| 
         Bài 8 
        Tôn giả 
        ƯU BA LY 
        (Upali - Trì giới đệ nhất)
        -ooOoo- 
        
        T rong 
        cuộc sống, từ quốc gia xã hội, đến đoàn thể, luật 
        pháp, nội quy, điều lệ là những điều kiện giúp cho tổ 
        chức được kiện toàn, vững mạnh, trường tồn. Ngược lại, 
        trong một tổ chức có nhiều người không giữ nội quy, điều 
        luật sẽ trở thành ô hợp, dễ tan rã. Cụ thể như trong 
        quân đội không có kỷ luật sắt, khi ra trận sẽ bị thất 
        bại. Với tôn giáo cũng thế, tín đồ không tuân giữ điều 
        răn cấm, đạo giáo sẽ bị suy tàn. Khi Phật sắp Niết 
        Bàn, A Nan hỏi Phật nhiều vấn đề trong đó có câu hỏi:
        - Sau khi Thế Tôn Niết 
        Bàn, chúng con nhận ai làm thầy? 
        Phật trả lời: 
        - Hãy lấy giới luật 
        làm thầy, giới luật còn đạo ta còn. 
        Như vậy: Người Phật 
        tử không luận tăng hay tục đều phải tuân giữ giới luật. 
        Trong số các đại đệ tử của Phật có Ưu Ba Ly là người 
        tu hành, hành trì giới luật rất đầy đủ. Từ đó Phật 
        và Thánh chúng suy tôn Ưu Ba Ly là bậc Trì giới đệ nhất. 
        I. DÒNG 
        HỌ VÀ NGHỀ NGHIỆP CỦA ƯU BA LY. 
        Ngày xưa, ở Ấn Ðộ 
        luật Ma Nu chia thành phần xã hội ra 4 giai cấp: 
        
