T
rong 
      thời gian 45 năm Phật giáo hóa, Ngài A Nan làm thị giả. Phật 
      luôn luôn có Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên trợ lý. Hai 
      tôn giả nhiều lần thay Phật đi truyền giáo đó đây. Hai vị 
      là bạn tâm giao, lúc đầu theo phái San xa dạ, sau ngộ lý 
      duyên sinh trở về với Ðức Phật. Xá Lợi Phất là bậc 
      trí tuệ đệ nhất đứng đầu hàng Thánh chúng, nhưng nghị 
      lực dứt kiệt sử không nhanh bằng Mục Kiền Liên. Với các 
      lậu hoặc trong thời gian 7 ngày, Mục Kiền Liên đã dứt sạch, 
      và có thần thông đệ nhất. Ðứng hàng thứ hai trong Thánh 
      chúng.
      I- DÒNG HỌ 
      VÀ CHÍ KHÍ MỤC KIỀN LIÊN.
      Trong kinh điển và trong 
      sách vở không ghi rõ nguyên quán của Mục Kiền Liên, nhưng 
      qua sự kiện Mục Kiền Liên là bạn tâm giao của Xá Lợi Phất 
      hồi còn thanh niên. Từ đó, có thể Mục Kiền Liên sinh trưởng 
      ở phía Bắc Ấn Ðộ, nước Ma Kiệt Ðà. Thân phụ của tôn 
      giả tên là Câu ly Ca (Kolita). Thân mẫu thuộc dòng họ Mục 
      Kiền Liên. Thông thường ở Ấn Ðộ, người ta hay gọi tên 
      con bằng họ của người mẹ. Bởi thế, tôn giả có tên Mục 
      Kiền Liên (Moggallanaputta).
      Trong kinh có chỗ gọi 
      tôn giả là Câu Ly Ca hay Câu Luật Ðà. Nhưng hai tên sau không 
      thông dụng bằng tên Mục Kiền Liên. Tôn giả có hình dáng 
      cao lớn, mặt vuông, tai dài, tính cứng rắn, lạc quan, khí tiết 
      hùng dũng, ít khuất phục việc trái chính nghĩa. Vì thế, dù 
      đã theo Sanxa da, 1 trong 6 phái Lục sư ngoại đạo, Mục Kiền 
      Liên đã cùng với Xá Lợi Phất lập một học phái riêng. 
      Sau một thời gian, mỗi vị đã có 100 đệ tử. Khi thấy thuyết 
      duyên sinh của Phật là siêu tuyệt, cả 2 đã tìm về với Phật. 
      Xá Lợi Phất luôn luôn ở bên tay phải, còn Mục Kiền Liên 
      luôn luôn ở bên tay trái của Ðức Phật. Trong khi các đệ tử 
      của Phật còn đang tu học, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên 
      đã thay Ðức Phật đi truyền bá chính pháp. Với dũng chí, Mục 
      Kiền Liên không hề ngại khó khăn, không chịu thỏa hiệp. Với 
      sức thần thông sẵn có, Mục Kiền Liên không chịu khuất phục 
      ngoại đạo, thường tìm cách áp đảo giành phần thắng.
      II- ÐẠO 
      NGHIỆP CỦA MỤC KIỀN LIÊN.
      
