Bài 6
Trưởng
lão ÐẠI CA DIẾP
(Maha Kasyapa - Đầu đà đệ nhất)
-ooOoo-
K hi
còn tại thế, trong 45 năm thuyết giáo, với hơn 300 hội, Phật
để lại 8 vạn 4 ngàn pháp môn. Tùy căn cơ, trình độ, hoàn
cảnh, hành giả có thể chọn tu theo một trong những pháp
môn đó. Có người chuyên tu thiền định, có người niệm
Phật, tụng kinh, có người trì luật, có người tu phước
bố thí, có người trì bình khất thực... Với tất cả
hành trì, theo Phật, hạnh nào cũng đáng kính nể, quý trọng.
Trong số các Thánh chúng, Ma Ha Ca Diếp là người dốc lòng
giữ gìn phạm hạnh, nên được Phật cùng Thánh chúng tôn
xưng là bậc đầu đà đệ nhất.
I. QUÊ
QUÁN DÒNG HỌ VÀ DANH HIỆU CỦA NGÀI MA HA CA DIẾP.
Ở Ấn Ðộ, không xa
thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Ðà, tại thôn Sa La Ðà, có
một gia đình thuộc dòng họ Bà La Môn rất giàu có, Ðó
là Ni Câu Lự Ðà Kiệt Ba, có tài sản, có thể so sánh với
vua Tần Bà Sa La lúc bấy giờ. Ðại Ca Diếp sinh trong gia đình
phú hào này.
Tên đầu tiên là Tất
Bát La Da Na, vì thân mẫu tôn giả đi chơi quanh gốc cây Tất
Bát La thì hạ sinh tôn giả. Vì thế, lấy tên cây đặt cho
đứa bé. Vì là con một trong gia đình, Ðại Ca Diếp rất
được cha mẹ thương yêu, nuôi dưỡng. Nhũ mẫu có đến 4
bà, còn bồng bế, cho ăn tắm rửa, trò chơi có rất nhiều
người.
Ðại Ca Diếp phước
tướng đầy đủ, tư chất thông minh. Lúc lên 8, Ðại Ca Diếp
đã được học văn học, toán thuật, thi họa, âm nhạc,
thiên văn, số tướng... Các đạo sĩ Bà La Môn còn dạy cho
Ngài Ðại Ca Diếp phép tế đàn 4 mùa, Thánh điển Phệ
Ðà, nhân minh học v.v... Với các môn học, Ðại Ca Diếp đều
thấu hiểu rất nhanh.
Lúc khôn lớn, Ðại Ca
Diếp khác hẳn những người cùng lứa tuổi. Với các lạc
thú ở đời, Ðại Ca Diếp không ham thích, kể cả vấn đề
âu yếm. Ðại Ca Diếp thường tỏ chán ghét bất tịnh,
thích xa đám đông, riêng ở một mình. Ngay cả cha mẹ, Ðại
Ca Diếp cũng không tưởng nhớ, trong những lúc xa nhà. Bởi
thế khi phải vâng lời cha mẹ lập gia đình, Ðại Ca Diếp
không bao giờ ngủ chung giường với Diệu Hiền, một cô
gái sắc hương không ai sánh được, dù có đôi lần bị
cha mẹ la rầy.
Mỗi người mang một tâm
trạng riêng, từ ngày cưới Diệu Hiền cho đến hơn cả chục
năm về sau không ai nói với ai một lời nào. Im lặng lâu
quá không thể nín thinh mãi được, Ðại Ca Diếp hỏi Diệu
Hiền, lý do tại sao mặt lúc nào cũng buồn.
Diệu Hiền trả lời:
- Chàng đã phá hoại
chí nguyện của tôi, sự giàu sang của chàng đã mê hoặc
cha mẹ tôi, từ trước tôi vẫn thích phạm hạnh, ghét ngũ
dục, hiện làm dâu gia đình này tôi rất lấy làm buồn!
Nghe ước vọng của Diệu
Hiền không trái với ước vọng của chính mình, Ðại Ca Diếp
nói:
- Thế thì hai ta đã
có cùng chung một ước nguyện, cùng nhìn chung về một hướng.