          - Bà La Môn 
          - Sát Ðế Lợi 
          - Phệ Xá 
          - Thủ Ðà La 
         
        Người sinh vào giai cấp 
        nào phải giữ truyền thống của giai cấp đó. Người sinh 
        vào dòng Bà La Môn được làm đạo sĩ học thánh điển Vệ 
        Ðà, lo việc tế tự. Người sanh vào dòng Sát Ðế Lợi 
        được làm vua chúa, quan quyền, cai trị Ấn Ðộ. Người 
        sinh vào dòng Phệ Xá mãi mãi là công nông thương. Người 
        sinh vào dòng Thủ Ðà La suốt đời làm nô lệ, bị bạc đãi 
        nhất trong xã hội. Khi ra đường Thủ Ðà La gặp đạo sĩ 
        hoặc vua quan, phải tìm bờ bụi ẩn nấp, nếu lén nhìn sẽ 
        bị móc mắt. Nếu nói tên Bà La Môn bị cắt lưỡi. Không 
        tuân pháp luật vua quân bị đổ dầu sôi vào lỗ tai. Ưu Ba 
        Ly sinh vào dòng Thủ Ðà La. Bởi thế, ngay từ thuở nhỏ đã 
        không được hưởng quyền lợi về học vấn. Lúc lớn 
        khôn cha mẹ định chọn cho Ưu Ba Ly một nghề sinh nhai. 
        Nhưng trong các nghề mà người nô lệ được phép làm như 
        lao động tay chân, cày cuốc, đánh xe, giữ ngựa, gánh 
        phân, Ưu Ba Ly không đủ sức vì ốm yếu mảnh mai. Cuối 
        cùng, Ưu Ba Ly được chọn đi học nghề thợ cạo râu tóc, 
        nghề nhẹ nhàng nhất. Học chẳng bao lâu, Ưu Ba Ly thành thạo 
        nghề nghiệp một cách tài tình. 
        Nhờ có người giới 
        thiệu, Ưu Ba Ly được nhận vào vương cung Ca Tỳ La Vệ để 
        hớt cạo râu tóc, trang điểm cho các vương tôn công tử. 
        Nhờ đức tính thuần lương nhu mì, trung hậu, Ưu Ba Ly được 
        vương tôn công tử tín nhiệm và cho ở lại trong cung đình. 
        Ma Ha Bạt Ðề, A Na Luật, Kiếp Tân Na rất thích Ưu Ba Ly, 
        qua sự khéo léo tay nghề. 
        Khi Phật trở vào 
        thành Ca Tỳ la Vệ, nhờ đã thành nghề, Ưu Ba Ly được 
        đưa đến cạo tóc cho Phật. Tương truyền, vì lo ngại thất 
        lễ, lúc cạo tóc, Ưu Ba Ly khom lưng, cúi đầu. Mẹ của Ưu 
        Ba Ly hỏi Phật về kỹ thuật của con. Phật bảo: "Thân 
        thể rất cong". Nghe thế, Ưu Ba Ly ngẩng đầu lên và tập 
        trung tâm ý trong việc hớt tóc tâm Ưu Ba Ly thể nhập sơ 
        thiền. Mẹ Ưu Ba Ly lại thưa Phật về kỹ thuật. Phật bảo: 
        "Lúc này thân thể ngay thẳng". 
        Nghe Phật phát biểu ý 
        kiến, Ưu Ba Ly càng nhất tâm hơn, không dám suy nghĩ vọng 
        tưởng gì ngoài việc cạo tóc, tâm Ưu Ba Ly thể nhập nhị 
        thiền. Vì quá chú tâm, hơi thở dồn dập nên khi bà mẹ lại 
        hỏi Phật về cách cạo có nhẹ nhàng không? Phật nói: 
        "Hơi thở vào quá thô". Nghe nói, Ưu Ba Ly lại tập 
        trung tâm ý vào hơi thở, thể nhập tam thiền. 
        Lúc cạo gần xong râu 
        tóc, bà mẹ lại hỏi Phật xem Ưu Ba Ly đã thiện nghệ hay 
        chưa. Phật nói: "Hơi thở quá thô". 
        Vì quá chú tâm đến công 
        tác, Ưu Ba Ly không còn tưởng niệm gì cả. Phật cho là Ưu 
        Ba Ly đang ở trạng thái tứ thiền. Hớt tóc cạo câu cho Phật 
        xong, Ưu Ba Ly thấy lòng thơi thới, sung sướng vô cùng, vì 
        đã có dịp tiếp cận với Phật. Qua sự chú tâm lưu ý đến 
        việc hớt tóc, nhất là mỗi khi nghe Phật phê phán, Ưu Ba 
        Ly còn cố sức sửa đổi tâm tư, động tác. Những cử chỉ 
        đó đã mở đầu cho thấy Ưu Ba Ly sẽ là một con người rất 
        nghiêm túc tác phong cử chỉ. Bởi thế, sau khi xuất gia Ưu 
        Ba Ly trở thành vị Trì giới đệ nhất. 
        II- ÐẠO 
        NGHIỆP CỦA ƯU BA LY 
        
