BÀI 1
Ngài XÁ
LỢI PHẤT
(Sariputra - Trí tuệ đệ nhất)
-ooOoo-
T
ừ
xưa đến nay, từ Ðông sang Tây, đa phần các tôn giáo đều
thiên về đức tin. Riêng Phật giáo thì ngược lại, chỉ tin
là khi đã dùng lý trí xét đoán. Nói khác hơn, Phật giáo
thiên về trí tuệ. Bởi thế, thông thường, Ðạo Phật được
gọi là đạo Trí Tuệ, đạo giác ngộ, đạo Bồ Ðề. Ðức
Phật là một con người đã đạt đến đỉnh cao của trí tuệ,
giác ngộ hoàn toàn. Người theo Ðạo Phật cần cầu trí
giác cao tột của Phật Ðà. Thời Phật còn tại thế, những
đệ tử của Phật đều chứng Thánh quả. Trong số 1.250 vị,
có 10 vị đạt đến địa vị ưu tú bậc nhất, gọi là 10
đại đệ tử, gọi chung là THÁNH CHÚNG. Ðứng đầu là Ngài
XÁ LỢI PHẤT, TRÍ TUỆ ÐỆ NHẤT.
I. - XÁ LỢI
PHẤT TRƯỚC KHI THEO PHẬT.
1. Gia thế Xá Lợi Phất.
Ở Nam Ấn Ðộ, tại nước
Ma Kiệt Ðà, cách thành Vương Xá khoảng hai, ba dặm, có một
thôn trang tên là Ca La Tý, nơi đây có non xanh nước biếc, cảnh
trí u tịch, Xá Lợi Phất đã ra đời trong bối cảnh địa
dư này.
Xá Lợi Phất thuộc
dòng dõi Bà La Môn. Thân phụ là Ưu Ba Ðề Xá hay Ưu Ba Thất
Sa (Upatisya), một luật sư nổi danh trong hàng Bà La Môn. Thân
mẫu là bà Xá Lợi (Sàri), cũng là một người phụ nữ thông
minh có tài biện luận. Bà là chị ruột của Câu Hy La
(Kausthila), tức là Phạm Chí Trường Trảo. Những lúc luận
bàn đạo lý với chị, Trường Trảo luôn luôn bí lối.
Không chịu thua chị, nhất là còn ngại về sau có thể thua
đứa cháu ở trong bào thai của chị. Với truyền thống của
gia đình, Trường Trảo tin con của Ưu Ba Thất sau sẽ thông
minh tuấn tú.
Vì tự ái, Trường Trảo
đến Nam Thiên Trúc quyết học 18 bộ kinh (xem chú thích ở cuối
bài).
Với lời thề, nếu chưa
thông suốt thì không cắt móng tay, vì có móng tay dài người
đời tặng cho Phạm Chí, biệt hiệu là Trường Trảo. Xưa
theo phong tục Ấn Ðộ, ngoài dùng tên cha để gọi con, phổ
biến hơn người đời còn có thói quen gọi con bằng tên mẹ.
Tiếng Phạn là Sàriputra, phiên âm là Xá Lợi Phất đa la, gọi
tắt là Xá Lợi Phất, có nghĩa là con trai của bà Xá Lợi.
Sàri là con trai của bà Xá Lợi. Còn Putra là con. Trung Quốc gọi
là Xá lợi Tử.
2. Tài biện luận và đạo
giáo của Xá Lợi Phất.
Xá Lợi Phất là một thần
đồng, lúc mới lên 8 tuổi, Xá Lợi Phất đã thuộc hết 18
bộ Kinh, biện tài vô ngại. Vào tháng 2, tại nước Ma Kiệt
Ðà, hai anh em trưởng giả Cát Lợi và A Già La hợp cùng dân
chúng tổ chức lễ tế đàn. Ðàn tràng tiếp đón khách quý
có 4 bậc:
- Vua
- Thái sư
- Ðại thần
- Luận sư
Khi đến dự lễ. Xá Lợi
Phất ngồi vào đàn thứ tư và dõng dạc tuyên bố: - Ai muốn
hỏi gì thì hỏi. Các Luận sư cho Xá Lợi Phất là một thiếu
niên ngỗ ngáo. Ðể hạ bệ Xá Lợi Phất, các luận sư cho các
đệ tử nhỏ tuổi đến chất vấn. Nhưng với tài biện luận
khúc chiếc, Xá Lợi Phất đã làm cho mọi người kinh ngạc,
và được nổi tiếng. Các luận sư đều thán phục. Quốc vương
vui mừng vì thấy đất nước có nhân tài lỗi lạc, nên đã
đem một trang trại ban cho Xá Lợi Phất.