      1. Mục Kiền Liên với 
      phép thần thông
      
      Trong hàng Thánh chúng hay 
      10 đại đệ tử của Phật, MỤC KIỀN LIÊN LÀ VỊ THẦN 
      THÔNG ÐỆ NHẤT, ÐỨNG ÐẦU TRONG HÀNG THÁNH CHÚNG. Trong mọi 
      tình huống, Mục Kiền Liên thường hay sử dụng phép thần 
      thông; khi đi truyền giáo Mục Kiền Liên dễ dàng chinh phục 
      được người. Nhưng pháp căn bản của Ðạo giải thoát 
      không phải là thần thông. Với nghiệp lực của con người 
      thần thông không thể giải cứu. Với phép thần thông có thể 
      khuất phục được người dễ dàng, nhưng chưa hẳn lòng người 
      đã không oán giận.
      Dù bị Phật quở Mục 
      Kiền Liên vẫn sử dụng phép thần thông để làm phương tiện. 
      Ngày Tỳ Lưu Ly kéo binh đội đến vây hãm thành Ca Tỳ La Vệ; 
      Mục Kiền Liên đã dùng thần thông đến cứu dòng họ Thích 
      Ca bị bách hại, thành Ca Tỳ La Vệ vẫn bị hỏa thiêu. Mục 
      Kiền Liên cũng đã không cứu được mẹ bằng phép thần 
      thông. Ngay chính Mục Kiền Liên cũng đã không thắng được 
      nghiệp báo để thoát chết bởi bọn ngoại đạo, khi Mục Kiền 
      Liên đến truyền đạo tại thành Thất La Phiệt. Ðó là chưa 
      kể đến trường hợp người có thần thông sẽ lợi dụng 
      phép đó để làm việc bất chính. Ðề Bà luôn luôn có dự 
      mưu thay Phật lãnh đạo giáo đoàn. Vì thấy được lòng dạ 
      đen tối của Ðề Bà, Phật đã không dạy cho Ðề Bà tu luyện 
      phép thần thông.
      Giá trị của thần 
      thông là để giúp người tu chứng thấy xuyên suốt thời 
      gian vô cùng và không gian vô tận, để biết được mọi vấn 
      đề, mọi sự kiện, kể cả những gì sâu kín nhất trong 
      lòng người. Nhưng, Phật vẫn không đặt nặng vấn đề tu 
      luyện thần thông.
      
      Trong kinh điển Phật giáo, có kể một mẫu chuyện 
      Phật đánh giá thần thông rằng:
      
      - Một hôm có một vị 
      đạo sĩ Bà La Môn đang trổ tài phép thần thông bên một bờ 
      sông cho quần chúng hiếu kỳ xem. Khi thấy Phật từ xa đi đến, 
      đạo sĩ còn biểu diễn nhiều trò hấp dẫn với mục đích 
      khoe khoang. Phật hỏi vị đạo sĩ phải tu luyện bao lâu mới 
      có được phép thần thông và chứng quả gì. Ðạo sĩ cho biết 
      là đã tu luyện trên 30 năm. Khi đạt được thần thông có 
      thể bay đi tự tại và qua sông không cần đò. Phật nói: Nếu 
      phải mất một nửa đời người, phải tu luyện để bay qua 
      dòng sông khỏi phải mất một đồng xu thì giá quá đắt.
      
