BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font


Phật và Thánh chúng
Thích Minh Tuệ
Sài Gòn, 1990


PHẦN HAI

THÁNH CHÚNG HAY MƯỜI ÐẠI ÐỆ TỬ

-ooOoo- 

LỜI NÓI ÐẦU

Trong thế giới nay, khoa học vô cùng phát triển đủ mọi mặt. Trong cuộc sống, thứ gì không khoa học hiện đại, nhất định phải tàn lụi theo thời gian, hoặc theo thời gian mà bị biến thể. Với đạo Phật, qua thời gian và không gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời, khi con người chưa thánh thiện. Khoa học chưa đưa con người đến an lạc hoàn toàn, chưa thực sự trở về diệt tận nguồn gốc tham ái, si mê, chấp ngã... thì thuyết TỨ ÐẾ vẫn được con người tín nhận. Ðó là mặt nhân sinh, còn về vũ trụ, khoa học chưa khám phá, chinh phục được thiên nhiên, đối tượng khách quan, thì thuyết duyên sinh trùng trùng phát khởi của đạo Phật vẫn cần thiết cho tri thức con người. Ðó là lý do mà không ai có thể ngăn chặn con đường tìm về Ðạo Phật ngày một sâu rộng của con người. Tuy nhiên có một vấn đề đáng được nêu ra là ngày nay người theo Ðạo Phật, nghiên cứu tìm hiểu lời Phật dạy thật đông đảo, nhưng người tu hành chứng ngộ lại rất hiếm.

Ngày xưa, thuở Phật còn tại thế, đa phần các đệ tử xuất gia của Ngài đều chứng A La Hán, như 1.250 vị tỳ kheo mà kinh thường nhắc đến. Trong số đó, bậc ưu tú về mặt đạo hạnh, sở trường và sở chứng, có 10 vị được gọi là 10 đại đệ tử, gọi chung là THÁNH CHÚNG. Lịch sử Phật giáo liệt kê như sau:

1. XÁ LỢI PHẤT: TRÍ TUỆ ÐỆ NHẤT
2. MỤC KIỀN LIÊN: THẦN THÔNG ÐỆ NHẤT
3. PHÚ LÂU NA: THUYẾT PHÁP ÐỆ NHẤT
4. TU BỒ ÐỀ: GIẢI KHÔNG ÐỆ NHẤT
5. CA CHIÊN DIÊN: LUẬN NGHỊ ÐỆ NHẤT
6. ÐẠI CA DIẾP: ÐẦU ÐÀ ÐỆ NHẤT
7. A NA LUẬT: THIÊN NHÃN ÐỆ NHẤT
8. ƯU BA LY: TRÌ GIỚI ÐỆ NHẤT
9. A NAN ÐÀ: ÐA VĂN ÐỆ NHẤT
10. LA HẦU LA: MẬT HẠNH ÐỆ NHẤT

Sau đây chúng ta lần lượt tìm hiểu cuộc đời và đạo nghiệp của các Ngài để noi theo hầu trở nên con người tốt trên bước đường phụng vụ Ðạo Pháp và xây dựng Quốc gia xã hội ngày thêm tịnh lạc...

THÍCH MINH TUỆ


BÀI 1

Ngài XÁ LỢI PHẤT
(Sariputra - Trí tuệ đệ nhất)

-ooOoo-

Từ xưa đến nay, từ Ðông sang Tây, đa phần các tôn giáo đều thiên về đức tin. Riêng Phật giáo thì ngược lại, chỉ tin là khi đã dùng lý trí xét đoán. Nói khác hơn, Phật giáo thiên về trí tuệ. Bởi thế, thông thường, Ðạo Phật được gọi là đạo Trí Tuệ, đạo giác ngộ, đạo Bồ Ðề. Ðức Phật là một con người đã đạt đến đỉnh cao của trí tuệ, giác ngộ hoàn toàn. Người theo Ðạo Phật cần cầu trí giác cao tột của Phật Ðà. Thời Phật còn tại thế, những đệ tử của Phật đều chứng Thánh quả. Trong số 1.250 vị, có 10 vị đạt đến địa vị ưu tú bậc nhất, gọi là 10 đại đệ tử, gọi chung là THÁNH CHÚNG. Ðứng đầu là Ngài XÁ LỢI PHẤT, TRÍ TUỆ ÐỆ NHẤT.

I. - XÁ LỢI PHẤT TRƯỚC KHI THEO PHẬT.

1. Gia thế Xá Lợi Phất.

Ở Nam Ấn Ðộ, tại nước Ma Kiệt Ðà, cách thành Vương Xá khoảng hai, ba dặm, có một thôn trang tên là Ca La Tý, nơi đây có non xanh nước biếc, cảnh trí u tịch, Xá Lợi Phất đã ra đời trong bối cảnh địa dư này.

Xá Lợi Phất thuộc dòng dõi Bà La Môn. Thân phụ là Ưu Ba Ðề Xá hay Ưu Ba Thất Sa (Upatisya), một luật sư nổi danh trong hàng Bà La Môn. Thân mẫu là bà Xá Lợi (Sàri), cũng là một người phụ nữ thông minh có tài biện luận. Bà là chị ruột của Câu Hy La (Kausthila), tức là Phạm Chí Trường Trảo. Những lúc luận bàn đạo lý với chị, Trường Trảo luôn luôn bí lối. Không chịu thua chị, nhất là còn ngại về sau có thể thua đứa cháu ở trong bào thai của chị. Với truyền thống của gia đình, Trường Trảo tin con của Ưu Ba Thất sau sẽ thông minh tuấn tú.