Ðể quán thông triết
lý của các đạo giáo đương thời, năm 20 tuổi, Xá Lợi Phất
rời thôn trang, thân thuộc, đến học đạo lý với San Xa Da
Tỳ La Lê Tử (Sanjaya Belatthpiutta), một trong 6 phái lục sư
ngoại đạo. Ðây là phái hoài nghi, cho chân lý có thể biến
đổi, tu đạo là vô ích, chỉ cần tu thiền định là được
giải thoát. Trong một thời gian ngắn Xá Lợi Phất đã am tường
hết đạo lý của phái này, nhưng tư tưởng vẫn chưa thỏa
mãn. Xá Lợi Phất, đem tâm sự thố lộ với bạn đồng học
lúc bấy giờ là Mục Kiền Liên. Cả hai cùng đồng chung một
tâm trạng nên đều tính từ giã phái hoài nghi để làm một
học đoàn riêng. Tuổi trẻ tài cao, hai thanh niên cho là ở đời
không có người trí thức nào sánh kịp, và cũng chẳng ai có
tư cách để làm thầy mình. Chẳng bao lâu, mỗi vị đều có
100 đệ tử. Cả hai còn ước hẹn hễ ai đắc đạo trước
thì thông báo lại để dẫn dắt nhau tiến theo một con đường.
II.- ÐẠO
NGHIỆP CỦA XÁ LỢI PHẤT SAU KHI THEO ÐỨC PHẬT.
1. Xá Lợi Phất Ngộ Lý
Duyên sinh.
Một hôm tại thành Vương
Xá, Xá Lợi Phất gặp Mã Thắng tức A Xã Bệ Thệ (Asvajit)
đang đi khất thực. Ðây là một Tỳ kheo đã trải qua một
thời gian dài tu khổ hạnh. Khi gặp Phật, Tỳ kheo nghe Pháp TỨ
ÐẾ mà ngộ đạo, trở thành một trong 5 đệ tử đầu tiên
của Phật. Thấy phong độ uy nghi của Mã Thắng, Xá Lợi Phất
tỏ lòng kính phục và thân đến hỏi đạo. Mã Thắng cho Xá
Lợi Phất biết ông là đệ tử của Ðức Phật Thích Ca. Xá
Lợi Phất hỏi Mã Thắng về Ðạo Lý của Ðức Phật Thích
Ca. Mã Thắng đem đạo lý duyên sinh để giảng giải. Theo Phật,
tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà có
sinh, rồi cũng có hoại diệt khi nhân duyên đã hết. Giáo
pháp đó được diễn tả qua bài kệ:
"Các pháp do duyên
sinh, lại cũng do duyên diệt. Thầy tôi là Ðức Phật, thường
giảng dạy như vậy".
(Chư pháp tùng duyên
sinh, Diệt phục tùng duyên diệt, Ngã Phật đại sa môn, Thường
tác như thị thuyết.)
Nghe thuyết duyên sinh,
Xá Lợi Phất thấu suốt được sự thành hoại của vũ trụ
duyên sinh và rất thán phục Ðức Phật.
Xá Lợi Phất theo Mã Thắng
đến Trúc Lâm Tinh Xá bái yết Ðức Phật. Ðể khai thị
thêm cho Xá Lợi Phất, Phật thuyết đạo lý Vô Ngã Niết
Bàn... Theo Phật"các hành vô thường, là pháp sanh diệt,
sinh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui".
Trước Ðức Phật, Xá Lợi
Phất xin được quy y và xin được đưa Mục Kiền Liên đến
Tinh Xá Trúc Lâm. Hôm sau, cả Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên dẫn 200 đệ tử đến thọ giáo với Phật. Giáo đoàn của
Phật không những chỉ tăng thêm số lượng mà còn tăng thêm
về mặt chất lượng. Do đó, thanh thế của Phật còn tăng
thêm bội phần. Phật rất hài lòng vì thấy giáo pháp sâu xa
nhiệm mầu, từ nay đã có Xá Lợi Phất tiếp thu. Xá Lợi Phất
và Mục Kiền Liên là 2 thủ lãnh tư tưởng tôn giáo cao thâm
trong giới học đạo bấy giờ.
2. Xá Lợi Phất chỉ đạo
xây dựng Tinh Xá Kỳ Viên
Khi Phật đang ở phương
Nam Ấn Ðộ, có trưởng giả Tu Ðạt (Sudatta), hiệu là Cấp
Cô Ðộc, người thành Xá Vệ, nước Kiều Tát La (Kosala) ở
Tây Bắc Ma Kiệt Ðà, đến Tinh Xá Trúc Lâm nghe Phật thuyết
giảng pháp Bố thí. Bái phục Ðức Phật, trưởng giả muốn
xây dựng một tinh xá ở phương Bắc nước Ma Kiệt ÐÀ để
thỉnh Phật về hoằng hóa. Sau khi trải vàng mua đất của Thái
tử Kỳ Ðà, cạnh thành Vương Xá. Trưởng giả xin Phật đề
cử một vị thiết kế và trông coi công trình xây cất tinh
xá. Phật biết ở phương Bắc có nhiều triết nhân ngoại đạo,
chỉ có Xá Lợi Phất mới đủ sức thuyết phục. Ðể có thể
vừa trông coi công trình, vừa đối phó với ngoại đạo, Phật
cử Xá Lợi Phất theo Tu Ðạt về phương Bắc.