        1. Ưu Ba Ly được vào 
        giáo đoàn 
        
        Trong thời gian lưu lại 
        thành Ca Tỳ La Vệ, Phật nói cho cả vương tộc và bá quan 
        văn võ cùng nghe lý do Phật xuất gia và đem giáo pháp đã 
        chứng ngộ ở gốc cây Bồ Ðề truyền giảng. Tất cả 
        các vương tôn công tử và bá quan đều hoan hỷ tán thán Ðức 
        Phật. 
        Nhờ thấm nhuần mưa 
        pháp, một số vương tôn công tử đã xin theo Phật xuất 
        gia. Không kể các vị đã xuất gia từ trước như Ma Ha Nam 
        (Haha Nàma), Ma Ha Bạt Ðề (Maha Bhadrika), kỳ này có các vị 
        Ðề Bà Ðạt Ða, và A Nan, con vua Bạch Phạn, A Na Luật con 
        Cam Lộ Vương, Ma Ha Bà Sa con Hộc Phạn vương là La Hầu La 
        (Rahala) cháu nội vua Tịnh Phạn. Khi được Phật nhận A Na 
        Luật hăng hái gọi Ưu Ba Ly đến nhờ cạo tóc. Ưu Ba Ly vốn 
        là người đã hầu hạ Bạt Ðề ngày trước. Rồi tuần tự 
        Ưu Ba Ly cạo tóc cho các vương tôn công tử khác. Vốn đã 
        được thấy Phật trong khi cạo tóc cho Phật từ trước, 
        nay thấy cảnh xuất gia, nồng nhiệt, vui vẻ của các vương 
        tôn tại hoàng cung, Ưu Ba Ly thấy tủi hổ cho thân phận kẻ 
        nô lệ, không có cách nào để xuất gia thoát tục, Xá Lợi 
        Phất an ủi: 
        - Này Ưu Ba Ly! Vì chưa 
        thấu hiểu được giáo thuyết bình đẳng của Phật, ông mới 
        buồn tủi và khóc than. Ông nên biết rằng trên đường giáo 
        hóa, Phật không có tâm phân biệt, người này giàu sang kẻ 
        kia ngu si, nghèo đói. Ai muốn xuất gia cầu giải thoát sinh 
        tử luân hồi Phật đều nhận tất cả. Vì từ tâm của Phật 
        là hơi thở của vạn vật, là mạng mạch của nhân sinh, 
        là trái tim của chánh pháp. Lòng từ bi đó không khác biển 
        cả, hay hư không. Biển cả dung chứa mọi sinh vật, làm sạch 
        tất cả dơ bẩn do sông rạch chảy vào. Hư không trùm khắp 
        cả muôn loài, không loại trừ bất cứ một vật nào, có 
        bao nhiêu loài hữu tình hay vô tình đều được dung chứa tất 
        cả. Còn chúng sinh muốn được giải thoát, muốn được Ðức 
        Phật cho gia nhập vào giáo đoàn, cần yếu phải nghiêm trì 
        giới luật. Với bản tính thật thà, khiêm cung, cần mẫn, 
        chu đáo, đoan chính... sẵn có, được xuất gia, Ưu Ba Ly sẽ 
        giữ tròn giới pháp của Phật, ông hãy tin tưởng, chớ chán 
        nản, tôi sẽ hướng dẫn đến bái yết Phật và chắc chắn 
        Phật sẽ hoan hỷ đón nhận. 
        Ðúng như ý của Xá Lợi 
        Phất, khi gặp Ưu Ba Ly, Phật rất niềm nở đón nhận và dạy 
        rằng: 
        - Này Ưu Ba Ly! Trước 
        đây khi cạo tóc cho ta, ông đã biểu thị đức tính của 
        người xuất gia. Ông rất khiêm cung lễ độ, chăm chú vào 
        việc làm, tâm không dấy động. Thâm tâm của ông lúc đó 
        đã chuyển từ trạng thái sơ thiền sang trạng thái tứ thiền. 
        Giờ này, ông xin xuất gia rất là hợp thời điểm. Trước 
        đây ta đi xuất gia một phần là vì muốn công bằng xã hội. 
        Do đó, giáo pháp của ta mang tính bình đẳng trước mọi 
        người, oán cùng như thân, giai cấp cao cũng như giai cấp thấp. 
        Bất cứ ai nếu tinh tấn giữ gìn giới luật nhất định sẽ 
        được giải thoát. Ta sẽ thế phát cho ông bây giờ. Còn lễ 
        thế phát cho các vương tôn công tử sẽ cử hành sau 7 ngày 
        nữa, vì đó là tuần huấn nhục, giúp họ tập quen khó nhọc, 
        lãng quên tâm lý hưởng thụ giàu sang. Trong các vương tôn 
        công tử đều xuất gia cùng một ngày, nhưng Phật cho Ưu Ba 
        Ly thế phát trước, các vương tôn thế phát sau, với dụng 
        ý như nêu trên. Ngày Bạt Ðề xuất gia, vào tăng đoàn, Phật 
        bảo Bạt Ðề hãy đãnh lễ Ưu Ba Ly và cầu cạo tóc gấp. 
        Lý do là vì Ưu Ba Ly lớn tuổi hơn. Những việc làm này, 
        ngoài một phần như lý do đã nói còn có mục đích để phá 
        tâm kiêu mạn của các vương tôn và cho thấy tinh thần 
        bình đẳng của giáo pháp, nhằm xóa bỏ mọi giai cấp trong 
        xã hội. 
        Trên đường giáo hóa, 
        Ưu Ba Ly là người đầu tiên thuộc dòng họ nô lệ Thủ 
        Ðà La được Phật thu nhận tham dự giáo đoàn. Ðó cũng là 
        một bước tiến bộ đầu tiên đã ghi vào lịch sử văn 
        minh Ấn Ðộ. Về sau, Ưu Ba Ly trở thành vị Trì giới đệ 
        nhất. 
        