Vì tự ái, Trường Trảo đến Nam Thiên Trúc quyết học 18 bộ kinh (xem chú thích ở cuối bài).

Với lời thề, nếu chưa thông suốt thì không cắt móng tay, vì có móng tay dài người đời tặng cho Phạm Chí, biệt hiệu là Trường Trảo. Xưa theo phong tục Ấn Ðộ, ngoài dùng tên cha để gọi con, phổ biến hơn người đời còn có thói quen gọi con bằng tên mẹ. Tiếng Phạn là Sàriputra, phiên âm là Xá Lợi Phất đa la, gọi tắt là Xá Lợi Phất, có nghĩa là con trai của bà Xá Lợi. Sàri là con trai của bà Xá Lợi. Còn Putra là con. Trung Quốc gọi là Xá lợi Tử.

2. Tài biện luận và đạo giáo của Xá Lợi Phất.

Xá Lợi Phất là một thần đồng, lúc mới lên 8 tuổi, Xá Lợi Phất đã thuộc hết 18 bộ Kinh, biện tài vô ngại. Vào tháng 2, tại nước Ma Kiệt Ðà, hai anh em trưởng giả Cát Lợi và A Già La hợp cùng dân chúng tổ chức lễ tế đàn. Ðàn tràng tiếp đón khách quý có 4 bậc:

- Vua
- Thái sư
- Ðại thần
- Luận sư

Khi đến dự lễ. Xá Lợi Phất ngồi vào đàn thứ tư và dõng dạc tuyên bố: - Ai muốn hỏi gì thì hỏi. Các Luận sư cho Xá Lợi Phất là một thiếu niên ngỗ ngáo. Ðể hạ bệ Xá Lợi Phất, các luận sư cho các đệ tử nhỏ tuổi đến chất vấn. Nhưng với tài biện luận khúc chiếc, Xá Lợi Phất đã làm cho mọi người kinh ngạc, và được nổi tiếng. Các luận sư đều thán phục. Quốc vương vui mừng vì thấy đất nước có nhân tài lỗi lạc, nên đã đem một trang trại ban cho Xá Lợi Phất.

Ðể quán thông triết lý của các đạo giáo đương thời, năm 20 tuổi, Xá Lợi Phất rời thôn trang, thân thuộc, đến học đạo lý với San Xa Da Tỳ La Lê Tử (Sanjaya Belatthpiutta), một trong 6 phái lục sư ngoại đạo. Ðây là phái hoài nghi, cho chân lý có thể biến đổi, tu đạo là vô ích, chỉ cần tu thiền định là được giải thoát. Trong một thời gian ngắn Xá Lợi Phất đã am tường hết đạo lý của phái này, nhưng tư tưởng vẫn chưa thỏa mãn. Xá Lợi Phất, đem tâm sự thố lộ với bạn đồng học lúc bấy giờ là Mục Kiền Liên. Cả hai cùng đồng chung một tâm trạng nên đều tính từ giã phái hoài nghi để làm một học đoàn riêng. Tuổi trẻ tài cao, hai thanh niên cho là ở đời không có người trí thức nào sánh kịp, và cũng chẳng ai có tư cách để làm thầy mình. Chẳng bao lâu, mỗi vị đều có 100 đệ tử. Cả hai còn ước hẹn hễ ai đắc đạo trước thì thông báo lại để dẫn dắt nhau tiến theo một con đường.

II.- ÐẠO NGHIỆP CỦA XÁ LỢI PHẤT SAU KHI THEO ÐỨC PHẬT.

1. Xá Lợi Phất Ngộ Lý Duyên sinh.

Một hôm tại thành Vương Xá, Xá Lợi Phất gặp Mã Thắng tức A Xã Bệ Thệ (Asvajit) đang đi khất thực. Ðây là một Tỳ kheo đã trải qua một thời gian dài tu khổ hạnh. Khi gặp Phật, Tỳ kheo nghe Pháp TỨ ÐẾ mà ngộ đạo, trở thành một trong 5 đệ tử đầu tiên của Phật. Thấy phong độ uy nghi của Mã Thắng, Xá Lợi Phất tỏ lòng kính phục và thân đến hỏi đạo. Mã Thắng cho Xá Lợi Phất biết ông là đệ tử của Ðức Phật Thích Ca. Xá Lợi Phất hỏi Mã Thắng về Ðạo Lý của Ðức Phật Thích Ca. Mã Thắng đem đạo lý duyên sinh để giảng giải. Theo Phật, tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà có sinh, rồi cũng có hoại diệt khi nhân duyên đã hết. Giáo pháp đó được diễn tả qua bài kệ:

"Các pháp do duyên sinh, lại cũng do duyên diệt. Thầy tôi là Ðức Phật, thường giảng dạy như vậy".

(Chư pháp tùng duyên sinh, Diệt phục tùng duyên diệt, Ngã Phật đại sa môn, Thường tác như thị thuyết.)

Nghe thuyết duyên sinh, Xá Lợi Phất thấu suốt được sự thành hoại của vũ trụ duyên sinh và rất thán phục Ðức Phật.