Tinh Xá bắt đầu khởi
công, hàng ngoại đạo tìm phương cản trở, ngăn chặn đà
phát triển của Phật giáo. Họ yêu cầu Tu Ðạt bỏ ý định
xây dựng Tinh Xá và cũng yêu cầu ông không nên theo Phật.
Vì đã thâm tín Phật, Tu Ðạt vẫn xúc tiến công trình; các
nhà ngoại đạo tính hạ uy tín Xá Lợi Phất, để giúp Tu Ðạt
bỏ Phật, Tu Ðạt rất lo ngại cho Xá Lợi Phất có thể
không trạnh biện nổi với ngoại đạo. Ông trình bày nổi
ưu tư với Xá Lợi Phất. Nhưng! Xá Lợi Phất cho đây là một
cơ hội tốt để đạo Phật tuyên dương chánh pháp. Xá Lợi
Phất nhờ Tu Ðạt đến hàng ngoại đạo ước hẹn ngày
tranh luận. Vốn xuất phát từ Bà La Môn và đã am tường các
triết thuyết đương thời, ngay trong lần tranh luận đầu tiên,
một mình Xá Lợi Phất đã thắng 10 luận sư danh tiếng của
ngoại đạo. Xá Lợi Phất đã tạo nhiều thanh thế cho Phật
ở phương Bắc.
Vì Xá Lợi Phất đã
chuyển hầu hết các tư tưởng gia ngoại về với Phật, khi
Phật chưa đến giáo hóa. Từ đó, sau khi Tinh Xá Kỳ Viên
hoàn thành, giáo đoàn của Phật về nước Xá Vệ được đón
tiếp vô cùng nồng hậu linh đình. Công trình xây dựng Tinh
Xá, Xá Lợi Phất thiết kế 16 tiểu đường, gồm có: phòng
ngủ, nhà khám bệnh, nhà tắm, nhà kho, nhà nhóm họp, giảng
đường...
Ðây là một trung tâm văn
hóa thứ 2 của Ấn Ðộ, gọi là Trung tâm Kiều Tát La. Còn
Trung tâm văn hóa thứ nhất được thành lập tại nước Ma
Kiệt Ðà.
3. Thọ thức ăn bất tịnh
Khi về thành Ca Tỳ La Vệ,
giáo hóa cho các bậc vương tôn, công tử, Phật cho La Hầu La
xuất gia và ủy thác cho Xá Lợi Phất lo việc dạy dỗ. Xá Lợi
Phất đã truyền thọ giới Sa Di cho La Hầu La.
Một hôm Xá Lợi Phất dẫn
Sa di La Hầu La đi khất thực. Hàng đàn na tín thí dâng cúng
thức ăn béo bổ, cho Xá Lợi Phất và các vị Tỳ kheo Trưởng
lão. Còn hàng Sa di chỉ thọ nhận các vật thực có ít dinh dưỡng
như xác mè ép, rau đồng luộc... trộn với cơm hẩm. Lòng của
La Hầu La rất bất mãn và có ý nghĩ rằng tuổi trẻ, sức
đang phát triển, ăn uống như thế cơ thể sẽ bị suy nhược,
không có sức khỏe để tiến tu đạo nghiệp. Khi về đến
Tinh Xá, lòng La Hầu La vẫn luôn rầu và lên trình với Phật
sự cố. Phật khuyên La Hầu La không nên có niềm đố kỵ.
Người xuất gia chỉ cầu Phật đạo, chứ đâu cần sự ăn
uống. Người tu hành khi thọ nhận cúng dường một hạt mè,
một hạt cơm, cũng nên tự thấy là đủ rồi. Có tam thường
bất túc, mới xứng đáng là bậc có chí xuất trần thượng
sĩ, đừng quá quan tâm đến việc ăn uống.
Tuy dạy La Hầu La như thế,
nhưng Phật cũng cho mời Xá Lợi Phất đến và dạy rằng:
- Xá Lợi Phất! Hôm nay ông thọ thức ăn bất tịnh,
ông có biết không?
Nghe Phật nói, Xá Lợi
Phất kinh hãi, liền cho thức ăn ói ra hết, rồi bạch Phật:
- Bạch Ðức Thế Tôn! Từ
khi xuất gia, con luôn luôn y pháp khất thực, chưa bao giờ con
trái nguyên tắc và thọ thức ăn bất tịnh.
Tuy biết rõ tâm của Xá
Lợi Phất, nhưng Phật giải thích:
- Xá Lợi Phất! Tuy ông
khất thực không trái phép nhưng không nên quên săn sóc các Tỳ
kheo nhỏ tuổi và Sa di. Khi khất thực hãy lưu tâm đến họ,
để họ khỏi sinh tâm đố kỵ, và phát tâm tôn kính bậc Trưởng
thượng. Nhân cơ hội này, Phật chế phép LỤC HÒA để làm
nguyên tắc sinh hoạt cho Tăng đoàn:
1) Cùng chung với nhau một
chỗ (thân hòa đồng trú).
2) Không nên tranh cãi với nhau (khẩu hòa vô tranh).
3) Thông cảm và cởi mở với nhau (ý hòa đồng duyệt).
4) Lợi lộc nên đem chia đều cho nhau (lợi hòa đồng quân).