Tôi vẫn không thiết tha với việc lập gia đình, nhưng vì
là con một, tạm để cho cha mẹ khỏi buồn, tôi phải tạm
theo ý của gia đình mà thôi. Giờ đây chúng ta hãy tiếp tục
nuôi mộng ước theo phạm hạnh và dù là vợ chồng, chúng
ta quyết không bao giờ ngủ chung giường.
Mãi 12 năm sau, cả hai
vẫn thanh tịnh, khi cha mẹ từ giã cõi đời xong xuôi, Ðại
Ca Diếp rời gia đình đi tìm thầy học đạo, trước khi tạm
biệt, Ðại Ca Diếp có hứa sẽ trở về hướng dẫn Diệu
Hiền xuất gia, khi tìm được minh sư.
II- ÐẠO
NGHIỆP CỦA ÐẠI CA DIẾP
1. Ðại Ca Diếp xuất
gia trì hạnh Ðầu Ðà
Năm 30 tuổi, Ðại Ca
Diếp từ giã thân thuộc vào rừng tìm đạo, chính là lúc
Phật thành đạo dưới gốc cây Bồ Ðề.
Mãi đến hai năm sau,
Ðại Ca Diếp vẫn chưa có đạo sĩ nào giúp thỏa mãn nguyện
vọng. Nhân cuộc khởi xướng dâng y rầm rộ của ngự y Kỳ
Bà. Ðại Ca
Diếp biết Phật và
tìm đến thành Vương Xá, ngày ngày Ðại Ca Diếp theo Thánh
chúng đến nghe pháp mà chưa chính thức ra mắt với Phật,
vì lòng còn muốn dò xét.
Từ trên tòa giảng, Ðức
Phật nhìn xuống thấy và biết Ðại Ca Diếp là người có
thể kế thừa đạo nghiệp của Như Lai.
Tại hội Linh Sơn, khi
Ðức Phật đưa lên một hoa sen, Ngài Ðại Ca Diếp mỉm cười.
Phật biết chánh pháp đã có người tâm đắc, kế thừa
sau này. Một hôm, sau khi mãn buổi thuyết pháp Phật đi đường
tắt, đón Ðại Ca Diếp ở một ngã đường.
Trên đường về, Ðại
Ca Diếp gặp Phật, biết là cơ duyên đã đến, Ðại Ca Diếp
chính thức bái yết Phật, xin được xuất gia tiếp tục học
đạo. Qua cuộc gặp gỡ, Ðại Ca Diếp theo Phật trở lại
Tịnh xá Trúc Lâm. Ở đây, Phật đem phép Tứ Ðế, 12 nhân
duyên, khai thị cho Ðại Ca Diếp. Vốn thích tu pháp Ðầu
Ðà, sau khi gặp Phật. Ca Diếp vẫn tiếp tục thực hành
pháp tu phạm hạnh. Hạnh đầu đà có năng lực tịnh hóa
tâm hồn, khi tu theo hạnh này, cần giữ đủ 10 điều.
1 - Chọn ở nơi hoang
vắng.
2 - Sinh hoạt bằng phép trì bình.
3 - Thường ở tại một nơi.
4 - Ngày ăn một bữa.
5 - Khất thực không phân biệt giàu nghèo.
6 - Tài sản gồm có 3 y, một bình bát.
7 - Tư duy dưới gốc cây.
8 - Thường ngồi giữa đồng trống.
9 - Mặc áo phấn tảo.
10 - Sống tại các bãi tha ma.
Với 10 điều kiện trên,
Ðại Ca Diếp tuân giữ trọn vẹn chỉ có 9 điều. Riêng
điều khất thực số 5, Ðại Ca Diếp không theo giáo đoàn
đi khất thực không phân biệt nhà giàu, nghèo. Khi đi khất
thực, Ðại Ca Diếp chỉ đến khất thực trước nhà người
nghèo. Theo Ðại Ca Diếp, người giàu đã thừa phước đức,
ta không cần phải mang phước đến cho họ, còn người nghèo
vì thiếu mất phước đức, ta cần đem phước điền cho họ
gieo trồng. Trong hàng đệ tử Phật, người đi khất thực
ngược với Ca Diếp là ngài Phú Lâu Na, chỉ đi khất thực
nhà giàu. Ngài Phú Lâu Na quan niệm rằng người giàu dể
dàng cúng dường, nhưng người nghèo không có tài sản để
cúng nên ngài không muốn làm phiền họ.