      2. Mục Kiền Liên độ bà 
      bán bánh
      
      Một hôm, trên đường 
      đi khất thực, Mục Kiền Liên dừng chân trước một nhà bà 
      bánh bánh ít trần, thứ bánh ngọt mà không bọc lá. Thấy 
      bà không đem vật thực ra cúng dường, đoán biết là bà này 
      có tâm keo kiệt, Mục Kiền Liên cố tình đứng lại chờ đợi, 
      để bà gieo công đức phước điền.
      Không những không cúng dường, 
      bà còn xua đuổi tôn giả, bà nói:
      - Làm gì mà sáng sớm 
      ông đến đứng án nhà tôi thế? Ông có biết rằng tôi đang 
      hông bánh chưa có buôn bán được gì cả chăng? Xin mời ông 
      đi mau cho với để sáng sớm tôi khỏi mất hên.
      - Xin Bà cho tôi một nắm 
      cơm, nếu không bà cho tôi một cái bánh cũng được, Mục Kiền 
      Liên năn nỉ.
      - Tôi nghèo lắm ông ơi! 
      Bà già nói, ông không thấy nhà tôi đang siêu vẹo, sau trận 
      cuồng phong chưa sửa được đấy à! Còn xin bánh, tôi đã bảo 
      bánh chưa chín mà, ông nầy lẩn thẩn thật.
      - Nếu bà khôg cho, tôi 
      hóa phép làm gió thổi sập nhà bà luôn.
      - À! Thế ông có biết 
      làm phép ư? Nếu có phép ông thử chết xem sao? Nếu thực sự 
      ông có thể biến hóa chết được, tôi sẽ cho. Với thần 
      thông đã chứng, Mục Kiền Liên đã rùng mình 3 lần rồi lăn 
      ra chết.
      Thấy thây chết khiếp 
      quá, nhưng vì tâm keo kiệt, bà nói:
      - Ðã là xác chết, còn 
      ăn uống gì được mà cho, giờ thì ông còn báo đời, tôi phải 
      chôn cất thây ma, thật đến khổ!
      Mục Kiền Liên đứng dậy 
      và nói:
      - Giờ nầy, tôi là người 
      bình thường, ăn uống được, xin bà hãy đem vật thực cho tôi.
      - Tôi đã bảo là tôi 
      nghèo rớt mùng tơi mà! Xin ông hãy dời gót gấp cho với, để 
      tôi còn lo sinh kế nữa chứ.
      - Bà đã biết tôi có 
      phép, Mục Kiền Liên nói: Sẵn có tảng đá bên đường, nếu 
      bà không cho vật thực, tôi sẽ mang tảng đá thả đè bẹp 
      nhà bà ngay tức khắc.
      Giận quá, nhưng lại sợ 
      sập nhà, nhân đang hông bánh (nấu cách thủy), bà mở vung, 
      chọn một cái bánh nào nhỏ nhất để cho hầu khỏi rắc rối. 
      Lúc này, bà thấy cái bánh nào cũng to lớn, cho thiệt hại cả 
      vốn và lời. Dù bánh đã được xoa dầu để khỏi dính 
      nhau, nhưng bà càng xáo tìm cái bánh nhỏ nhất thì bánh càng 
      dính chùm với nhau. Giận quá, bà khuân cả nồi để trước 
      Mục Kiền Liên và nói: - Ông hại tôi quá, làm bánh tôi dính 
      chùm với nhau hết. Hỏng hết rồi, ông mang luôn cả nồi nầy 
      về mà ăn cho thỏa.
      Thấy ý cho bánh trong sự 
      tức giận, nhưng thiện tâm đã bắt đầu được nhen nhúm, Mục 
      Kiền Liên gắp một cái bánh để vào bình bát, rồi tạ từ 
      bà già và tiếo tục lên đường.
      