Xá Lợi Phất theo Mã Thắng đến Trúc Lâm Tinh Xá bái yết Ðức Phật. Ðể khai thị thêm cho Xá Lợi Phất, Phật thuyết đạo lý Vô Ngã Niết Bàn... Theo Phật"các hành vô thường, là pháp sanh diệt, sinh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui".

Trước Ðức Phật, Xá Lợi Phất xin được quy y và xin được đưa Mục Kiền Liên đến Tinh Xá Trúc Lâm. Hôm sau, cả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên dẫn 200 đệ tử đến thọ giáo với Phật. Giáo đoàn của Phật không những chỉ tăng thêm số lượng mà còn tăng thêm về mặt chất lượng. Do đó, thanh thế của Phật còn tăng thêm bội phần. Phật rất hài lòng vì thấy giáo pháp sâu xa nhiệm mầu, từ nay đã có Xá Lợi Phất tiếp thu. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là 2 thủ lãnh tư tưởng tôn giáo cao thâm trong giới học đạo bấy giờ.

2. Xá Lợi Phất chỉ đạo xây dựng Tinh Xá Kỳ Viên

Khi Phật đang ở phương Nam Ấn Ðộ, có trưởng giả Tu Ðạt (Sudatta), hiệu là Cấp Cô Ðộc, người thành Xá Vệ, nước Kiều Tát La (Kosala) ở Tây Bắc Ma Kiệt Ðà, đến Tinh Xá Trúc Lâm nghe Phật thuyết giảng pháp Bố thí. Bái phục Ðức Phật, trưởng giả muốn xây dựng một tinh xá ở phương Bắc nước Ma Kiệt ÐÀ để thỉnh Phật về hoằng hóa. Sau khi trải vàng mua đất của Thái tử Kỳ Ðà, cạnh thành Vương Xá. Trưởng giả xin Phật đề cử một vị thiết kế và trông coi công trình xây cất tinh xá. Phật biết ở phương Bắc có nhiều triết nhân ngoại đạo, chỉ có Xá Lợi Phất mới đủ sức thuyết phục. Ðể có thể vừa trông coi công trình, vừa đối phó với ngoại đạo, Phật cử Xá Lợi Phất theo Tu Ðạt về phương Bắc.

Tinh Xá bắt đầu khởi công, hàng ngoại đạo tìm phương cản trở, ngăn chặn đà phát triển của Phật giáo. Họ yêu cầu Tu Ðạt bỏ ý định xây dựng Tinh Xá và cũng yêu cầu ông không nên theo Phật. Vì đã thâm tín Phật, Tu Ðạt vẫn xúc tiến công trình; các nhà ngoại đạo tính hạ uy tín Xá Lợi Phất, để giúp Tu Ðạt bỏ Phật, Tu Ðạt rất lo ngại cho Xá Lợi Phất có thể không trạnh biện nổi với ngoại đạo. Ông trình bày nổi ưu tư với Xá Lợi Phất. Nhưng! Xá Lợi Phất cho đây là một cơ hội tốt để đạo Phật tuyên dương chánh pháp. Xá Lợi Phất nhờ Tu Ðạt đến hàng ngoại đạo ước hẹn ngày tranh luận. Vốn xuất phát từ Bà La Môn và đã am tường các triết thuyết đương thời, ngay trong lần tranh luận đầu tiên, một mình Xá Lợi Phất đã thắng 10 luận sư danh tiếng của ngoại đạo. Xá Lợi Phất đã tạo nhiều thanh thế cho Phật ở phương Bắc.

Vì Xá Lợi Phất đã chuyển hầu hết các tư tưởng gia ngoại về với Phật, khi Phật chưa đến giáo hóa. Từ đó, sau khi Tinh Xá Kỳ Viên hoàn thành, giáo đoàn của Phật về nước Xá Vệ được đón tiếp vô cùng nồng hậu linh đình. Công trình xây dựng Tinh Xá, Xá Lợi Phất thiết kế 16 tiểu đường, gồm có: phòng ngủ, nhà khám bệnh, nhà tắm, nhà kho, nhà nhóm họp, giảng đường...

Ðây là một trung tâm văn hóa thứ 2 của Ấn Ðộ, gọi là Trung tâm Kiều Tát La. Còn Trung tâm văn hóa thứ nhất được thành lập tại nước Ma Kiệt Ðà.

3. Thọ thức ăn bất tịnh

Khi về thành Ca Tỳ La Vệ, giáo hóa cho các bậc vương tôn, công tử, Phật cho La Hầu La xuất gia và ủy thác cho Xá Lợi Phất lo việc dạy dỗ. Xá Lợi Phất đã truyền thọ giới Sa Di cho La Hầu La.

Một hôm Xá Lợi Phất dẫn Sa di La Hầu La đi khất thực. Hàng đàn na tín thí dâng cúng thức ăn béo bổ, cho Xá Lợi Phất và các vị Tỳ kheo Trưởng lão. Còn hàng Sa di chỉ thọ nhận các vật thực có ít dinh dưỡng như xác mè ép, rau đồng luộc... trộn với cơm hẩm. Lòng của La Hầu La rất bất mãn và có ý nghĩ rằng tuổi trẻ, sức đang phát triển, ăn uống như thế cơ thể sẽ bị suy nhược, không có sức khỏe để tiến tu đạo nghiệp. Khi về đến Tinh Xá, lòng La Hầu La vẫn luôn rầu và lên trình với Phật sự cố. Phật khuyên La Hầu La không nên có niềm đố kỵ. Người xuất gia chỉ cầu Phật đạo, chứ đâu cần sự ăn uống. Người tu hành khi thọ nhận cúng dường một hạt mè, một hạt cơm, cũng nên tự thấy là đủ rồi. Có tam thường bất túc, mới xứng đáng là bậc có chí xuất trần thượng sĩ, đừng quá quan tâm đến việc ăn uống.