Nghe chỉ khất thực
nhà nghèo, Phật thường khiển trách Ðại Ca Diếp và
khuyên nên đem tâm bình đẳng khất thực, vì bỏ tâm phân
biệt. Với Ðại Ca Diếp, Phật còn khuyên không nên sống
quá khổ hạnh. Vì khổ hạnh làù một cực đoan, Phật đã
bỏ sau khi bị kiệt sức ở xứ Ba La Nại, tu với 5 anh em
ông Kiều Trần Như. Hành giả cần theo con đường Trung đạo,
mới đạt được quân bình và đạt được địa vị giác
ngộ, giải thoát. Với phép khất thực bình đẳng có lúc
Ðại Ca Diếp vẫn tuân hành. Riêng Hạnh Ðầu Ðà, Ðại Ca
Diếp khư khư giữ chặt cho đến hơi thở cuối cùng, không
ai lay chuyển được. Từ đó Ðại Ca Diếp được tôn xưng
là bậc Ðầu Ðà đệ nhất. Với tầm vóc ảnh hưởng của
Ðại Ca Diếp rất lớn, lấn lướt hết ảnh hưởng của
người khác, như ánh sáng chói chang của mặt trời khỏa hết
các ánh sáng khác, vì thế Ngài Ðại Ca Diếp được dịch
là Ẩm Quang.
2. Tiếp độ Diệu Hiền
Khi Ðức Phật trở về
Ca Tỳ La Vệ, giáo hóa cho các vương tôn công tử. Ðại Ca
Diếp có đi theo, để hợp giáo phép bình đẳng, và cũng
theo lời thỉnh cầu của Ngài A Nan, Phật cho bà Ma Ha Ma Xà
Ba Ðề xuất gia với hiệu là Kiều Ðàm Di, vị nữ đầu
tiên trong giáo đoàn của Phật. Thấy di mẫu của Phật được
xuất gia, Ðại Ca Diếp có ý mừng, vì Phật mở lối để
Ðại Ca Diếp thực hiện lời ước hẹn với Diệu Hiền lúc
từ tạ gia đình để đi xuất gia.
Chờ đợi 3, 4 năm không
thấy Ðại Ca Diếp trở về, Diêu Hiền cho phân tán tài sản,
bố thí, giúp đỡ bà con và những người gặp khó khăn về
kinh tế, rồi đi xuất gia theo phái ngoại đạo lõa hình ở
bên bờ sông Hằng.
Ðược tin Diệu Hiền
đi tu, nhưng vì sắc đẹp mà phải chịu nhiều sĩ nhục, Ðại
Ca Diếp nhờ một Tỳ Kheo ni đi đón nàng. Khi về đến Ni
Viện cũng vì có sắc đẹp kiều diễm mỹ lệ, Diệu Hiền
vẫn không tránh khỏi xì xầm nơi đông người. Tự thấy
thân nữ trở ngại đạo nghiệp rất nhiều, Diệu Hiền không
đi ra ngoài khất thực nữa, không tiếp xúc với đại chúng,
tránh chỗ đông đảo.
Cảm kích tình cảnh của
Tỳ Kheo ni Diệu Hiền hàng ngày Ðại Ca Diếp chia nửa phần
cơm và nhờ người mang đến Ni Viện cho Diệu Hiền. Ðời
lại lắm chuyện, Tỳ Kheo ni Thâu La Nan Ðà, người có tình
tò mò lại hay thị phi, sinh tâm tật đố và cho là giữa
hai người chắc còn tình ý. Ðể tránh tiếng đàm tiếu, Ðại
Ca Diếp không chia phần cơm cho Diệu Hiền như bấy lâu nữa.
Tỳ Kheo ni Diệu Hiền cũng muốn chóng được nhẹ nghiệp nữ
lưu, suốt đêm không ngủ, tỉnh tọa sám hối, tấn tu đạo
nghiệp và sớm đạt được Túc mạng thông, được Phật
khen ngợi.
Tôn giả Ðại Ca Diếp
rất hoan hỉ, với hai mặt Ðời và Ðạo, Ðại Ca Diếp đều
thực hiện viên mãn, hết mối bận tâm.