      3. Mục Kiền Liên trước 
      sắc đẹp.
      
      Một lần khác, nhân đi 
      khất thực, ngang qua một khu vườn rất là nên thơ, Mục Kiền 
      Liên gặp một phụ nữ tuổi trung niên rất kiều diễm. Bà 
      này đón Mục Kiền Liên lại và mời vào rừng nói chuyện. 
      Biết chuyện chẳng lành, chuẩn bị nếu có bị hại khi 
      không chiều ý bà ta, thì sẽ đem sức thần thông chống trả, 
      Mục Kiền Liên liền từ chối và nói:
      - Bà không nên đem sắc 
      đẹp mê hoặc tôi, con người của bà bên ngoài vui tươi, ngọt 
      ngào nhan sắc, nhưng chắc chắn lòng bà không khác một cuộn 
      chỉ rối. Bà đang có một tâm sự uất nghẹn nên mượn sắc 
      đẹp sẵn có để giết thời gian, hầu quên lãng tất cả, 
      xin lỗi bà chớ phiền, tôi thẳng thắn khuyên bà không nên 
      chơi với lửa, lội vào vũng sình, nguy hiểm lắm! Càng lao 
      vào con đường trụy lạc, tâm hồn càng thêm dơ bẩn. trong 
      vũng bùn, bà càng cố vẫy vùng thì bà càng lún sâu, khó 
      thoát khỏi tội lỗi. Thiện tâm của bà chưa hẳn đã mất, 
      Bà nên quay bướng chưa muộn lắm đâu.
      Nghe nói đúng quá, bà ta 
      giật mình, khóc sùi sụt và thưa:
      - Thưa tôn giả! Tôi vẫn 
      biết thế, nhưng không có con đường nào hơn. Tôi mượn lạc 
      thú để quên hết uẩn khúc của cuộc đời, quên quá khứ 
      đau thương.
      Mục Kiền Liên bình thản 
      khuyên:
      Thông thường, với những 
      điều càng cố quên, thì càng nhớ, càng nhớ lại càng thấy 
      đau... Càng đau thì lòng càng căm tức, càng oán tức lại có 
      thể phát điên khùng. Lúc đó, hết biết phương cứu chữa, 
      ở đời có 2 con người mạnh nhất là:
      - Người không có tội lỗi. 
      Người có tội lỗi mà biết ăn năn, sám hối. Thân thể, quần 
      áo dơ bẩn dùng nước giặt rửa. Nước trên sông ô uế khi 
      vào biển cả đều được lóng trong. Tâm hồn nhiễm đầy trần 
      cấu, Phật pháp có năng lực làm cho trong sạch, thánh thiện.
      Nếu biết sám hối bà sẽ 
      hết tội, tăng phước, trở nên con người gương mẫu.
      - Nhưng tội lỗi quá nhiều, 
      sám hối bao giờ mới hết tội! Bà ta nói, tôi đã mượn tiền 
      tài và sắc đẹp làm lung lạc không biết bao nhiêu người đàn 
      ông nhẹ dạ. Tôi đã phá tan hạnh phúc của nhiều gia đình, 
      rồi tôi cũng bị người cùng phái nguyền rủa, có lần tôi 
      suýt toi mạng. Nếu tôi phơi bày hết tâm sự, chắc tôn giả 
      càng khinh ghét tôi bội phần, với giáo pháp của Phật khi 
      nghe bà bộc lộ tâm hồn, tôi sẽ tăng thêm từ ái, không có 
      khi dễ gì đâu.
      Nghe thế, rất yên tâm, 
      bà ta kể:
      - Tôi là con của Trưởng 
      giả ở Thành Ðức Xoa Tỳ La, tên là Liên Hoa Sắc, lúc lên 
      16 tuổi tôi lấy chồng, chẳng may cha chồng chết sớm mẹ chồng 
      tôi còn xinh đẹp, và sinh lý còn cường thịnh, do đó bà ta 
      đã khuynh đảo chồng tôi, phạm tội loạn luân. Quá buồn, 
      tôi xin ly dị, để lại cho chồng tôi một bé gái, rồi tôi 
      đi lang thang như kẻ mất hồn. Vì buồn, tôi lại kết bạn với 
      một chàng thương gia trẻ tuổi. Tôi ở nhà lo việc quản 
      gia, chồng tôi lại đi đó đi đây để buôn bán. Làm ăn phát 
      đạt, lắm tiền của lại sinh tật, một chuyến đi buôn xa 
      trở về, chồng tôi đem về một hầu thiếp son trẻ, gởi 
      ở nhờ nhà một người bạn hữu. Thường mượn cớ đến 
      nhà bạn hàn huyên, chồng tôi ít ngủ ở nhà. Nghe bà con xì 
      xầm, tôi nổi cơn ghen, quyết tìm cho bằng được và ăn thua 
      đủ với con quỷ cái đã ám hại gia đình tôi. Không ngờ 
      khi chạm mặt nhau, hầu thiếp của chồng tôi chính là con 
      gái đời chồng trước của tôi.
      Oan trái gì mà ghê thế! 
      Bà già tôi lại đi cướp chồng của tôi. Rồi con tôi và 
      tôi lại cùng chung một chồng. Xưng hô như thế nào cho phải 
      đạo lý? Uẩn khúc như thế hỏi ai có còn chịu đựng nổi?
      Khi tỉnh lại, không giữ 
      được thăng bằng của tâm hồn, tôi lại bỏ nhà ra đi, mượn 
      những cuộc truy hoan đó đây đùa cợt cho vơi sầu. Chuyện 
      đời của tôi thật quá bi thảm, tôn giá có đủ năng lực 
      để cứu vớt tôi chăng?
      Nghe tâm sự não nùng của 
      Liên Hoa Sắc, Mục Kiền Liên đem thuyết duyên sinh, thiện ác 
      nghiệp báo, nhân quả luân hồi giảng giải cho Liên Hoa Sắc 
      nghe.
      Khi thấy Liên Hoa Sắc 
      có thể hồi tâm, Mục Kiền Liên hướng dẫn Liên
      Hoa Sắc về bái yết Ðức 
      Phật. Liên Hoa Sắc hết lòng sám hối, tinh tấn tu hành, chẳng 
      bao lâu chứng quả A La Hán và có thần thông đệ nhất bên 
      phái nữ. Trong khi, Mục Kiền Liên đã là bậc thần thông đệ 
      nhất bên phái nam.
      