        2. Ưu Ba Ly hỏi giới 
        
        Trong giáo đoàn, Ưu Ba 
        Ly rất được trọng nể, nhờ nghiêm trì giới luật. Với 
        tính thận trọng sợ lỗi lầm, Ưu Ba Ly thường hỏi Phật 
        về giới luật. Những giới mà Ưu Ba Ly thưa hỏi Phật rất 
        nhiều tất cả có ghi trong Luật tạng. 
        Tuy nhiên, để thấy sự 
        chú ý của Ưu Ba Ly về giới luật, cần nêu ra một vài trường 
        hợp. 
        - Theo luật của Sát Ðế 
        Lợi, người dòng họ Thích không được kết hôn với dòng 
        ngoài họ Thích. Trong một thời gian có một cô gái Hắc Ly 
        Xa dòng họ Thích, lúc đang độ thanh xuân, chẳng may cô bị 
        chồng chết sớm. Sau một thời gian cô muốn kết nghĩa với 
        người ngoài dòng họ Thích. Nhưng người em không ưng thuận 
        lại muốn Hắc Ly Xa làm vợ mình. Ðể trả thù, vì Hắc Ly 
        Xa cự tuyệt, trong một bữa ăn, tên em chồng bỏ thuốc mê 
        vào thực phẩm. Khi ăn xong, Hắc Ly Xa bất tỉnh. Tên này 
        dùng roi đánh đập Hắc Ly Xa và dẫn đến trình quan với lời 
        mạo nhận rằng: 
        - Cô này là vợ của 
        tôi, cô thường tư thông với người ngoài dòng họ, xin 
        quan xét xử và nghiêm trị đích đáng. 
        Vua xử Hắc Ly Xa phải 
        chịu tử hình. Khi bị giam giữ, thừa dịp người gác tù lơ 
        đểnh, Hắc Ly Xa trốn tù, cô đến một ni viện ở Xá vệ 
        xin xuất gia. 
        Tại Ca Tỳ La Vệ sau 
        khi truy nã tù nhân không có kết quả, nhà vua nghe Hắc Ly Xa 
        đã trốn sang Xá Vệ. Nhà vua viết biểu yêu cầu vua Xá Vệ 
        truy nã Hắc Ly Xa, và bắt giải về Ca Tỳ La Vệ gấp. 
        Truy nã không ra, nhà 
        vua mới biết cô tù nhân đã vào tu trong ni viện, nơi bất 
        khả xâm phạm. Vua Ba Tư Nặc lại viết biểu trả lời vua 
        Ca Tỳ La Vệ biết sự cố. Tin cô tù nhân vượt ngục vào 
        trong ni viện được lan truyền khắp mọi nơi. Dư luận xôn 
        xao, và hai nước trở nên hiềm khích. Nghe sự tình khó giải 
        quyết, Ưu Ba Ly đến trình Phật: 
        - Bạch Thế Tôn! Người 
        đã phạm quốc pháp, chúng ta có thể thu nhập cho xuất gia 
        không? 
        - Này Ưu Ba Ly! Quốc pháp 
        hợp lý hay không hợp lý, đó là việc của chính phủ và 
        dân chúng còn nếu còn có người đã phạm tội, khi chưa 
        được tuyên bố ân xá, tăng đoàn không được làm phép 
        cho xuất gia. 
        Sau khi trả lời cho Ưu 
        Ba Ly. Phật gọi Ni chúng cho Hắc Xa Ly xuất gia đến quở trách. 
        Bấy giờ, với sự cố nầy, nhiều người phàn nàn cho Phật 
        là thiếu từ bi, không che chở cho tội nhân. Biết tin đó 
        Phật họp đại chúng lại cho hay: 
        - Tăng đoàn cần thanh 
        tịnh, phạm giới luật còn bị diệt tận thì phạm pháp nước 
        phải chịu luật nước xử trị. Phật pháp không thể che 
        chở cho tội nhân vì tăng đoàn phải được mọi người trọng 
        nể. 
        Một lần khác có người 
        nhờ Tỳ Kheo mai mối giữa Nam và Nữ, không biết xử lý 
        cách nào, Ưu Ba Ly đến hỏi Phật. 
        - Bạch Thế Tôn! Tỳ 
        Kheo và Tỳ Kheo ni có thể làm mai mối cho Nam Nữ được không? 
        Phật trả lời: 
        - Nếu Tỳ Kheo, Tỳ 
        Kheo ni đem tâm tình người nam ngõ với người nữ, đem ý 
        người nữ nói với người nam cho đến giới thiệu giáo hội 
        một lần, sẽ phạm tăng già bà thi sa, cần phải hối quá. 
        Vì căn bản sinh tử, dục là thứ nhất. 
        - Bạch Thế Tôn! Ưu Ba 
        Ly thưa. Ðối với việc hôn lễ của các tín đồ tại gia, 
        các Tỳ Kheo, các Tỳ Kheo ni nên có thái độ như thế nào? 
        - Không nên lưu tâm lắm, 
        Phật nói. Nếu việc hợp pháp, có thể đối trước tam bảo 
        làm lễ chứng minh cho họ. 
        