3. Ðộ bà lão nghèo
Với chí nguyện, đem
phước điền đến cho người nghèo thiếu khi đi khất thực,
Ðại Ca Diếp tránh nhà giàu có, dừng bước trước cửa những
ngôi nhà nghèo nàn, lụp xụp, có vẻ đói nghèo. Một hôm
vào thành Vương Xá khất thực, thấy một bà già ăn mày
đau ốm nằm rên rỉ bên vệ đường, Ðại Ca Diếp đến gần
và hỏi rằng:
- Này bà già! Tại sao
trong lúc đau ốm bà lại nằm giữa đất, và chỉ lấy lá
che thân? Nơi đất, hơi gió mưa sẽ làm cho bệnh của bà nặng
thêm. Bà không có nhà cửa, con cháu gì cả sao?
- Nếu đã có các thứ
như ông vừa hỏi, tôi đâu có nằm rên rỉ ở đây. Bà
già nói. Ông có gì cho tôi không? Trong khi tôi nghèo rớt mồng
tơi, sao tôi cảm thấy ông có vẻ vô sản và cũng mang bát
đi xin ăn hả? Tôi chẳng có gì cho ông cả. Thế ông có
phép gì giúp tôi hết bệnh và hết nghèo đói chăng?
Tôi là một tỳ kheo
đang theo học đạo lý với Phật Thích Ca và đang tu khổ hạnh
để giải thoát cảnh sinh, già, bệnh, chết. Tôi cũng đi
xin như bà, nhưng lại đi bán giàu mua nghèo, bà hãy bán
nghèo cho tôi để tạo nhiều phước báu giàu sang phú quý.
- Nghèo thì lấy gì để
bán? Bà nói, đã ba ngày qua tôi không có bất cứ chút gì
để bỏ vào bụng, sáng sớm hôm nay có người đi đổ nước
cơm, tôi hứng được 1 tý đỉnh, nhưng nước đã có mùi,
chưa dám uống, sợ tháo dạ.
- Thế, bà đem nước
đó bố thí cho tôi chút đỉnh, gọi là gieo trồng phước
đức, hy vọng tương lai gặp may mắn, trở nên giàu có. Ðại
Ca Diếp nói. Tôi tuy đã cao niên, nhưng còn khỏe mạnh, nước
đó không thể làm cho tôi đau bụng được đâu.
Nghe Ðại Ca Diếp giảng
giải, tâm bà đầy hỷ lạc quên cả sự ô uế của thân
hình, bà đem mẻ nước cơm có mùi dâng cúng cho Ðại Ca Diếp.
Tôn giả hoan hỷ tiếp
nhận. Ðể bà khỏi nghi ngờ, Ðại Ca Diếp uống gần cạn
mẻ nước cơm.
Thấy thế, bà già vô
cùng vui sướng. Tự cảm nhận đã giúp bà già ăn mày gieo
trồng phước đức, tôn giả Ðại Ca Diếp ngỏ lời phú
chúc bà già, rồi tiếp tục lên đường hành hóa.
4. A Nan tặng Bát
Trong giáo đoàn của Phật,
tôn giả Ðại Ca Diếp giữ phạm hạnh bao nhiêu, thì nhóm lục
quần Tỳ Kheo lại thường sai trái mất phạm hạnh bấy
nhiêu.
Có một thời kỳ Phật
ở Kỳ Viên Tịnh xá, lục quần Tỳ Kheo thi nhau sưu tầm bình
bát. Phật chế bát có hai loại, bát bằng sắt thép và bát
bằng sành sứ. Nhưng khi sản xuất hình dáng bát, mỗi thứ
không giống nhau, chất liệu cũng có thứ tốt, thứ xấu,
màu sắc cũng có nhiều. Nước Tô Ma sản xuất bát thiếc,
nước Ưu già sản xuất bát màu đỏ, nước Ô già sản xuất
bát màu đen... lục quần Tỳ Kheo chẳng lo hành thiền, tu tập,
ngày này qua ngày khác lo đi tìm kiếm bát tốt, đem về
trưng bày, để ngắm nhìn. Phòng xá của các vị giống như
nhà hàng bán đồ gốm, sành sứ.