5) Giới luật cùng nhau giữ gìn (giới hòa đồng tu)
6) San sử hiểu biết cho nhau (kiến hòa đồng giải)
Nghe xong, Xá Lợi Phất
hoan hỷ tín thọ và tuân hành áp dụng.
4. Kẻ phản nghịch kính
sợ:
Trong số đệ tử của
Phật, Ðề Bà Ðạt Ða luôn luôn muốn hạ Ðức Phật để làm
thầy. Ông vốn là con nhà thúc bá với Ðức Phật. Dù đã xuất
gia, ông xúi thanh niên hại Phật, dụ dỗ A Xà Thế thả voi
say chà Phật, ngay cả ông cũng đã xô đá làm cho Phật bị
thương ở chân, và ông cũng đã tách rời khỏi giáo đoàn để
làm giáo chủ.
Một hôm, Phật và Thánh
chúng đi khất thực về và đang nghỉ ngơi. Ðề Bà cầm đầu
một nhóm Tỳ kheo la lối om sòm, yêu cầu Phật nhường quyền
lãnh đạo tăng đoàn cho ông. Ðức Phật vẫn im lặng, mặc
cho Ðề Bà làm náo động. Không thể chịu đựng được. Ngài
A Nan là một bào đệ của ông lên tiếng chỉ trích nhục mạ
Ðề Bà.
A Nan dõng dạc nói:
- Xin Ðề Bà hãy im mồm,
Ðức Phật là bậc chí tôn, anh không thể thay thế Phật được.
Anh phỉ báng Phật, anh làm mất sự hòa hợp của Tăng đoàn,
anh sẽ mang tội rất nặng.
Giờ này, Xá Lợi Phất
và Mục Kiền Liên ở đây, anh không sợ sao? Chắc chắn hai vị
sẽ không để cho anh tung hoành như thế được?
Thấy không lay chuyển
được Phật, Ðề Bà chuyển hướng, đem lợi lộc của vua A
Xà Thế cúng dường, dụ dỗ các Tỳ kheo ham lợi, tách khỏi
đại chúng và thành lập một giáo đoàn riêng, do ông làm thủ
lãnh. Sau một buổi đi khất thực về, bè nhóm của Ðề Bà
Ðạt Ða tụ tập phân chia phẩm vật của Ðàn việt một
cách om xòm. Thấy trái đạo lý, Xá Lợi Phất lên tiếng:
- Này chư vị! Chúng ta
đi xuất gia với mục đích giác ngộ, giải thoát hay vì lợi
lộc cúng dường?
Cả nhóm đồng đáp:
- Thưa Xá Lợi Phất! Vì
mục đích tu đạo, cầu giác ngộ và giải thoát sinh tử
luân hồi.
- Thế! Các ông hãy loại
bỏ tâm tham thực, ăn năn sám hối, trở về giáo đoàn, tu
theo pháp lục hòa.
Nghe Xá Lợi Phất khuyến
hóa, cả nhóm đều bỏ rơi Ðề Bà, trở về với Ðức Phật.
Từ đó, uy tín Xá Lợi Phất được tăng thêm. Phật càng tin
tưởng uy thế của Xá Lợi Phất. Ðề Bà Ðạt Ða cũng kính
sợ Xá Lợi Phất hơn cả Phật.
5. Rộng lượng khoan dung
Tại Tinh Xá Kỳ Viên,
sau 3 tháng hạ, Xá Lợi Phất tạm biệt Ðức Phật để lên
đường đi hóa đạo. Khi Xá Lợi Phất ra khỏi cổng tinh xá,
1 Tỳ kheo thưa với Ðức Phật rằng: - Xá Lợi Phất, vô cớ
nhục mạ ông, rồi bỏ đi với lý do đi giáo hóa, thực sự
Xá lợi Phất không đi truyền bá Phật pháp. Phật cho gọi
Xá Lợi Phất trở lui và yêu cầu cho biết dữ kiện. Xá Lợi
Phất trình Phật:
- Bạch Ðức Thế Tôn!
Sau khi theo Ðức Thế Tôn học đạo, đến nay tuổi gần 80,
con chưa bao giờ làm tổn hại sinh mạng kẻ khác, chẳng biết
dối trá, chăm lo thăng tiến đạo nghiệp. Kể cả 40 năm qua,
được vinh dự làm môn đệ của Ðức Thế Tôn. Dù nhiều lần
được Ðức Thế Tôn khen ngợi, nhưng con chưa bao giờ tỏ ý
kiêu mạn, coi thường người khác. Từ đó, đâu dám nhục mạ
người cùng chung giáo đoàn.
Con thiết nghĩ: Ðất
luôn luôn nhận lãnh hết tất cả những sự dơ uế của thế
gian. Con tự nguyện làm đất luôn luôn nhẫn nhịn tất cả
những điều trái ý, không hạ nhục bất cứ ai. Dòng nước
cuốn trôi, rửa sạch tất cả những vết dơ bẩn của trần
gian. Con tự nguyện rửa sạch trần cấu cho mọi người. Cái
chổi quét sạch hết tất cả rác rưởi không hề phân biệt
con tự nguyện làm cái chổi quét sạch bụi trần của chúng
sinh. Bấy lâu, con chưa hề khinh khi ai, chưa hề có ý niệm
phân biệt, cố gắng không để tâm vọng động, thường an
trú trong chánh niệm. Bởi thế, nếu con còn có lỗi lầm
nào, xin các Tỳ kheo từ mẫn chỉ bảo, con xin thành khẩn y
pháp sám hối.