Tuy dạy La Hầu La như thế, nhưng Phật cũng cho mời Xá Lợi Phất đến và dạy rằng:

- Xá Lợi Phất! Hôm nay ông thọ thức ăn bất tịnh, ông có biết không?

Nghe Phật nói, Xá Lợi Phất kinh hãi, liền cho thức ăn ói ra hết, rồi bạch Phật:

- Bạch Ðức Thế Tôn! Từ khi xuất gia, con luôn luôn y pháp khất thực, chưa bao giờ con trái nguyên tắc và thọ thức ăn bất tịnh.

Tuy biết rõ tâm của Xá Lợi Phất, nhưng Phật giải thích:

- Xá Lợi Phất! Tuy ông khất thực không trái phép nhưng không nên quên săn sóc các Tỳ kheo nhỏ tuổi và Sa di. Khi khất thực hãy lưu tâm đến họ, để họ khỏi sinh tâm đố kỵ, và phát tâm tôn kính bậc Trưởng thượng. Nhân cơ hội này, Phật chế phép LỤC HÒA để làm nguyên tắc sinh hoạt cho Tăng đoàn:

1) Cùng chung với nhau một chỗ (thân hòa đồng trú).
2) Không nên tranh cãi với nhau (khẩu hòa vô tranh).
3) Thông cảm và cởi mở với nhau (ý hòa đồng duyệt).
4) Lợi lộc nên đem chia đều cho nhau (lợi hòa đồng quân).
5) Giới luật cùng nhau giữ gìn (giới hòa đồng tu)
6) San sử hiểu biết cho nhau (kiến hòa đồng giải)

Nghe xong, Xá Lợi Phất hoan hỷ tín thọ và tuân hành áp dụng.

4. Kẻ phản nghịch kính sợ:

Trong số đệ tử của Phật, Ðề Bà Ðạt Ða luôn luôn muốn hạ Ðức Phật để làm thầy. Ông vốn là con nhà thúc bá với Ðức Phật. Dù đã xuất gia, ông xúi thanh niên hại Phật, dụ dỗ A Xà Thế thả voi say chà Phật, ngay cả ông cũng đã xô đá làm cho Phật bị thương ở chân, và ông cũng đã tách rời khỏi giáo đoàn để làm giáo chủ.

Một hôm, Phật và Thánh chúng đi khất thực về và đang nghỉ ngơi. Ðề Bà cầm đầu một nhóm Tỳ kheo la lối om sòm, yêu cầu Phật nhường quyền lãnh đạo tăng đoàn cho ông. Ðức Phật vẫn im lặng, mặc cho Ðề Bà làm náo động. Không thể chịu đựng được. Ngài A Nan là một bào đệ của ông lên tiếng chỉ trích nhục mạ Ðề Bà.

A Nan dõng dạc nói:

- Xin Ðề Bà hãy im mồm, Ðức Phật là bậc chí tôn, anh không thể thay thế Phật được. Anh phỉ báng Phật, anh làm mất sự hòa hợp của Tăng đoàn, anh sẽ mang tội rất nặng.

Giờ này, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở đây, anh không sợ sao? Chắc chắn hai vị sẽ không để cho anh tung hoành như thế được?

Thấy không lay chuyển được Phật, Ðề Bà chuyển hướng, đem lợi lộc của vua A Xà Thế cúng dường, dụ dỗ các Tỳ kheo ham lợi, tách khỏi đại chúng và thành lập một giáo đoàn riêng, do ông làm thủ lãnh. Sau một buổi đi khất thực về, bè nhóm của Ðề Bà Ðạt Ða tụ tập phân chia phẩm vật của Ðàn việt một cách om xòm. Thấy trái đạo lý, Xá Lợi Phất lên tiếng:

- Này chư vị! Chúng ta đi xuất gia với mục đích giác ngộ, giải thoát hay vì lợi lộc cúng dường?

Cả nhóm đồng đáp:

- Thưa Xá Lợi Phất! Vì mục đích tu đạo, cầu giác ngộ và giải thoát sinh tử luân hồi.

- Thế! Các ông hãy loại bỏ tâm tham thực, ăn năn sám hối, trở về giáo đoàn, tu theo pháp lục hòa.

Nghe Xá Lợi Phất khuyến hóa, cả nhóm đều bỏ rơi Ðề Bà, trở về với Ðức Phật. Từ đó, uy tín Xá Lợi Phất được tăng thêm. Phật càng tin tưởng uy thế của Xá Lợi Phất. Ðề Bà Ðạt Ða cũng kính sợ Xá Lợi Phất hơn cả Phật.