Biết đư?c tình trạng
lục quần tích trữ nhiều bát, Phật định ban hành luật:
Tỳ Kheo chứa bát dư phạm Ni bát kỳ ba dật đề.
Trong lúc đó A Nan được
đàn việt cúng dường 4 cái bát của nước Tô Ma rất quý.
A Nan định đem bát đó dâng cúng cho Tôn giả Ðại Ca Diếp.
Nhưng lúc bấy giờ Ðại Ca Diếp không có mặt ở nước Xá
Vệ, đang đi du hóa ở phương xa, giữ bát thừa tất phạm
giới, không biết xử lý bằng cách nào, tôn giả A Nan đành
đem sự việc trình lên Ðức Phật. Phật hỏi:
- Bao giờ Ðại Ca Diếp
mới trở về?
A Nan thưa:
- Bạch Thế Tôn! Khoảng
sau 10 ngày.
Trong giờ giảng pháp
trước đại chúng, Phật hết lời khen ngợi phạm hạnh của
Ðại Ca Diếp, và khuyên đại chúng nên noi gương, đặc biệt
là Lục quần Tỳ Kheo. Sau cùng, thể theo sự tình của A Nan
đã trình bày, với phép cất bát dư, Phật sửa lại điều
luật và công bố:
- Các Tỳ Kheo được cất
bát dư trong thời gian 10 ngày.
Qua sự kiện Phật chế
giới luật Tỳ Kheo giữ bát dư, chúng ta biết được địa
vị và ảnh hưởng của tôn giả Ðại Ca Diếp đối với
Ðức Phật và giáo đoàn rất cao.
5. Thừa kế Ðức Phật
Thấy Ðại Ca Diếp đạo
cao đức trọng, Phật và giáo đoàn đều vị nể, Xá Lợi
Phất và Mục Kiền Liên yêu cầu tôn giả tham gia việc hoằng
pháp, tôn giả không tham dự, vì việc đi bố giáo đã có
các vị thông minh tài trí, như Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, Tôn giả chỉ chú trọng đến
cuộc sống phạm hạnh, thiểu dục, trí túc, vì đó cũng là
cách gián tiếp truyền bá đạo lý của Ðức Phật. Tôn giả
trọn giữ Hạnh Ðầu Ðà, lúc nào Tôn giả cũng ở trong rừng
già, kinh hành hoặc tọa thiền gốc cây, quán xương trắng,
ở bãi tha ma, chẳng quản nắng mưa, sương gió...
Mãi đến lúc tuổi
già tóc râu bạc phơ, thân thể gầy guộc tôn giả vẫn
không giờ phúc chểnh mảng sinh hoạt đầu đà. Thấy thế,
không đành lòng Phật yêu cầu tôn giả về thường trú tại
Tịnh Xá Kỳ Viên, nhưng tôn giả vẫn không chịu. Dù biết
rằng cung kính không bằng phụng mạng, nhưng tôn giả thấy
sống với tập thể thì phải theo khuôn khổ chung và đành
phải ngưng thực hành Hạnh Ðầu Ðà. Hơn nữa, ở chốn rừng
sâu, không phiền hà gì đến ai, khi cần gieo phước điền
cho người thì vào thành khất thực, khi mệt mỏi không đi
được thì kiếm hoa quả rau trái ở rừng, thọ dụng qua
ngày.
Thực hành phạm hạnh
đầu đà đã là trực tiếp củng cố giáo đoàn, gián tiếp
lợi lạc chúng sanh. Củng cố tăng đoàn là điền kiện thừa
kế Ðức Phật, Ðại Ca Diếp xin Phật được tiếp tục
con đường đã chọn.
Biết không thể lay
chuyển được ý hướng của Ðại Ca Diếp, Phật hướng về
Ðại chúng dạy rằng:
- Này các Tỳ Kheo! Ðại
Ca Diếp luôn luôn lo ngại cho tiền đồ chánh pháp, Thiên ma
ngoại đạo hay thế lực cường quyền không thể phá hoại
chánh pháp. Nội tình lộn xộn, Tăng đoàn hủ hóa, thiếu
phạm hạnh là điều kiện chánh làm cho chánh pháp tiêu diệt.