      4. Mục Kiền Liên với lễ 
      Vu Lan bồn
      
      Trong hàng thánh chúng, Mục 
      Kiền Liên không những là vị có thần thông đệ nhất,bản 
      tính rất năng động mà còn là một vị có hiếu đạo hơn hết. 
      Một hôm, nhớ mẹ, Mục Kiền Liên vận dụng thần thông đi 
      khắp mọi nơi để tìm mẹ. Khi vào địa ngục, Mục Kiền Liên 
      thấy mẹ không chỉ ở chốn địa ngục, mà còn đói khủng 
      khiếp, cơ thể vô cùng gầy yếu. Ðể phục hồi sức lực lại 
      cho mẹ là Thanh Ðề, Mục Kiền Liên đem cơm dâng cho mẹ. Mừng 
      quá, Bà Thanh Ðề dùng tay trái che bát để các tù nhân khác 
      không thấy thức ăn, tay phải bốc cơm đưa vào miệng. Nhưng 
      than ôi! Cơm thành than đỏ, Bà không thể nào ăn được, Mục 
      Kiền Liên rơi nước mắt, lòng buồn vô tận! Mục Kiền 
      Liên vận dụng đủ mọi phương tiện để cứu mẹ, nhưng vẫn 
      không có kết quả.
      Trở về bạch Phật sự 
      tình và hỏi lý do. Với tinh thần từ ái, Phật nói: - Mục 
      Kiền Liên! Lúc sanh tiền mẹ ông đã hủy báng Phật, mắng tăng, 
      bà không tin nhân quả luân hồi. Ðặc biệt bà rất bỏn sẻn, 
      chẳng bao giờ bà bố thí cho ai, kể cả bố thí cho con kiến 
      một hạt gạo. Từ đó, sau khi chết bà phải chịu các quả 
      báo như thế. Ông tuy là con người hiếu đạo, thương cha nhớ 
      mẹ, muốn đền đáp thâm ân, nhưng sức của cá nhân có hạn, 
      dù đã có thần thông, một mình ông cũng không thể giải cứu 
      nghiệp lực của bà Thanh Ðề. Ông hãy đợi đến ngày rằm 
      tháng bảy, ngày chư tăng mãn hạ, thiết lễ Vu Lan nhờ chư 
      Tăng chú nguyện, mẹ ông mới thoát khỏi cảnh địa ngục.
      Theo như lời Phật dạy, 
      ngày rằm tháng bảy, Mục Kiền Liên sắm sửa trai diên, dâng 
      cúng 10 phương Tăng, và nhờ thần lực của Chư Tăng chú nguyện.
      Quả như vậy, với đạo 
      nghiệp tấn tu 3 tháng, Chư Tăng không những giúp cho bà Thanh 
      Ðề, mà nhiều người khác trong ngày đó cũng thoát khỏi cảnh 
      địa ngục tối tắm.
      Kinh Vu Lan, lễ Vu Lan, và 
      gọi là ngày rằm xá tội vong nhân có từ đó. Vu Lan bồn có 
      nghĩa là mở sợi dây treo ngược cho người có tội. Trung quốc 
      gọi là giải đảo huyền.
      III - MỤC 
      KIỀN LIÊN NẠN VONG
      Vào thời Ðức Phật, 
      Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là hai cánh tay đắc lực của 
      Phật. Cả hai đã làm cho ngoại đạo phải kính sợ. Xá Lợi 
      Phất đã dùng trí tuệ biện tài chinh phục bọn ngoại đạo. 
      Với dũng khí, kiên cường năng động, Mục Kiền Liên dùng 
      thần thông lấn lướt bọn ngoại đạo. Bởi thế, hàng ngoại 
      đạo rất oán ghét Mục Kiền Liên hơn hết, và tìm cơ hội 
      bức hại.
      Một hôm, trên đường 
      đi khất thực, tại thành Thất La Phiệt, cùng với hai đệ tử 
      là Mã Túc và Mãn Túc, Mục Kiền Liên bị bọn lõa hình ngoại 
      đạo vây đánh. Vì bất ngờ và quá đông, Mã Túc và Mãn 
      Túc không đối phó nổi. Tôn giả Mục Kiền Liên bị trận 
      đòn hội đồng mà vong mạng. Về cái chết của Mục Kiền 
      Liên có sách lại chép tại núi Y Tư Xa Lê, bọn lõa hình mai 
      phục chờ Mục Kiền Liên đi qua, và ném đá rơi như mưa. Dù 
      có thần thông, nhưng vì bất ngờ quá không kịp đối phó, Mục 
      Kiền Liên đã tử thương.
      Một sách khác lại 
      chép:
      - Một hôm trên đường 
      đi du hóa trở về, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, bị đồ 
      đệ của Bảo Lạc Noa, thuộc phái Ni Kiền Tử, thường gọi 
      là phái lõa hình, đem gậy gộc ra chận đường gây sự; Bọn 
      này hỏi Xá Lợi Phất Phất: "Trong chúng chánh mạng (lời 
      tự xưng của phái lõa hình) có sa môn không?" Vốn bậc 
      trí tuệ, đón biết được ý đồ của Bảo Lạc Noa, Xá Lợi 
      Phất nói: "Chúng chánh mạng Sa Môn không. Chúng thích Ca 