        3. Phép thăm nuôi bệnh nhân 
        
        Một hôm, Ưu Ba Ly đi 
        sau Phật, thấy một bệnh nhân nằm rên la ở chỗ dơ uế. 
        Một hôm khác, trên đường hóa dạo, các Tỳ Kheo gặp một 
        bệnh nhân nằm bên vệ đường. Vì chưa nghe Phật giảng về 
        phép thăm nuôi bệnh nhân, các Tỳ Kheo đi nhiểu một vòng rồi 
        tiếp tục lên đường. Lại một lần khác, trong đại chúng, 
        có một Tỳ Kheo bệnh vì không ai chăm sóc. Vì buồn tình, Tỳ 
        Kheo bệnh nghĩ đang lúc bệnh hoạn, có thể không cần giữ 
        giới, tự ý buông lung. Ðộng lòng trắc ẩn, Ưu Ba Ly kính 
        cẩn hỏi Phật rằng: 
        - Bạch Thế Tôn! Nếu 
        có đại đức, Tỳ Kheo, bệnh, chúng con nên chăm sóc như thế 
        nào? 
        - Này Ưu Ba Ly! Khi có Tỳ 
        Kheo bệnh, chúng tăng nên đem bệnh nhân đến ở phòng 
        chính nơi thoáng khí. Cắt cử người thay phiên chăm sóc ăn 
        uống thuốc thang. Các đệ tử cũng thay phiên nhau túc trực 
        hầu hạ, quét dọn sạch sẽ, cắm hoa, đốt hương, theo dõi 
        bệnh tình, hơi thở... 
        Khi có Tỳ Kheo đến 
        thăm, cần tiếp đón nồng hậu, khách hỏi bệnh nhân điều 
        gì, hãy thay bệnh nhân trả lời đầy đủ. Nếu có Phật tử 
        đến thăm, hãy mời họ ngồi đằng sau, hoặc phía từ nửa 
        mình bệnh nhân trở xuống. Nếu họ phát tâm cúng dường 
        những gì, hãy niệm Phật, chú nguyện, rồi tiếp thọ nói 
        pháp cho họ nghe. Khi người bệnh cần đại tiện, tiểu, hãy 
        mời khách ra ngoài rồi lo cho bệnh nhân. Ở ngoài cửa cũng 
        cần có người trực để hướng dẫn khách thăm bệnh. 
        Ðó là đối với các 
        Tỳ Kheo đại đức, còn các Tỳ Kheo tiểu đức, cũng hãy 
        chăm sóc như thế, có điều là không nên đem bệnh nhân đến 
        ở phòng chính, nơi ô uế. Nếu bệnh nhân không có sư trưởng 
        hoặc đệ tử, các Tỳ Kheo đồng trú xứ nên phân công chăm 
        sóc bệnh nhân. Nếu trong chúng không đủ điều kiện thuốc 
        thang cho bệnh nhân, có thể lấy vật dụng của nạn nhân 
        đem bán lấy tiền lo thuốc cho bệnh nhân. Nếu bệnh nhân 
        không ưng thuận, hãy mời vị trưởng thượng đến thuyết 
        phục, nếu không có vật đổi chác, khi đi khất thực, Tỳ 
        Kheo mang hai bát, một cho mình và một cho bệnh nhân. Khất 
        thực về, hãy chọn các thức ăn bổ dưỡng dành cho bệnh 
        nhân. 
        Nếu bệnh nhân viên tịch 
        hãy xử lý vật dụng còn lại một cách hợp lý, như cúng 
        dường Tam bảo hoặc quan phân cho đại chúng. 
        Với tâm từ bi, Ưu Ba 
        Ly rất quan tâm đến người bệnh, nhất là người xuất 
        gia, vì họ đã cắt ái từ thân, cho nên lúc lâm bệnh họ 
        rất cô độc, thiếu người chăm sóc. Theo Phật, trong các 
        phước điền, chăm sóc cho bệnh nhân là phước điền đệ 
        nhất. 
        