5. Rộng lượng khoan dung

Tại Tinh Xá Kỳ Viên, sau 3 tháng hạ, Xá Lợi Phất tạm biệt Ðức Phật để lên đường đi hóa đạo. Khi Xá Lợi Phất ra khỏi cổng tinh xá, 1 Tỳ kheo thưa với Ðức Phật rằng: - Xá Lợi Phất, vô cớ nhục mạ ông, rồi bỏ đi với lý do đi giáo hóa, thực sự Xá lợi Phất không đi truyền bá Phật pháp. Phật cho gọi Xá Lợi Phất trở lui và yêu cầu cho biết dữ kiện. Xá Lợi Phất trình Phật:

- Bạch Ðức Thế Tôn! Sau khi theo Ðức Thế Tôn học đạo, đến nay tuổi gần 80, con chưa bao giờ làm tổn hại sinh mạng kẻ khác, chẳng biết dối trá, chăm lo thăng tiến đạo nghiệp. Kể cả 40 năm qua, được vinh dự làm môn đệ của Ðức Thế Tôn. Dù nhiều lần được Ðức Thế Tôn khen ngợi, nhưng con chưa bao giờ tỏ ý kiêu mạn, coi thường người khác. Từ đó, đâu dám nhục mạ người cùng chung giáo đoàn.

Con thiết nghĩ: Ðất luôn luôn nhận lãnh hết tất cả những sự dơ uế của thế gian. Con tự nguyện làm đất luôn luôn nhẫn nhịn tất cả những điều trái ý, không hạ nhục bất cứ ai. Dòng nước cuốn trôi, rửa sạch tất cả những vết dơ bẩn của trần gian. Con tự nguyện rửa sạch trần cấu cho mọi người. Cái chổi quét sạch hết tất cả rác rưởi không hề phân biệt con tự nguyện làm cái chổi quét sạch bụi trần của chúng sinh. Bấy lâu, con chưa hề khinh khi ai, chưa hề có ý niệm phân biệt, cố gắng không để tâm vọng động, thường an trú trong chánh niệm. Bởi thế, nếu con còn có lỗi lầm nào, xin các Tỳ kheo từ mẫn chỉ bảo, con xin thành khẩn y pháp sám hối.

Ðể thỏa mãn cho tất cả các môn đệ, Phật cho gọi các Tỳ kheo đương cáo ra đối chứng. Trước giáo đoàn, vị Tỳ kheo đã nói dối rất hổ thẹn, xin Phật và Xá Lợi Phất rộng lượng khoan dung. Phật bảo trong đời có 2 hạng người mạnh nhất:

- Ðó là người không có tội.
- Người có tội mà biết ăn năn sám h?i.

Riêng Xá Lợi Phất không những không oán giận mà con hoan hỷ khoan dung.

6. Phẩm hạnh nhường nhịn

Một hôm Xá Lợi Phất đi truyền giáo ở phương xa, đến trời tối mới trở về. Các phòng xá đều bị nhóm Tỳ kheo Lục quần chiếm hết. Ngại Lục quần làm ồn ào, Xá Lợi Phất lẳng lặng ra ngoài sân, ngủ dưới gốc cây. Sáng ngày, biết được sự ngủ nghỉ mất trật tự, Ðức Phật gọi nhóm Lục quần đến hỏi lý do. Nhóm Lục quần bạch với Phật rằng:

- Xá Lợi Phất không xuất thân từ hàng Bà La Môn, cũng không phải dòng dõi Sát Ðế Lợi, do đó Xá Lợi Phất không có quyền có chỗ ngủ riêng, sàng tòa tốt đẹp...

Ðể ngăn chặn sự sai trái của nhóm Lục quần, Phật dạy:

- Ngày xưa, trong núi Tuyết có chim chè có, khỉ, voi, đồng chung ở. Tuy là bằng hữu, những cả ba loài không nhường nhịn nhau, con nào cung tự cao tự đại định hại nhau. May có một vị tiên giải thích sự phải trái, cả 3 loài mới biết kính nhường loài lớn tuổi.

Các Tỳ kheo! Giáo pháp của ta xương minh phép bình đẳng, nhưng không vì thế mà mất trật tự. Những ai có đạo hạnh cao, pháp lạp nhiều, tuổi lớn, phải được cung kính cúng dường, ưu tiên nơi ăn chốn ở được tốt nhất, nước uống tốt nhất, thực phẩm ngon tươi nhất.

Nghe Phật nói, đại chúng đều y giáo phụng hành. Xá Lợi Phất không vì thế mà ngã mạn, lại cảm ơn sự ưu ái của Phật và sự trọng nể của giáo đoàn.

7. Phép ăn của Tỳ kheo

Một ngày nọ, sau khi khất thực về, Xá Lợi Phất quay mặt vào vách mà ăn. Thấy vậy, nữ Phạm Chí Tịnh Mục chất vấn:

- Ông đang ăn?

- Không, Xá Lợi Phất đáp.

- Ông cúi miệng mà ăn?

- Không!

- Ông ngửa miệng mà ăn?

- Không

- Vuông miệng mà ăn?

- Không

- Quay miệng bốn phương mà ăn?

- Không

Không phải 4 phép ăn như trên, thế thì ông ăn bằng cách nào?

Xá Lợi Phất giải thích:

- Người xuất gia đem thảo mộc đổi thức ăn mà ăn, gọi là cúi miệng mà ăn.
- Dùng phép xem tinh tú (trời trăng để có ăn) gọi là ngửa miệng mà ăn.
- Nịnh bợ nhà giàu để được ăn, gọi là vuông miệng mà ăn.
- Bói toán, bùa chú để có ăn, gọi là quay miệng 4 phương mà ăn.