      Sa Môn có, nếu A La Hán còn tham ái là không có kẻ ngu 
      si". Không hiểu ý, tưởng đó là lời khen mình, họ để 
      cho Xá Lợi Phất đi.
      Bọn lõa hình quay qua hỏi 
      Mục Kiền Liên. Giọng đanh thép, Mục Kiền Liên đáp: 
      "Trong chúng của các ông làm gì có quả Sa Môn". Cho 
      là giọng trịch thượng, bọn lõa hình tức giận, vác gậy gộc 
      đánh Mục Kiền Liên. Không chịu nổi trận đòn, Mục Kiền 
      Liên bất tỉnh, tưởng là địch thủ đã chết, bọn lõa 
      hình bỏ đi... Xá Lợi Phất trở lại tìm xem bạn như thế nào. 
      Thấy Mục Kiền Liên bất tỉnh thân thể tím bầm, máu ra lai 
      láng, Xá Lợi Phất lấy cà sa làm võng đưa Mục Kiền Liên về 
      Tinh Xá. Ðại chúng hỏi Mục Kiền Liên: "Tôn giả là bậc 
      có thần thông, sao lại chịu thua thiệt đến thế?" Mục 
      Kiền Liên liền đáp:
      "Vì bất ngờ, hơn nữa, 
      khi nghiệp lực đến, chỉ một chữ THẦN còn chưa thể được, 
      huống là phát THÔNG". Nói xong tôn giả vào Niết Bàn.
      Dù các sách chép có phần 
      hơi khác nhau, nhưng các sách đều có ghi là, bọn lõa hình 
      ngoại đạo đã bức hại Mục Kiền Liên. Khi nghe tin Mục Kiền 
      Liên bị ám hại, Vua A Xà Thế đã phẫn nộ và đã hạ lệnh 
      truy nã bọn lõa hình. Khi tên nào bị bắt, nhà vua cho xử giảo 
      bằng cách ném sống vào hầm lửa.
      Sau khi hỏa táng Mục Kiền 
      Liên, ngài Xá Lợi Phất, Mã Túc và Mãn Túc đã đem hài cốt 
      của Mục Kiền Liên về trình Phật. Phật tập họp chúng Tỳ 
      kheo lại và dạy:
      - Này các vị Tỳ kheo! 
      Hãy chiêm ngưỡng hài cốt của. Ðã mang sắc thân, chắc chắn 
      còn nghiệp phải trả. Nhục thể phải chịu luật vô thường. 
      Do đó, sinh tử, trả nghiệp là chuyện thường tình. Không 
      có gì phải hoang mang lo sợ, khi xã bảo thân con người cần 
      giữ tâm hồn không nên mê muội, oán thù, sân giận. Trong 
      các nghiệp, cận tử nghiệp là nghiệp nặng nhất. Vì tuyên 
      dương giáo pháp mà phải tử nạn đó là một vinh dự, đáng 
      cho tất cả noi gương.
      Người chiến sĩ phải 
      da ngựa bọc thây, mới xứng đáng là chiến sĩ anh hùng. 
      Chúng ta hãy xây tháp tôn thờ hài cốt của Mục Kiền Liên.
      Với hài cốt của Mục 
      Kiền Liên và kể cả hài cốt của Xá Lợi Phất đều được 
      tôn thờ và giữ gìn nguyên vẹn. Khi đến chiếm Ấn Ðộ, người 
      Anh đã thỉnh hai hài cốt này về trưng bày tại viện bảo 
      tàng Luân Ðôn. Năm 1947, sau khi Ấn Ðộ được độc lập, Chính 
      phủ Anh đã hoàn trả hài cốt của Xá Lợi Phất và lại cho 
      chính phủ Nehru.
      IV- NHẬN 
      THỨC VÀ KẾT LUẬN
      Ðúng là sinh nghề tử 
      nghiệp! Suốt cả cuộc đời hành đạo đã dùng thần thông 
      làm phương tiện. Bởi thế trong hàng thánh chúng, Mục Kiền 
      Liên được suy tôn là bậc thần thông đệ nhất. Nhưng vì 
      có thần thông mà mà Mục Kiền Liên bị hàng ngoại đạo oán 
      thù, và bọn lõa hình đã đánh Mục Kiền Liên bị tử thương. 
      Ðó là nghiệp lực còn tồn tại. Mục Kiền Liên còn phải 
      trả để vào vô dư Niết Bàn. Sức thần thông của Mục Kiền 
      Liên vẫn không cưỡng lại được nghiệp lực hữu dư. Còn 
      thân 5 ấm là còn nghiệp lực phải trả. Người đạo sĩ 
      hơn kẻ thường tình là mỉm cười trước cái chết không 
      oán hờn, than khóc, tiếc nuối, mê mờ...
      Trước mọi biến thiên 
      của cuộc đời, tâm an tịnh là đạt Niết Bàn.
      Thần thông không phải 
      là một phép huyền bí, đó là một năng lực vô biên sẵn 
      có trong mỗi con người. Khi 6 năng quan của con người được 
      tập luyện phát triển đến ưu việt, tức là có lục thông.
      Xưa có một người khách 
      bộ hành đi qua một khu rừng có nhiều cọp, chiều hôm đó, 
      dù trời chưa tối hẳn, nhưng cọp đã ra đường mòn. Thấy 