        4. Phá tăng và 
        hòa tăng 
        
        Là vị giữ giới đệ 
        nhất,Ưu Ba Ly luôn luôn quan tâm đến các vấn đề pháp chế, 
        nam, nữ, thăm bệnh v.v... nhưng quan trọng nhất vẫn là vấn 
        đề phá tăng và hòa tăng. Tăng sống theo hạnh lục hòa, 
        cho nên nếu bất hòa là mối tai họa lớn lao. Với tập thể, 
        có hòa hợp mới dễ dàng thành tựu các hoạt vụ. Nhỏ như 
        một gia đình, có thuận vợ thuận chồng mới tát cạn bể 
        đông. Bởi thế, khi họp Tăng làm phép yết ma, vị thủ tọa 
        hỏi Tăng đã họp xong chưa rồi lại hỏi: Tăng có hòa hợp 
        không? Nếu Tăng không hòa hợp là Yết ma không thành. 
        Một hôm tại thành Xá 
        Vệ, Ưu Ba Ly hỏi Phật rằng: 
        - Bạch Thế Tôn! Thế 
        nào gọi là phá hòa hiệp Tăng? 
        - Này Ưu Ba Ly! Nếu 
        trong Tăng đoàn, có người hay chỉ trích chê bai, đâm thọc, 
        để các Tỳ Kheo phải tỵ hiềm nhau, hoặc gây sự bất ổn, 
        đó là phá sự hòa hợp Tăng. 
        Nếu đối với chư 
        Tăng, có Phật tử tại gia tạo sự bất hòa phân chia nhân 
        ngã, khiêu khích làm chia rẽ Tăng đoàn, làm rối loạn mất 
        hòa khí, gọi đó là phá hòa hợp tăng. Ngoài đời, nếu chính 
        quyền chen vào nội bộ Tăng đoàn, tự viện, chỉ trích 
        này nọ, hoặc yêu cầu trục xuất Tăng ni ra khỏi tự viện, 
        Tăng đoàn, gọi đó là phá hòa hợp Tăng. Người phá hòa hợp 
        Tăng mang tội rất nặng, chết đọa vào đại địa ngục, 
        chịu các cực hình thời gian một kiếp. 
        - Bạch Thế Tôn! Còn 
        thế nào gọi là hòa hợp Tăng? 
        - Này Ưu Ba Ly! Người 
        lễ bái cúng dường, hỗ trợ tùy thuận ngợi khen các Tỳ 
        Kheo đúng phép, đúng luật, gọi đó là hòa hợp Tăng. 
        - Người đem lại hòa 
        hợp Tăng được những công đức gì? 
        - Công đức người tạo 
        hòa hợp Tăng được sinh vào thế giới có nhiều phước báu, 
        hưởng các lạc thú trọn 1 kiếp. 
        Vốn là một con người 
        có tác phong khiêm tốn, hiểu rõ nghĩa lý của giới luật, 
        giữ giới nghiêm minh, không phải không biết thế nào là 
        phá Tăng và hòa Tăng, nhưng Ưu Ba Ly muốn Tăng đoàn lưu tâm 
        đến sự ổn định nội bộ tránh các tranh chấp, nên đem 
        vấn đề ra hỏi để Phật nhắc nhở. 
        