Ta không ăn theo 4 pháp đó. Người tu hành chỉ đi khất thực mà ăn một cách thanh tịnh.

Nghe Xá Lợi Phất giảng giải, nữ Phạm Chí sinh tâm hoan hỷ, chứng quả Tu Ðà Hoàn.

8. Khen một cái chết đẹp

Thấm nhuần tư tưởng bình đẳng, dù đã chứng Thánh quả, đối với nữ giới, Xá Lợi Phất vẫn kính trọng.

Gần thành Vương Xá trong một khu rừng, khi đang ngồi thiền định, bỗng nghe tiếng Tỳ kheo ni Ưu Ba Tiên Na kêu cứu ở một khu rừng đối diện, Xá Lợi Phất liền xả thiền, vội vàng đi tiếp cứu. Khi Xá Lợi Phất đến, Ưu Ba Tiên Na lấy lại được sự bình thản và trình bày:

- Thưa Tôn giả! Vừa rồi trong lúc đang tọa thiền, con nghe một vật gì láng trơn, chạm vào cơ thể, con liền nghĩ có thể đó là một con rắn. Tức thì con liền bị rắn cắn. Nọc độc của rắn đã ngấm vào người con, và con sẽ lìa đời.

Con xin tôn giả thông báo cho chư ni quy tụ về đây để con tỏ lời cáo biệt.

Bấy giờ, sắc diện của Ưu Ba Tiên Na vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Thấy thế, Xá Lợi Phất nói với Ưu Ba Tiên Na rằng:

- Chắc không hề gì, vì sắc diện của Tỳ kheo không biến đổi.

Uu Ba Tiên Na thưa rằng:

- Bạch Tôn giả! Với đạo lý của Ðức Phật, thân do 4 đại, 5 uẩn, hư vọng hợp thành, không có chủ tể, là vô thường, là không, rắn làm sao cắn được cái "KHÔNG". Con thầm hiểu như thế nên con không cảm thấy đau đớn. Nhờ đó mà nét mặt con không biến sắc.

Xá Lợi Phất hết lòng khen ngợi Ưu Ba Tiên Na và thông báo cho Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ở trong khu rừng tập họp và đưa Ưu Ba Tiên Na ra khỏi hang động. Khi nọc đọc của rắn đã ngấm khắp cơ thể, Ưu Ba Tiên Na xã bỏ báo thân vào cõi tịch diệt Niết Bàn

Trước các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, Xá Lợi Phất ca ngợi Ưu Ba Tiên Na, do đạt được giới thân tuệ mạng nên có một cái chết thật đẹp, sắp chết mà sắc diện vẫn không bị biến đổi, tâm hồn lại rất bình thản, đáng cho người tu hành phải noi gương.

II - XÁ LỢI PHẤT VIÊN TỊCH

Lại một hôm khi nghe tin người lão hữu Mục Kiên Liên bị bọn lõa hình ngoại đạo ám hại tại thành Thất La Phiệt (tức Xá Vệ), lúc đang đi thuyết giáo, Xá Lợi Phất vô cùng buồn rầu, suốt mấy ngày liền. Bấy giờ, Phật, Xá Lợi Phất và một số Tỳ kheo đang ở tại thành Vương Xá. Thấy Xá Lợi Phất vì thương bạn mà ủ rủ, Phật phải khuyên răn. Sau đó, Phật tập họp tăng chúng, báo tin cho tất cả biết tin Mục Kiền Liên đã vào Niết Bàn, và nhân đó, Phật cũng báo cho chúng tăng hay sau 3 tháng nữa là Phật sẽ vào Niết Bàn.

Cùng lúc, nhận được hai tin buồn, Mục Kiền Liên đã chết một cách bi thảm, và Phật cũng sắp ra đi, lòng Xá Lợi Phất vô cùng chua xót. Bởi thế, liền ngày hôm đó, Xá Lợi Phất bạch Phật xin được về quê thăm mẹ, và nhập Niết Bàn trước Phật. Vì theo Xá Lợi Phất, trong quá khứ các đệ tử hàng đầu đều Niết Bàn trước vị giáo chủ đương thời. Hơn nữa, Xá Lợi Phất không muốn chứng kiến cảnh đau buồn khi Phật nhập Niết Bàn.

Sau khi tạ từ Ðức Phật và giáo đoàn, Xá Lợi Phất lên đường về quê nhà tại thôn Ca La Tỳ Ma Ca với một Sa di tên là Quân Ðầu. Lúc này Xá Lợi Phất đã 80 tuổi. Bà Xá Lợi Cũng đã ngoài 100 tuổi. Vì đã 40 năm xá cách, Mẹ con gặp nhau trong cảnh mừng mừng tủi tủi... Dù đã già, bà vẫn xem tôn giả như hồi còn thơ ấu, bà sai cháu gái là: Ưu Ba Ly Ðà Ba thu dọn cho Tôn giả một căn phòng thật khang trang. Ngay trong đêm gặp mẹ già, ngoài vấn đề giảng giải đạo lý của đức Phật, Xá Lợi Phất bày tỏ tâm sự: Trước là về quê thăm mẹ, sau cũng xin phép mẹ được từ giã cõi đời tại quê nhà. Tuy có đau buồn, nhưng bà Xá Lợi cũng thấy vinh dự có được một người con đạo cao đức trọng, biết trước ngày giờ bỏ xác thân để sửa soạn giờ biệt ly vô cùng chu đáo. Sau đêm tâm sự với Mẹ già, Xá Lợi Phất cho triệu tập dân làng đến để bố giáo và tỏ lời từ biệt. Trước dân làng, trước môn đồ tứ chúng, và có cả vua A Xà Thế, Xá Lợi Phất bày tỏ tâm tình thiết tha yêu quê hương, xứ sở và đem giáo pháp của Phật khuyên bảo mọi người.