      cọp, khiếp quá, người lữ khách nhảy lên cành của một 
      cây cổ thụ cao. Khi con cọp đi rồi, người lữ khách không 
      sao xuống được, vì thân cây quá lớn, lại cao, cành cây 
      cách mặt đất hơn cả chục thước. Mãi đến sáng hôm sau, 
      có người đi qua, người lữ khách mới nhờ khách bộ hành bắc 
      sào cho anh tụt xuống. Khách bộ hành hỏi lý do tại sao cành 
      cây cao thế mà anh lại nhảy lên được, lại không nhảy xuống 
      được. Người lữ khách bảo là không hiểu được, khi thấy 
      cọp tôi nhảy lên, không ngờ lại lên được cành cây cao. 
      Khi cọp đi rồi, tôi hết sợ, lại không nhảy xuống được. 
      Ðó là một điều lạ không thể giải thích được. Nếu với 
      thời xưa, người ta cho là có thần linh phù hộ. Thật ra, 
      không phải thế. Theo Ðạo Phật, đó là khả năng vô biên tiềm 
      ẩn trong mỗi con người, có điều là với người tu luyện 
      thì khả năng đó phát triển và luôn luôn sử dụng được. 
      Còn người bình thường khả năng đó chỉ bộc phát một lần 
      thôi. Người có luyện tập võ nghệ họ nhảy từ mái nhà 
      này sang mái nhà khác được đó cũng là do họ có triển khai 
      được một phần nào các khả năng tiềm ẩn vô biên đó. 
      Còn người mộng du nhảy hoặc leo tường không cần thang, họ 
      chỉ làm được trong lúc mộng du mà thôi. Từ thực tế đó 
      cho thấy thần thông không có gì là huyền bí. Nhưng Phật không 
      cho các Tỳ kheo tu luyện, vì ngại Tỳ Kheo chọn phương tiện 
      làm cứu cánh. Hơn nữa, người không có phẩm hạnh cao sẽ sử 
      dụng thần thông vào việc bất chính trở ngại cho con đường 
      giải thoát sinh tử luân hồi.
      Qua đạo nghiệp của Mục 
      Kiền Liên, còn có vấn đề tại sao bà Thanh Ðề phải nhờ 
      sức chú nguyện của Chư Tăng mới siêu thoát?
      Ðây cũng không phải là 
      vấn đề huyền bí, thần quyền, trái luật nhân quả? Theo Phật 
      giáo cốt lõi là "trí tuệ giải thoát" chứ không phải 
      là đức tin thần bí thần quyền. Tất cả mọi vấn đề đều 
      tùy thuộc vào thuyết duyên sinh, luật nhân quả. Trong bài 
      "NHÂN NGÀY LỄ VU LAN NGHĨ VỀ ÐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC", 
      thuyết duyên sinh và luật nhân quả, Hòa thượng Thích Thiện 
      Siêu có viết:
      - "Luật nhân quả nằm 
      trong luật nhân duyên, đã là nhân duyên thì dù nhân dù quả 
      đều luôn luôn thay đổi. Nếu một người đã tạo nhân xấu, 
      nhưng may gặp được duyên tốt của Phật lực, pháp lực, tăng 
      lực, thời các nhân xấu của họ cũng thay đổi, hoặc được 
      siêu thoát, hoặc bớt chịu khổ hơn, như cái cây đã héo gặp 
      khí mát thổi tới mà được tươi trở lại. Trong Phật giáo 
      sự tạo nghiệp và chuyển nghiệp luôn luôn đi liền với 
      nhau".
      Vả lại, đã là luật 
      nhân duyên cho nên người này mới có tương quan đến người 
      kia, có thể chi phối được người khác, vì tinh thần của 
      con người có sức mạnh phi thường có thể làm cho người khác 
      chịu ảnh hưởng, làm cho người khác chuyển đổi ý niệm. 
      Kinh nói: "Chế tâm nhất xứ vô sự bất biện". Mẹ 
      nhớ con, con nóng ruột là lẽ thường tình.
      - Ngày nay khoa học đang 
      dự tưởng tìm cach điều khiển tàu ngầm bằng luồng điện 
      tư tưởng giữa hai người chỉ huy trên đất liền, với người 
      tài công dưới đáy biển, chứ không cần điện đài vật thể. 
      Tư tưởng là một làn sóng thần, có thể lan rộng chi phối 
      được tinh thần người khác. Ví như mặt trăng sẵn sàng chiếu 
      sáng, nếu nước ao hồ được lắng trong thì trăng sẽ hiển 
      hiện chiếu sáng.
      Nhìn chung, con người và 
      đạo nghiệp của Mục Kiền Liên có hai điểm ưu việt, đó 
      là dũng khí và Hiếu hạnh. Chúng ta nên noi gương Mục Kiền 
      Liên để trở thành con người biết đền đáp ân đức.
      