"Trùng trong sư tử ăn thịt sư tử". Vì thế, nếu
tăng đoàn được củng cố, giới đức trang nghiêm, nội
tình ổn định hòa hợp tất yếu chánh pháp được trường
tồn. Ðể củng cố tăng đoàn, sinh hoạt phải nghiêm túc,
giới luật phải được tôn trọng giữ gìn, giới luật
còn thì đạo ta còn. Người có thể chủ trì thừa kế
chánh pháp nhãn tạng của ta phải là Ma Ha Ca Diếp. Ðiều
đó, ta đã thấy rõ ngay ở hội Linh Sơn, khi ta đưa lên một
cành hoa sen, Ma Ha Ca Diếp liền mỉm cười, trong khi mọi
người chỉ biết ngồi nín lặng.
6. Kiết tập kinh điển
Ðúng là người thừa
kế mạng mạch của Như Lai, sau khi Phật Niết Bàn 7 ngày,
suốt 3 tháng, tôn giả Ðại Ca Diếp liền triệu tập hội
nghị kiết tập kinh điển, Tịnh Xá của giáo đoàn rộng
rãi có rất nhiều, nhưng đa phần chưa phải là nơi hoàn
toàn thanh tịnh. Các Tỳ Kheo lân cận đa phần chưa phải thật
sự ly dục, chứng thánh quả. Suy xét kỹ lưỡng, Ðại Ca
Diếp chỉ thấy có động Kỳ Xà Quật mới xứng đáng là
nơi kiết tập kinh điển. Ðó là nơi u tịch, rộng rãi, cảnh
trí thoát trần, Ðại Ca Diếp hướng dẫn đến động này
500 đệ tử của Phật. Trong số, hầu hết đều chứng thánh
quả A La Hán, riêng A Nan luôn luôn gần Phật lại đa văn,
thuộc tất cả các lời Phật dạy, nhưng lại chưa chứng
thánh quả, lại còn có 6 tội. Ðể có thể và duy trì
chánh pháp lâu dài, sư sinh hoạt của giáo đoàn phải oai
nghiêm, không thể có người còn lỗi lầm. Ở trong đại chúng,
với oai đức sẵn có, tôn giả Ðại Ca Diếp buộc A Nan phải
sám hối 6 tội trước giáo đoàn.
Còn vấn đề chưa chứng
thánh quả, Ðại Ca Diếp buộc A Nan phải ra ngoài động, kiếm
nơi an tĩnh tu tập, lúc nào chứng thánh quả A La Hán hãy trở
vào. Nhờ nhất tâm, chỉ tĩnh tu trong thời gian ngắn, A Nan
liền chứng A La Hán.
Khi A Nan trở vào thạch
động, cuộc kiết tập kinh điển cũng mới chính thức bắt
đầu.
Ðại chúng nhất trí
đề cử Ðại Ca Diếp làm chủ tọa.
- Ưu Ba Ly đọc luật.
- A Nan đọc kinh.
- Phú Lâu Na luận nghị.
- Ngoại hộ đắc lực
cho cuộc kiết tập kinh điển lần thứ nhất là vua A Xà Thế.
III- ÐẠI
CA DIẾP NIẾT BÀN
Trong hàng đệ tử của
Ðức Phật, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên Niết Bàn trước
Phật. Niết bàn sau Phật có Ðại Ca Diếp.
Tương truyền, sau cuộc
kiến tập kinh điển tại động Kỳ Xà quật, khoảng hai hoặc
ba mươi năm sau, cảm thấy cơ thể già yếu, mệt mỏi, vì
đã trên 100 tuổi, Ðại Ca Diếp quyết định Niết Bàn,
Tôn giả tìm đến nơi
A Nan đang du hóa để phú chúc pháp tạng, yêu cầu A Nan tiếp
nối sứ mạng thừa kế truyền bá chánh pháp. Rồi không nề
mệt mỏi, tôn giả đến 8 tháp thờ Xá Lợi Phật và cung
kính lễ bái cúng dường.