Ðể thỏa mãn cho tất cả
các môn đệ, Phật cho gọi các Tỳ kheo đương cáo ra đối
chứng. Trước giáo đoàn, vị Tỳ kheo đã nói dối rất hổ
thẹn, xin Phật và Xá Lợi Phất rộng lượng khoan dung. Phật
bảo trong đời có 2 hạng người mạnh nhất:
- Ðó là người không
có tội.
- Người có tội mà biết ăn năn sám h?i.
Riêng Xá Lợi Phất
không những không oán giận mà con hoan hỷ khoan dung.
6. Phẩm hạnh nhường nhịn
Một hôm Xá Lợi Phất
đi truyền giáo ở phương xa, đến trời tối mới trở về.
Các phòng xá đều bị nhóm Tỳ kheo Lục quần chiếm hết. Ngại
Lục quần làm ồn ào, Xá Lợi Phất lẳng lặng ra ngoài sân,
ngủ dưới gốc cây. Sáng ngày, biết được sự ngủ nghỉ mất
trật tự, Ðức Phật gọi nhóm Lục quần đến hỏi lý do.
Nhóm Lục quần bạch với Phật rằng:
- Xá Lợi Phất không xuất
thân từ hàng Bà La Môn, cũng không phải dòng dõi Sát Ðế Lợi,
do đó Xá Lợi Phất không có quyền có chỗ ngủ riêng, sàng
tòa tốt đẹp...
Ðể ngăn chặn sự sai
trái của nhóm Lục quần, Phật dạy:
- Ngày xưa, trong núi Tuyết
có chim chè có, khỉ, voi, đồng chung ở. Tuy là bằng hữu, những
cả ba loài không nhường nhịn nhau, con nào cung tự cao tự đại
định hại nhau. May có một vị tiên giải thích sự phải
trái, cả 3 loài mới biết kính nhường loài lớn tuổi.
Các Tỳ kheo! Giáo pháp của
ta xương minh phép bình đẳng, nhưng không vì thế mà mất trật
tự. Những ai có đạo hạnh cao, pháp lạp nhiều, tuổi lớn,
phải được cung kính cúng dường, ưu tiên nơi ăn chốn ở
được tốt nhất, nước uống tốt nhất, thực phẩm ngon
tươi nhất.
Nghe Phật nói, đại chúng
đều y giáo phụng hành. Xá Lợi Phất không vì thế mà ngã mạn,
lại cảm ơn sự ưu ái của Phật và sự trọng nể của
giáo đoàn.
7. Phép ăn của Tỳ kheo
Một ngày nọ, sau khi khất
thực về, Xá Lợi Phất quay mặt vào vách mà ăn. Thấy vậy,
nữ Phạm Chí Tịnh Mục chất vấn:
- Ông đang ăn?
- Không, Xá Lợi Phất đáp.
- Ông cúi miệng mà ăn?
- Không!
- Ông ngửa miệng mà
ăn?
- Không
- Vuông miệng mà ăn?
- Không
- Quay miệng bốn phương
mà ăn?
- Không
Không phải 4 phép ăn
như trên, thế thì ông ăn bằng cách nào?
Xá Lợi Phất giải
thích:
- Người xuất gia đem
thảo mộc đổi thức ăn mà ăn, gọi là cúi miệng mà ăn.
- Dùng phép xem tinh tú (trời trăng để có ăn) gọi là ngửa
miệng mà ăn.
- Nịnh bợ nhà giàu để được ăn, gọi là vuông miệng
mà ăn.
- Bói toán, bùa chú để có ăn, gọi là quay miệng 4 phương
mà ăn.
Ta không ăn theo 4 pháp đó.
Người tu hành chỉ đi khất thực mà ăn một cách thanh tịnh.
Nghe Xá Lợi Phất giảng
giải, nữ Phạm Chí sinh tâm hoan hỷ, chứng quả Tu Ðà Hoàn.
8. Khen một cái chết đẹp
Thấm nhuần tư tưởng bình
đẳng, dù đã chứng Thánh quả, đối với nữ giới, Xá Lợi
Phất vẫn kính trọng.
Gần thành Vương Xá
trong một khu rừng, khi đang ngồi thiền định, bỗng nghe tiếng
Tỳ kheo ni Ưu Ba Tiên Na kêu cứu ở một khu rừng đối diện,
Xá Lợi Phất liền xả thiền, vội vàng đi tiếp cứu. Khi Xá
Lợi Phất đến, Ưu Ba Tiên Na lấy lại được sự bình thản
và trình bày:
- Thưa Tôn giả! Vừa rồi
trong lúc đang tọa thiền, con nghe một vật gì láng trơn, chạm
vào cơ thể, con liền nghĩ có thể đó là một con rắn. Tức
thì con liền bị rắn cắn. Nọc độc của rắn đã ngấm
vào người con, và con sẽ lìa đời.
