nhân, cuộc đời còn lắm thăng trầm, chưa trở thành tịnh
lạc.
Chúng ta hãy noi gương
Phú Lâu Na, nối chí tiền nhân, đem giáo pháp của Ðức Phật
soi rọi cho những ai còn nghiệp chướng, tham sân, chấp
ngã... để góp phần kiến tạo một thế giới an bình tịnh
lạc...
* * *
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Dòng họ và danh hiệu
của Phú Lâu Na như thế nào?
2. Nhờ đâu Phú Lâu
Na được Ðức Phật thọ ký?
3. Tại sao Phú Lâu Na
tình nguyện đến Du Na bố giáo?
4. Phật thử thách
Phú Lâu Na như thế nào?
5. Ðể trở thành một
giảng sư cần có điều kiện gì?
6. Phú Lâu Na đã
thành tựu được những pháp gì?
7. Sự liên hệ phương
thức truyền giáo giữa Phú Lâu Na và lịch sử truyền bá
Phật giáo như thế nào?
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.01
| 1.02 | 1.03 | 1.04
| 1.05 | 1.06 | 1.07
| 1.08 |
| 2.01 | 2.02 |
2.03 | 2.04 | 2.05
| 2.06 | 2.07 | 2.08
| 2.09 | 2.10 | 3
| Mục lục |