Sau đó, trở về thành
Vương Xá, tôn giả đến tạ từ vua A Xà Thế, nhưng gặp lúc
nhà vua đang ngủ nghỉ, quân hầu không cho tôn giả vào
cung. Rời thành vương Xá, tôn giả mang theo y bát của Phật
đến núi Kê Túc, ngồi nhập định và Niết Bàn. Nơi này
cách thành Vương Xá khoảng 8 dặm, ở phía Tây Nam. Nghe tin
tôn giả Ðại Ca Diếp đã Niết Bàn. Vua A Xà Thế rất bi
thương! Nhà vua lập tức đến thông báo cho A Nan và yêu cầu
cùng nhà vua đến núi Kê Túc đảnh lễ cúng dường.
Mặc dù Tôn giả Ðại
Ca Diếp đã Niết Bàn, nhưng ảnh hưởng đạo đức, nếp sống
phạm hạnh của tôn giả vẫn còn tồn tại mãi với thời
gian vô cùng và không gian vô tận...
IV- NHẬN
THỨC VÀ KẾT LUẬN
Với những phép khất
thực, Phật dạy phải bình đẳng không thiên chấp, phân biệt.
Nhưng tôn giả Ca Diếp lại chỉ khất thực nhà nghèo, trong
khi Phú Lâu Na chỉ khất thực nhà giàu. Vì thế, cả hai đều
bị Phật khiển trách. Tuy thế, theo Ðại Ca Diếp với thực
tế người nghèo là kẻ đáng thương, đáng lân mẫn để
an ủi họ. Từ quan niệm đó, bất luận một hành vi, cử
chỉ lớn hoặc nhỏ nào của tôn giả Ðại Ca Diếp đều
biểu thị đức từ bi bao la vô hạn. Bởi thế, tăng hay tục,
mọi người đều kính nể tôn giả Ðại Ca Diếp. Hào quang
hiền dịu của tôn giả đã lấn lướt ảnh hưởng của
người khác. Do đó, tên Ðại Ca Diếp được Trung Quốc dịch
là "ẩm quang" (uống ánh sáng).
Trong hàng đệ tử Phật
có nhiều vị mang tên Ca Diếp, vì thế, để phân biệt với
các vị khác, giáo đoàn của Phật gọi tôn giả Ca Diếp tu
hạnh đầu đà là Ma Ha Ca Diếp (tức Ðại Ca Diếp).
* Theo Phật giáo Bắc
Tông sau khi Phật Niết Bàn, Ðại Ca Diếp được tôn vinh
làm sư tổ, trong khi Phật giáo Nam Tông tôn vinh Ưu Ba Ly làm
sư tổ. Theo thiển ý của chúng tôi vì quan điểm của hai
phái có thiên trọng khác nhau, nên sự suy tôn sư tổ
đương nhiên là khác. Ðó cũng chính là một trong những điểm
mà Phật giáo có chia Nam Bắc hai phái. Phật giáo Bắc tông
thiên về thiền, về giáo ngoại biệt truyền, không lập văn
tự, chỉ dùng tâm ấn tâm, cho nên qua biểu thị Phật đưa
hoa sen, Ðại Ca Diếp liền mỉm cười (chính ngộ yếu chỉ
niêm hoa vi tiếu), vì thế Ðại Ca Diếp được suy tôn là sư
tổ. Trong khóa chúc tán có bài tán đã nói lên ý nghĩa đó
như sau:
- Niêm hoa ngộ chỉ,
tổ đạo sơ hưng, miên diên tứ thất diễn chơn thừa, lục
đại viễn truyền đăng, dịch diệp tương thừa chánh
pháp vinh xương minh.
(Thấy hoa liền ngộ,
vị tổ đầu tiên, liên tục bốn bảy giảng chơn thừa,
đèn soi suốt 6 đời, cây lá nối nhau, chính pháp mãi thịnh
hành).
Phật giáo Nam tông chủ
yếu vẫn tọa thiền, loại trừ phiền não triền cái, nhưng
lại nhắm hướng giải thoát cá nhân làm trọng điểm... Muốn
giải thoát tất yếu phải giữ giới luật, chính chữ giới
luật có nghĩa là biệt giải thoát. Phật tìm đạo vì để
giải thoát sanh tử luân hồi cho chúng sanh. Lúc Phật sắp
Niết Bàn, A Nan hỏi Phật:
- Sau khi Thế Tôn Niết
Bàn chúng con biết lấy ai làm thầy. Phật bảo: "Lấy
giới luật làm thầy, giới luật còn thì đạo ta còn".