        5. Kiết tập Luật tạng 
        
        Ở trong Tăng đoàn, 
        không những lo giữ giới luật bàn với Phật nhiều điều 
        giới luật, Ưu Ba Ly còn xử lý các Tỳ Kheo phạm tội, làm 
        phép yết ma sámg hối, giảng giải giới luật cho các Tỳ 
        Kheo. 
        Về phía nữ, với 
        tính rụt rè, các Tỳ Kheo ni không dám đem vấn đề giới 
        luật ra hỏi Phật. Các vị thường đem những gì không biết, 
        hoặc còn nghi ngờ về luật học thưa hỏi Ưu Ba Ly. 
        Ngoài Phật ra, Ưu Ba Ly 
        gần như là người có đủ thẩm quyền quyết định về mọi 
        vấn đề liên quan đến giới luật. Phật và Thánh chúng đều 
        công nhận Ưu Ba Ly là bậc Trì giới đệ nhất. 
        Sau khi Phật Niết Bàn 
        trong cuộc kiết tập Kinh, luật, luận tại động Kỳ Xà Quật 
        gồm 1.250 vị A La Hán do Ðại Ca Diếp làm chủ tọa, đã cử 
        A Nan tụng kinh, Ca Chiên Diên luận nghị, Ưu Ba Ly tụng đọc 
        80 lần các giới luật do Phật chế. Từ cuộc kết tập 
        này bộ Bát Thập Tụng Luật được hình thành và đó là bộ 
        luật căn bản đầu tiên của Văn học Phật giáo. Theo Nam 
        truyền sử, Ưu Ba Ly không những là vị kiết tập Luật tạng, 
        tôn giả còn là vị kế thừa Ðức Phật, lãnh đạo giáo 
        đoàn và trở thành Sơ tổ. Ðây cũng là điểm mà Phật 
        giáo Bắc Tông khác với Phật giáo Nam Tông. 
        Theo truyền thống Bắc 
        tông: Ðại Ca Diếp là vị Sơ tổ thừa kế Phật lãnh đạo 
        giáo đoàn. Nguyên nhân sự khác biệt nầy xét ra cũng dễ 
        thấy. 
        - Nam Tông thiên về tư 
        tưởng giải thoát, muốn giải thoát phải trì luật. Ưu Ba 
        Ly là vị trì luật đệ nhất nên đương nhiên được suy tôn 
        là sơ tổ. Còn Bắc Tông thiên về tư tưởng giác ngộ, lấy 
        tâm ấn tâm không cần văn tự, ấn truyền ngoài kinh điển. 
        Ðại Ca Diếp là vị đã lãnh hội được ý chí đó nơi đức 
        Phật trước nhất, qua cành hoa sen của Phật đưa cao tại hội 
        Linh Sơn. Sau Phật Niết Bàn, Ðại Ca Diếp là vị chủ tọa, 
        lãnh đạo cuộc kiết tập kinh điển. Bởi thế, đương nhiên 
        Phật giáo Bắc Tông suy tôn Ðại Ca Diếp là sơ tổ. 
        Sự phân chia Nam Tông 
        và Bắc Tông chính đó là đầu mối. 
        III. NHẬN 
        THỨC VÀ KẾT LUẬN 
        Trong các sử truyện 
        không ghi lại giai đoạn cuối của cuộc đời Ưu Ba Ly. Do 
        đó, chúng ta không rõ Ưu Ba Ly nhập Niết Bàn vào lúc nào. 
        Nhưng sau cuộc kiết tập kinh điển lần thứ nhất, sử 
        truyện không ghi chép một sự xuất hiện nào của Ưu Ba Ly. 
        Bởi thế, chúng ta có thể suy đoán sự nhập Niết Bàn của 
        Ưu Ba Ly trong khoảng trước hoặc sau Ðại Ca Diếp Niết 
        Bàn mà thôi. 
        Về sự tương truyền 
        Ưu Ba Ly trong lúc cạo tóc cho Phật đã thể nhập từ sơ 
        thiền đến tứ thiền nghe qua có viễn vông xa thực tế. Nhưng 
        xét kỹ, theo thực tế đó có thể không phải là 1 vấn đề 
        không tưởng. Vì đó, chỉ là một hiện tượng tâm lý 
        thông thường, mọi người có thể trải qua. Trên lý thuyết 
        thiền chia có 4 bậc là để định mức trạng thái tâm lý 
        của một hành giả qua 4 bậc, từ thấp đến cao. Khi chưa tọa 
        thiền, tâm lý con người rất loạn động, hết nghĩ đến 
        vấn đề này, liền dấy động đến vấn đề khác. Phật 
        cho tâm lý con người như một con ngựa không cương, như vượn 
        khỉ chuyền cây. Khi tọa thiền, hành giả khởi đầu loại 
        trừ các triền cái, nhiếp tâm vào một vấn đề nào đó. 
        Càng nhất tâm nhiếp niệm thì định lực càng cao. Ði từ 
        bậc sơ thiền đến tứ thiền. Cụ thể, dễ hiểu hơn như 
        một học sinh giải toán. Lúc mới nhìn vào đề toán, tâm 
        còn loạn động, vì mới đi cinéma và dạo phố về cho nên 
        thấy bài toán quá khó có thể không giải được, cậu học 
        sinh cắn bút. Cắn bút là một biểu hiện khởi đầu tâm 
        lý tư duy. Càng chú tâm cậu học sinh càng dần dà tìm ra 
        manh mối, các định lý, phương trình, để cuối cùng tìm 
        được đáp số. Có thể nói, đáp số tìm ra giống như 
        người hành giả nhờ nhiếp tâm mà tiến từ sơ thiền đến 
        tứ thiền. Lúc cạo tóc cho Phật, Ưu Ba Ly đã chú tâm vào 
        động tác nghề nghiệp, quên hết những vấn đề khác, 
        tâm chuyển từ trạng thái sơ thiền đến tứ thiền. 
        Noi gương Ưu Ba Ly, dùng 
        giới chế ngự hết các phóng dật, chúng ta sẽ trở nên 
        con người tốt có phẩm hạnh, có tư cách để từ đố không 
        làm gì hại đến gia đình, đoàn thể, quốc gia xã hội. Chỉ 
        trong phạm vi giữ giới một cách tiêu cực như thế, chúng 
        ta đã là người hữu ích cho đời rồi, còn nói gì khi 
        chúng ta bước vào guồng máy hoạt động tích cực của đoàn 
        thể, quốc gia xã hội. 
        Sự cường thịnh của 
        quốc gia và xã hội căn bản là con người hoạt động với 
        tinh thần đạo đức: C?n kiệm liêm chính, chí công vô tư... 
        