        - Ân cha mẹ tổ tiên
        - Ân tam bảo.
        - Ân đồng bào đồng loại.
        - Ân đất nước quốc gia.
      
      Noi theo chí khí của Mục 
      Kiền Liên để giữ vững niềm tin.
      - Tin Phật, tin Pháp, tin 
      Tăng, tin Giới và tự tin để vượt khó khăn, trên con đường 
      thực hiện giới, định, tuệ và phụng sự đạo pháp, làm lợi 
      cho gia đình, dân tộc, xã hội, nhân loại, chúng sinh...
      * * *
      
      CÂU HỎI THẢO LUẬN
      
        1. Dòng họ và chí 
        khí của Mục Kiền Liên như thế nào?
        
        2. Mục Kiền Liên đã 
        sử dụng thần thông vào những lúc nào, và kết quả như 
        thế nào?
        3. Mục Kiền Liên với 
        Liên Hoa Sắc như thế nào?
        4. Qua Kinh Vu Lan, Mục 
        Kiền Liên đã cứu mẹ như thế nào?
        5. Tại sao Mục Kiền 
        Liên bị tử thương?
        6. Thần thông phải chăng 
        đó là 1 phép huyền bí?
        7. Với Mục Kiền 
        Liên, chúng ta có thể học hỏi được điều gì?
        
      
      -ooOoo-
      Ðầu 
      trang | 1.01 
      | 1.02 | 1.03 | 1.04 
      | 1.05 | 1.06 | 1.07 
      | 1.08 |
      | 2.01 | 2.02 | 2.03 
      | 2.04 | 2.05 | 2.06 
      | 2.07 | 2.08 | 2.09 
      | 2.10 | 3 | Mục 
      lục