Ưu Ba Ly là vị trì luật đệ nhất,với mục đích duy trì
mạng mạch của Ðức Phật lâu dài, đồng thời cũng tiến
tới chân trời giải thoát, đương nhiên Phật giáo Nam tông
phải suy tôn Ưu Ba Ly làm sư tổ.
* Nhìn chung, suốt cả
cuộc đời tôn giả Ðại Ca Diếp luôn luôn hướng dẫn phẩm
hạnh đạo đức thiểu dục, tri túc là chính. Cuộc sống nội
tâm thúc ép hành vi, cử chỉ, lời ăn tiếng nói vào một lề
lối không cho chệch lề. Bởi thế, người khác nhìn vào
có vẻ thấy tiêu cực, thụ động, yếu đuối... Nhưng ở
đời có mấy ai ép mình được trong khuôn khổ đạo đức,
lo trau dồi phẩm hạnh. Theo chúng tôi nghĩ, đó là tiêu cực
mà tích cực. Cái lăng xăng, tích cực tham dự và sự thu
hút của xã hội, của cuộc đời có thể dễ dàng thực hiện.
Có cái tích cực diệt trừ cái thói hư, tật xấu, tham, sân,
si, chấp, ngã, tiềm ẩn trong mỗi tự thân của con người
thật khó thực hiện.
* Thắng người thì dễ,
thắng mình rất khó. Tôn giả Ðại Ca Diếp luôn luôn hướng
về tự thắng. Nhờ đó, tôn giả trở thành một con người
gương mẫu trong giáo đoàn. Phẩm hạnh của tôn giả đã
có một tầm mức ảnh hưởng rất rộng. Ðức Phật cũng
đã vị nể, xem tôn giả như bạn, có lần Phật đã nhường
nửa tòa ngồi giảng pháp cho tôn giả. Dù tôn giả không ngồi,
vì dù bình đẳng đến đâu cũng phải có sự tôn ti trật
tự. Phật phải trên tất cả giáo đoàn. Nhờ phẩm hạnh
đầu đà, sau khi Phật Niết Bàn, tôn giả Ðại Ca Diếp đã
được giáo đoàn suy tôn lên ngôi thủ lãnh, trong cuộc kiết
tập kinh điển lần đầu tiên tại Kỳ Xà Quật.
* Ngày nay, để duy trì
đạo Pháp, lợi lạc mỗi người, chúng ta nhất là hàng Tăng
sĩ hãy noi gương tôn giả Ðại Ca Diếp, để nâng cao phẩm
hạnh đạo đức ở đời. Người có tư cách đạo đức
bao giờ cũng được kính nể. Ngược lại, không tư cách,
đạo đức, dù mạnh đến mức nào, cuối cùng cũng bị cuộc
đời, con người dẹp bỏ.
* * *
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Quê quán, dòng họ
và danh hiệu Ðại Ca Diếp như thế nào?
2. Mục đích của hạnh
đầu đà là gì?
3. Muốn theo hạnh đầu
đà chúng ta cần tuân giữ những điều kiện gì?
4. Lai lịch xuất gia
của Ðại Ca Diếp như thế nào?
5. Khi vào thành Vương
Xá khất thực, Ðại Ca Diếp đã gặp ai và làm gì?
6. Lý do và trường hợp
nào Phật đã chế giới Tỳ Kheo được giữ bát dư thừa,
thời gian 10 ngày?
7. Nhờ đâu, Ðại Ca
Diếp được thừa kế Ðức Phật?
8. Diễn tiến của cuộc
tập kinh điển lần thứ nhất như thế nào?
9. Truyền thuyết khi
Ðại Ca Diếp Niết Bàn như thế nào?
10. Trên đường tu tập,
hành giả chỉ lo trau dồi phẩm hạnh đạo đức phải
chăng là một việc làm tiêu cực?
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.01
| 1.02 | 1.03 | 1.04
| 1.05 | 1.06 | 1.07
| 1.08 |
| 2.01 | 2.02 | 2.03
| 2.04 | 2.05 |
2.06 | 2.07 | 2.08
| 2.09 | 2.10 | 3
| Mục lục |