Con xin tôn giả thông báo cho chư ni quy tụ về
đây để con tỏ lời cáo biệt.
Bấy giờ, sắc diện của
Ưu Ba Tiên Na vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra.
Thấy thế, Xá Lợi Phất nói với Ưu Ba Tiên Na rằng:
- Chắc không hề gì, vì
sắc diện của Tỳ kheo không biến đổi.
Uu Ba Tiên Na thưa rằng:
- Bạch Tôn giả! Với đạo
lý của Ðức Phật, thân do 4 đại, 5 uẩn, hư vọng hợp thành,
không có chủ tể, là vô thường, là không, rắn làm sao cắn
được cái "KHÔNG". Con thầm hiểu như thế nên con
không cảm thấy đau đớn. Nhờ đó mà nét mặt con không biến
sắc.
Xá Lợi Phất hết lòng
khen ngợi Ưu Ba Tiên Na và thông báo cho Tỳ kheo, Tỳ kheo ni,
ở trong khu rừng tập họp và đưa Ưu Ba Tiên Na ra khỏi hang
động. Khi nọc đọc của rắn đã ngấm khắp cơ thể, Ưu Ba
Tiên Na xã bỏ báo thân vào cõi tịch diệt Niết Bàn
Trước các Tỳ kheo và Tỳ
kheo ni, Xá Lợi Phất ca ngợi Ưu Ba Tiên Na, do đạt được giới
thân tuệ mạng nên có một cái chết thật đẹp, sắp chết
mà sắc diện vẫn không bị biến đổi, tâm hồn lại rất
bình thản, đáng cho người tu hành phải noi gương.
II - XÁ LỢI
PHẤT VIÊN TỊCH
Lại một hôm khi nghe tin
người lão hữu Mục Kiên Liên bị bọn lõa hình ngoại đạo
ám hại tại thành Thất La Phiệt (tức Xá Vệ), lúc đang đi
thuyết giáo, Xá Lợi Phất vô cùng buồn rầu, suốt mấy
ngày liền. Bấy giờ, Phật, Xá Lợi Phất và một số Tỳ
kheo đang ở tại thành Vương Xá. Thấy Xá Lợi Phất vì thương
bạn mà ủ rủ, Phật phải khuyên răn. Sau đó, Phật tập họp
tăng chúng, báo tin cho tất cả biết tin Mục Kiền Liên đã
vào Niết Bàn, và nhân đó, Phật cũng báo cho chúng tăng hay
sau 3 tháng nữa là Phật sẽ vào Niết Bàn.
Cùng lúc, nhận được
hai tin buồn, Mục Kiền Liên đã chết một cách bi thảm, và
Phật cũng sắp ra đi, lòng Xá Lợi Phất vô cùng chua xót. Bởi
thế, liền ngày hôm đó, Xá Lợi Phất bạch Phật xin được
về quê thăm mẹ, và nhập Niết Bàn trước Phật. Vì theo Xá
Lợi Phất, trong quá khứ các đệ tử hàng đầu đều Niết
Bàn trước vị giáo chủ đương thời. Hơn nữa, Xá Lợi Phất
không muốn chứng kiến cảnh đau buồn khi Phật nhập Niết Bàn.
Sau khi tạ từ Ðức Phật
và giáo đoàn, Xá Lợi Phất lên đường về quê nhà tại
thôn Ca La Tỳ Ma Ca với một Sa di tên là Quân Ðầu. Lúc này
Xá Lợi Phất đã 80 tuổi. Bà Xá Lợi Cũng đã ngoài 100 tuổi.
Vì đã 40 năm xá cách, Mẹ con gặp nhau trong cảnh mừng mừng
tủi tủi... Dù đã già, bà vẫn xem tôn giả như hồi còn thơ
ấu, bà sai cháu gái là: Ưu Ba Ly Ðà Ba thu dọn cho Tôn giả một
căn phòng thật khang trang. Ngay trong đêm gặp mẹ già, ngoài vấn
đề giảng giải đạo lý của đức Phật, Xá Lợi Phất bày
tỏ tâm sự: Trước là về quê thăm mẹ, sau cũng xin phép mẹ
được từ giã cõi đời tại quê nhà. Tuy có đau buồn,
nhưng bà Xá Lợi cũng thấy vinh dự có được một người
con đạo cao đức trọng, biết trước ngày giờ bỏ xác thân
để sửa soạn giờ biệt ly vô cùng chu đáo. Sau đêm tâm sự
với Mẹ già, Xá Lợi Phất cho triệu tập dân làng đến để
bố giáo và tỏ lời từ biệt. Trước dân làng, trước môn
đồ tứ chúng, và có cả vua A Xà Thế, Xá Lợi Phất bày tỏ
tâm tình thiết tha yêu quê hương, xứ sở và đem giáo pháp của
Phật khuyên bảo mọi người.