Xá Lợi Phất bày tỏ mục đích ra đời của Phật là: Vì một đại sự nhân duyên chỉ rõ tri kiến Phật cho chúng sinh. Con người cần tiến tu Giới, Ðịnh, Tuệ để giải thoát sinh tử luân hồi.

Nhưng trước hết phải xây dựng con người, tạo lập một quốc gia xã hội an bình tốt đẹp là chính yếu. Con người nên noi gương từ bi nhẫn của Phật để sinh hoạt.

Vào đến nửa đêm, mọi vật hoàn toàn yên lặng, Xá Lợi Phất lạy chào mẹ già, Vua A Xà Thế, và tất cả những người hiện diện rồi nhập đại định Niết Bàn. Sau khi làm lễ Trà Tỳ, Sa di Quân Ðầu mang hài cốt Xá Lợi Phất trở về trình với Ðức Phật. Ðể giáo đoàn được chiêm bái, và nhân thể tán dương Xá Lợi Phất, Phật tập họp đại chúng Tỳ kheo lại và dạy rằng:

- Ðây là hài cốt của Xá Lợi Phất, một bậc trí tuệ hàng đầu. Xá Lợi Phất là người đã tiếp thu trọn vẹn giáo pháp cao huyền của ta đã chứng ngộ ở gốc cây Bồ Ðề. Con người nầy đã từng vì chúng sanh mà bố giáo khắp nơi. Giáo pháp của ta được truyền bá đầu tiên ở phương Bắc, đó là công lao của Xá Lợi Phất. Trí tuệ của Xá Lợi Phất thật là trí tuệ cao tuyệt, trừ đức Phật ra, không ai bì kịp. Qua trí tuệ đó, Xá Lợi Phất đã thành tựu đạo nghiệp. Bậc đại trí nầy đã chứng pháp tính, ít muốn, biết đủ, siêng năng dũng mãnh, tiến tu thiền định, không cố chấp trước, đối với ngoại đạo luận bàn vô ngại, hoằng truyền chính pháp, lợi lạc mọi người, thoát ly sinh tử khổ đau, chứng nhập Niết Bàn.

IV - NHẬN THỨC VÀ KẾT LUẬN:

Trong hàng Thánh chúng hay trong 10 đại đệ tử Phật, Xá Lợi Phất đứng hàng đầu, vì đạo Phật là đạo của trí tuệ. Mục đích của Phật là khai thị cho chúng sanh cái tri kiến của chư Phật (Kinh Pháp Hoa, phẩm tựa). Mặt khác, với triết lý của Ðạo Phật, thuyết duyên sinh là một thuyết lý thâm áo nhất.

Ðạo Phật giải thích sự hiện hữu của mọi hiện tượng, sự vật khách quan, thế giới hữu hình qua thuyết duyên sinh, sự vật sinh sinh hóa hóa, liên hệ chằng chịt với nhau, kinh Hoa Nghiêm gọi là trùng trùng duyên khởi. Cái nầy có thì cái kia có, cái nầy diệt thì cái kia diệt.

Có lần Tỳ kheo Mang Ðồng Tử (Malankyaputra) hỏi Phật về thế giới thường hay vô thường, hữu biên hay vô biên, Phật cho là không nên hý luận, nhưng không vì thế mà Phật không giải thích thế giới hiện tượng. Chính thuyết duyên sinh nầy đã giải thích sự sinh tồn của vũ trụ vạn vật. Xá Lợi Phất đã thấu rõ thuyết duyên sinh. Bởi thế: XÁ LỢI PHẤT LÀ BẬC TRÍ TUỆ ÐỆ NHẤT, ÐỨNG ÐẦU TRONG HÀNG THÁNH CHÚNG.

Nhờ có trí tuệ đệ nhất,biện tài vô ngại, Xá Lợi Phất đã chinh phục các luật sư của Bà La Môn ở phương Bắc Ấn Ðộ, khi Xá Lợi Phất đến Ma Kiệt Ðà để trông coi công trình xây dựng Tinh Xá Kỳ Viên.

Ngoài trí tuệ, Xá Lợi Phất còn là nhà kiến trúc đại tài. Tôn giả đã thiết kế và trực tiếp chỉ đạo xây dựng Tinh Xá Kỳ Viên. Ðây là trung tâm sinh hoạt văn hóa ngang hàng với Trung tâm văn hóa Kiều Tát La. Thời Phật còn ở đời Ấn Ðộ có 2 trung tâm văn hóa lớn nhất là Ma Kiệt Ðà và Kiều Tát La.

Khi Phật còn ở đời, Xá Lợi Phất được Phật tín nhiệm và người được sai đi bố thí giáo đầu tiên, phải kể là Xá Lợi Phất. Vì ngoài trí tuệ, biện tài, Xá Lợi Phất còn am tường mọi tập tục, truyền thống của dân tộc Ấn Ðộ, hơn nữa là ngôn ngữ đương thời của Ấn Ðộ, thời cổ đại tư tưởng tôn giáo đã nhiều mà ngôn ngữ các địa phương không phải là một. Bởi thế Xá Lợi Phất mới đại Phật tuyên dương giáo pháp khi Phật còn hiện diện.