        Mạng mạch của chính pháp được nuôi dưỡng 
        từ các tăng sĩ có giới hạnh. 
        
        * * * 
        
        CÂU HỎI THẢO LUẬN 
        
          1. Dòng dõi và nghề 
          nghiệp của Ưu Ba Ly như thế nào? 
          2. Trạng thái tâm lý 
          của Ưu Ba Ly lúc cạo tóc cho Phật thế nào? 
          3. Ưu Ba Ly được nhận 
          vào giáo đoàn của Phật như thế nào? 
          4. Cô Hắc Ly Xa xuất 
          gia liên hệ đến giới mà Ưu Ba Ly hỏi Phật như thế nào? 
          5. Tại sao Tỳ Kheo, Tỳ 
          Kheo ni, không được làm mai mối giữa nam và nữ? 6. Phật 
          nói cách thăm nuôi bệnh nhân như thế nào? 
          7. Thế nào là phá 
          hòa hợp và hòa hợp Tăng? 
          8. Trong cuộc kiết tập 
          kinh điển tại Kỳ Xà Quật, Ưu Ba Ly đã làm gì? 
          9. Truyền thuyết khi 
          cạo tóc cho Phật, Ưu Ba Ly nhập từ sơ thiền đến tứ 
          thiền, hiện tượng này có viễn vông không? 
          10. Sự cường thịnh 
          của quốc gia, xã hội, mạng mạch của chính pháp dựa 
          vào yếu tố nào? 
         
        
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | 1.01 
        | 1.02 | 1.03 | 1.04 
        | 1.05 | 1.06 | 1.07 
        | 1.08 | 
        | 2.01 | 2.02 | 2.03 
        | 2.04 | 2.05 | 2.06 
        | 2.07 | 2.08 | 2.09 
        | 2.10 | 3 | Mục 
        lục  |