Xá Lợi Phất bày tỏ mục
đích ra đời của Phật là: Vì một đại sự nhân duyên chỉ
rõ tri kiến Phật cho chúng sinh. Con người cần tiến tu Giới,
Ðịnh, Tuệ để giải thoát sinh tử luân hồi.
Nhưng trước hết phải
xây dựng con người, tạo lập một quốc gia xã hội an bình
tốt đẹp là chính yếu. Con người nên noi gương từ bi nhẫn
của Phật để sinh hoạt.
Vào đến nửa đêm, mọi
vật hoàn toàn yên lặng, Xá Lợi Phất lạy chào mẹ già, Vua
A Xà Thế, và tất cả những người hiện diện rồi nhập đại
định Niết Bàn. Sau khi làm lễ Trà Tỳ, Sa di Quân Ðầu mang
hài cốt Xá Lợi Phất trở về trình với Ðức Phật. Ðể
giáo đoàn được chiêm bái, và nhân thể tán dương Xá Lợi
Phất, Phật tập họp đại chúng Tỳ kheo lại và dạy rằng:
- Ðây là hài cốt của
Xá Lợi Phất, một bậc trí tuệ hàng đầu. Xá Lợi Phất
là người đã tiếp thu trọn vẹn giáo pháp cao huyền của ta
đã chứng ngộ ở gốc cây Bồ Ðề. Con người nầy đã từng
vì chúng sanh mà bố giáo khắp nơi. Giáo pháp của ta được
truyền bá đầu tiên ở phương Bắc, đó là công lao của Xá
Lợi Phất. Trí tuệ của Xá Lợi Phất thật là trí tuệ cao
tuyệt, trừ đức Phật ra, không ai bì kịp. Qua trí tuệ đó,
Xá Lợi Phất đã thành tựu đạo nghiệp. Bậc đại trí nầy
đã chứng pháp tính, ít muốn, biết đủ, siêng năng dũng mãnh,
tiến tu thiền định, không cố chấp trước, đối với ngoại
đạo luận bàn vô ngại, hoằng truyền chính pháp, lợi lạc
mọi người, thoát ly sinh tử khổ đau, chứng nhập Niết Bàn.
IV - NHẬN
THỨC VÀ KẾT LUẬN:
Trong hàng Thánh chúng hay
trong 10 đại đệ tử Phật, Xá Lợi Phất đứng hàng đầu,
vì đạo Phật là đạo của trí tuệ. Mục đích của Phật
là khai thị cho chúng sanh cái tri kiến của chư Phật (Kinh Pháp
Hoa, phẩm tựa). Mặt khác, với triết lý của Ðạo Phật,
thuyết duyên sinh là một thuyết lý thâm áo nhất.
Ðạo Phật giải thích sự
hiện hữu của mọi hiện tượng, sự vật khách quan, thế giới
hữu hình qua thuyết duyên sinh, sự vật sinh sinh hóa hóa,
liên hệ chằng chịt với nhau, kinh Hoa Nghiêm gọi là trùng
trùng duyên khởi. Cái nầy có thì cái kia có, cái nầy diệt
thì cái kia diệt.
Có lần Tỳ kheo Mang Ðồng
Tử (Malankyaputra) hỏi Phật về thế giới thường hay vô thường,
hữu biên hay vô biên, Phật cho là không nên hý luận, nhưng
không vì thế mà Phật không giải thích thế giới hiện tượng.
Chính thuyết duyên sinh nầy đã giải thích sự sinh tồn của
vũ trụ vạn vật. Xá Lợi Phất đã thấu rõ thuyết duyên
sinh. Bởi thế: XÁ LỢI PHẤT LÀ BẬC TRÍ TUỆ ÐỆ NHẤT, ÐỨNG
ÐẦU TRONG HÀNG THÁNH CHÚNG.
Nhờ có trí tuệ đệ nhất,biện
tài vô ngại, Xá Lợi Phất đã chinh phục các luật sư của
Bà La Môn ở phương Bắc Ấn Ðộ, khi Xá Lợi Phất đến Ma
Kiệt Ðà để trông coi công trình xây dựng Tinh Xá Kỳ Viên.
Ngoài trí tuệ, Xá Lợi
Phất còn là nhà kiến trúc đại tài. Tôn giả đã thiết kế
và trực tiếp chỉ đạo xây dựng Tinh Xá Kỳ Viên. Ðây là
trung tâm sinh hoạt văn hóa ngang hàng với Trung tâm văn hóa Kiều
Tát La. Thời Phật còn ở đời Ấn Ðộ có 2 trung tâm văn hóa
lớn nhất là Ma Kiệt Ðà và Kiều Tát La.
Khi Phật còn ở đời, Xá
Lợi Phất được Phật tín nhiệm và người được sai đi bố
thí giáo đầu tiên, phải kể là Xá Lợi Phất. Vì ngoài trí
tuệ, biện tài, Xá Lợi Phất còn am tường mọi tập tục,
truyền thống của dân tộc Ấn Ðộ, hơn nữa là ngôn ngữ
đương thời của Ấn Ðộ, thời cổ đại tư tưởng tôn
giáo đã nhiều mà ngôn ngữ các địa phương không phải là
một. Bởi thế Xá Lợi Phất mới đại Phật tuyên dương giáo
pháp khi Phật còn hiện diện.