Mặt khác, Xá Lợi Phất còn là vị có phẩm hạnh cao, khi bị chỉ trích là đã thọ thức ăn bất tịnh, con người khinh mạn, bị Lục quần chiếm chỗ ngủ nghỉ... Xá Lợi Phất vẫn từ ái khoan dung, không tranh chấp, thù oán. Trí tuệ đã cao mà từ ái lại bao la, Xá Lợi Phất được giáo đoàn kính nể. Ðề Bà Ðạt Ða là một con người có nhiều tác oai tác quái, đòi thay Phật lãnh đạo giáo đoàn, nhưng đối với Xá Lợi Phất vẫn kính sợ hơn cả Phật.

Sau hết, Xá Lợi Phất còn là con người tha thiết với quê hương, với thôn xóm, với mẹ già, với nhân dân. Khi 80 tuổi Xá Lợi Phất quay về với mẹ già với dân làng, với bờ ao, với đồng ruộng, rẫy bái... Ðể phố biến tinh thân nhẫn nại sinh hoạt cho mọi người rồi mới vào Niết Bàn. Tuy khác quốc độ nhưng Xá Lợi Phất đã cùng đồng quan điểm với nhân dân Việt Nam, con người rất tha thiết với đồng ruộng lũy tre, nơi chôn nhau cắt rún.

Nhìn chung, với những người xuất gia theo Phật để được gọi là toàn bích phải được đầy đủ 3 đức: An Ðức, Trí Ðức, và Ðoạn Ðức, Xá Lợi Phất đã thể hiện trọn vẹn, cho nên xứng đáng là vị đứng đầu trong giáo đoàn của Phật. Nhưng không vì đạo nghiệp giải thoát mà quên mất mẹ già quê hương, thôn xóm, dù đã 80 tuổi, Xá Lợi Phất vẫn về quê nhà truyền bá nếp sinh hoạt vị tha, vô ngã... Xá Lợi Phất xứng đáng là một biểu tượng cần được phổ biến cho mọi người noi theo.

CHÚ THÍCH

18 bộ kinh gồm có: 4 bộ Vệ đà, 6 luận và 8 luận

* 4 bộ Vệ Ðà:

- Lê Câu Vệ Ðà (Kệ tụng triết lý Vệ Ðà),
- Dạ Ma Vệ Ðà (giải thích kệ tụng, binh pháp),
- Sa Ma Vệ Ðà (nghi thức tế tự bốn mùa)
- A Thát Bà Vệ Ðà (Thần chú).

* 6 luận:

- Thức xoa luận (nói rõ 64 loại năng pháp)
- Tỳ già luận (giải thích pháp vô thường)
- Kha lặc 3 luận (giải thích nhân duyên, danh tự, thiên, tiên, từ xưa đến nay).
- Kiên để sa luận (giải thích, thiên văn, địa lý, bói toán...)
- Xạ đà luận: (giải thích phép tác thủ lô ca)
- Tỷ lộc đa luận (giải thích nhân duyên lập danh của tất cả các vật thể).

* 8 luận:

- My vong bà luận (giải thích sự thị phi của các pháp)
- Hác tà tỳ tát đa luận (nói rõ đạo lý các pháp)
- Y để ca bà luận (nói rõ việc truyền ký đời trước).
- Tăng pháp luận (nói rõ pháp 25 để)
- Khóa già luận (nói rõ pháp nhiếp tâm)

Ðây là 2 luận đều giải thích nghĩa giải thoát.

- Ðà uyển luận (giải pháp dụng binh)
- Kiền thát bà luận (phép âm nhạc)
- A Du luận (rút ra từ bách luận sớ).

* * *

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Hãy kể tên 10 đại đệ tử?

2. Gia thế của Xá Lợi Phất như thế nào

3. Tại lễ tế đàn ở nước Ma Kiệt Ðà, Xá Lợi Phất đã làm gì? Quan điểm đạo giáo của tôn giả như thế nào? 4. Với Phật giáo, Xá Lợi Phất ngộ lý gì?

5. Ngoài kinh điển, Xá Lợi Phất còn có tài gì?

6. La Hầu La phàn nàn với Xá Lợi Phất điều gì? Phật nói điều gì với Xá Lợi Phất?

7. Ðề Bà Ðạt Ða đối với Xá Lợi Phất như thế nào?

8. Xá Lợi Phất có phẩm hạnh gì?

9. Xá Lợi Phất Niết Bàn như thế nào?

10. Qua cuộc đời và Ðạo pháp của Xá Lợi Phất chúng ta có nhận thức gì ?

-ooOoo-

Ðầu trang | 1.01 | 1.02 | 1.03 | 1.04 | 1.05 | 1.06 | 1.07 | 1.08 |
| 2.01 | 2.02 | 2.03 | 2.04 | 2.05 | 2.06 | 2.07 | 2.08 | 2.09 | 2.10 | 3 | Mục lục

Chân thành cám ơn Đại đức Giác Đồng đã gửi tặng phiên bản điện tử (Bình Anson, 07-2001)


[Trở về trang Thư Mục]