Mặt khác, Xá Lợi Phất
còn là vị có phẩm hạnh cao, khi bị chỉ trích là đã thọ
thức ăn bất tịnh, con người khinh mạn, bị Lục quần chiếm
chỗ ngủ nghỉ... Xá Lợi Phất vẫn từ ái khoan dung, không
tranh chấp, thù oán. Trí tuệ đã cao mà từ ái lại bao la,
Xá Lợi Phất được giáo đoàn kính nể. Ðề Bà Ðạt Ða
là một con người có nhiều tác oai tác quái, đòi thay Phật
lãnh đạo giáo đoàn, nhưng đối với Xá Lợi Phất vẫn
kính sợ hơn cả Phật.
Sau hết, Xá Lợi Phất
còn là con người tha thiết với quê hương, với thôn xóm, với
mẹ già, với nhân dân. Khi 80 tuổi Xá Lợi Phất quay về với
mẹ già với dân làng, với bờ ao, với đồng ruộng, rẫy bái...
Ðể phố biến tinh thân nhẫn nại sinh hoạt cho mọi người
rồi mới vào Niết Bàn. Tuy khác quốc độ nhưng Xá Lợi Phất
đã cùng đồng quan điểm với nhân dân Việt Nam, con người
rất tha thiết với đồng ruộng lũy tre, nơi chôn nhau cắt
rún.
Nhìn chung, với những người
xuất gia theo Phật để được gọi là toàn bích phải được
đầy đủ 3 đức: An Ðức, Trí Ðức, và Ðoạn Ðức, Xá Lợi
Phất đã thể hiện trọn vẹn, cho nên xứng đáng là vị đứng
đầu trong giáo đoàn của Phật. Nhưng không vì đạo nghiệp
giải thoát mà quên mất mẹ già quê hương, thôn xóm, dù đã
80 tuổi, Xá Lợi Phất vẫn về quê nhà truyền bá nếp sinh
hoạt vị tha, vô ngã... Xá Lợi Phất xứng đáng là một biểu
tượng cần được phổ biến cho mọi người noi theo.
CHÚ THÍCH
18 bộ kinh gồm có: 4
bộ Vệ đà, 6 luận và 8 luận
* 4 bộ Vệ Ðà:
- Lê Câu Vệ Ðà (Kệ
tụng triết lý Vệ Ðà),
- Dạ Ma Vệ Ðà (giải thích kệ tụng, binh pháp),
- Sa Ma Vệ Ðà (nghi thức tế tự bốn mùa)
- A Thát Bà Vệ Ðà (Thần chú).
* 6 luận:
- Thức xoa luận (nói
rõ 64 loại năng pháp)
- Tỳ già luận (giải thích pháp vô thường)
- Kha lặc 3 luận (giải thích nhân duyên, danh tự, thiên,
tiên, từ xưa đến nay).
- Kiên để sa luận (giải thích, thiên văn, địa lý, bói
toán...)
- Xạ đà luận: (giải thích phép tác thủ lô ca)
- Tỷ lộc đa luận (giải thích nhân duyên lập danh của tất
cả các vật thể).
* 8
luận:
- My vong bà luận (giải
thích sự thị phi của các pháp)
- Hác tà tỳ tát đa luận (nói rõ đạo lý các pháp)
- Y để ca bà luận (nói rõ việc truyền ký đời trước).
- Tăng pháp luận (nói rõ pháp 25 để)
- Khóa già luận (nói rõ pháp nhiếp tâm)
Ðây là 2 luận đều
giải thích nghĩa giải thoát.
- Ðà uyển luận (giải
pháp dụng binh)
- Kiền thát bà luận (phép âm nhạc)
- A Du luận (rút ra từ bách luận sớ).
* * *
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Hãy kể tên 10 đại
đệ tử?
2. Gia thế của Xá Lợi
Phất như thế nào
3. Tại lễ tế đàn
ở nước Ma Kiệt Ðà, Xá Lợi Phất đã làm gì? Quan điểm
đạo giáo của tôn giả như thế nào? 4. Với Phật giáo,
Xá Lợi Phất ngộ lý gì?
5. Ngoài kinh điển, Xá
Lợi Phất còn có tài gì?
6. La Hầu La phàn nàn với
Xá Lợi Phất điều gì? Phật nói điều gì với Xá Lợi Phất?
7. Ðề Bà Ðạt Ða đối
với Xá Lợi Phất như thế nào?
8. Xá Lợi Phất có phẩm
hạnh gì?
9. Xá Lợi Phất Niết
Bàn như thế nào?
10. Qua cuộc đời và
Ðạo pháp của Xá Lợi Phất chúng ta có nhận thức gì ?
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.01
| 1.02 | 1.03 | 1.04
| 1.05 | 1.06 | 1.07
| 1.08 |
| 2.01 | 2.02 | 2.03
| 2.04 | 2.05 | 2.06
| 2.07 | 2.08 | 2.09
| 2.10 | 3 | Mục
lục