| 
         Bài 6 
        Trưởng 
        lão ÐẠI CA DIẾP 
        (Maha Kasyapa - Đầu đà đệ nhất)
        -ooOoo- 
        
        K hi 
        còn tại thế, trong 45 năm thuyết giáo, với hơn 300 hội, Phật 
        để lại 8 vạn 4 ngàn pháp môn. Tùy căn cơ, trình độ, hoàn 
        cảnh, hành giả có thể chọn tu theo một trong những pháp 
        môn đó. Có người chuyên tu thiền định, có người niệm 
        Phật, tụng kinh, có người trì luật, có người tu phước 
        bố thí, có người trì bình khất thực... Với tất cả 
        hành trì, theo Phật, hạnh nào cũng đáng kính nể, quý trọng. 
        Trong số các Thánh chúng, Ma Ha Ca Diếp là người dốc lòng 
        giữ gìn phạm hạnh, nên được Phật cùng Thánh chúng tôn 
        xưng là bậc đầu đà đệ nhất.
        I. QUÊ 
        QUÁN DÒNG HỌ VÀ DANH HIỆU CỦA NGÀI MA HA CA DIẾP. 
        Ở Ấn Ðộ, không xa 
        thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Ðà, tại thôn Sa La Ðà, có 
        một gia đình thuộc dòng họ Bà La Môn rất giàu có, Ðó 
        là Ni Câu Lự Ðà Kiệt Ba, có tài sản, có thể so sánh với 
        vua Tần Bà Sa La lúc bấy giờ. Ðại Ca Diếp sinh trong gia đình 
        phú hào này. 
        Tên đầu tiên là Tất 
        Bát La Da Na, vì thân mẫu tôn giả đi chơi quanh gốc cây Tất 
        Bát La thì hạ sinh tôn giả. Vì thế, lấy tên cây đặt cho 
        đứa bé. Vì là con một trong gia đình, Ðại Ca Diếp rất 
        được cha mẹ thương yêu, nuôi dưỡng. Nhũ mẫu có đến 4 
        bà, còn bồng bế, cho ăn tắm rửa, trò chơi có rất nhiều 
        người. 
        Ðại Ca Diếp phước 
        tướng đầy đủ, tư chất thông minh. Lúc lên 8, Ðại Ca Diếp 
        đã được học văn học, toán thuật, thi họa, âm nhạc, 
        thiên văn, số tướng... Các đạo sĩ Bà La Môn còn dạy cho 
        Ngài Ðại Ca Diếp phép tế đàn 4 mùa, Thánh điển Phệ 
        Ðà, nhân minh học v.v... Với các môn học, Ðại Ca Diếp đều 
        thấu hiểu rất nhanh. 
        Lúc khôn lớn, Ðại Ca 
        Diếp khác hẳn những người cùng lứa tuổi. Với các lạc 
        thú ở đời, Ðại Ca Diếp không ham thích, kể cả vấn đề 
        âu yếm. Ðại Ca Diếp thường tỏ chán ghét bất tịnh, 
        thích xa đám đông, riêng ở một mình. Ngay cả cha mẹ, Ðại 
        Ca Diếp cũng không tưởng nhớ, trong những lúc xa nhà. Bởi 
        thế khi phải vâng lời cha mẹ lập gia đình, Ðại Ca Diếp 
        không bao giờ ngủ chung giường với Diệu Hiền, một cô 
        gái sắc hương không ai sánh được, dù có đôi lần bị 
        cha mẹ la rầy. 
        Mỗi người mang một tâm 
        trạng riêng, từ ngày cưới Diệu Hiền cho đến hơn cả chục 
        năm về sau không ai nói với ai một lời nào. Im lặng lâu 
        quá không thể nín thinh mãi được, Ðại Ca Diếp hỏi Diệu 
        Hiền, lý do tại sao mặt lúc nào cũng buồn. 
        Diệu Hiền trả lời: 
        - Chàng đã phá hoại 
        chí nguyện của tôi, sự giàu sang của chàng đã mê hoặc 
        cha mẹ tôi, từ trước tôi vẫn thích phạm hạnh, ghét ngũ 
        dục, hiện làm dâu gia đình này tôi rất lấy làm buồn! 
        Nghe ước vọng của Diệu 
        Hiền không trái với ước vọng của chính mình, Ðại Ca Diếp 
        nói: 
        - Thế thì hai ta đã 
        có cùng chung một ước nguyện, cùng nhìn chung về một hướng. 
        Tôi vẫn không thiết tha với việc lập gia đình, nhưng vì 
        là con một, tạm để cho cha mẹ khỏi buồn, tôi phải tạm 
        theo ý của gia đình mà thôi. Giờ đây chúng ta hãy tiếp tục 
        nuôi mộng ước theo phạm hạnh và dù là vợ chồng, chúng 
        ta quyết không bao giờ ngủ chung giường. 
        Mãi 12 năm sau, cả hai 
        vẫn thanh tịnh, khi cha mẹ từ giã cõi đời xong xuôi, Ðại 
        Ca Diếp rời gia đình đi tìm thầy học đạo, trước khi tạm 
        biệt, Ðại Ca Diếp có hứa sẽ trở về hướng dẫn Diệu 
        Hiền xuất gia, khi tìm được minh sư. 
        II- ÐẠO 
        NGHIỆP CỦA ÐẠI CA DIẾP 
        
        1. Ðại Ca Diếp xuất 
        gia trì hạnh Ðầu Ðà 
        
        Năm 30 tuổi, Ðại Ca 
        Diếp từ giã thân thuộc vào rừng tìm đạo, chính là lúc 
        Phật thành đạo dưới gốc cây Bồ Ðề. 
        Mãi đến hai năm sau, 
        Ðại Ca Diếp vẫn chưa có đạo sĩ nào giúp thỏa mãn nguyện 
        vọng. Nhân cuộc khởi xướng dâng y rầm rộ của ngự y Kỳ 
        Bà. Ðại Ca 
        Diếp biết Phật và 
        tìm đến thành Vương Xá, ngày ngày Ðại Ca Diếp theo Thánh 
        chúng đến nghe pháp mà chưa chính thức ra mắt với Phật, 
        vì lòng còn muốn dò xét. 
        Từ trên tòa giảng, Ðức 
        Phật nhìn xuống thấy và biết Ðại Ca Diếp là người có 
        thể kế thừa đạo nghiệp của Như Lai. 
        Tại hội Linh Sơn, khi 
        Ðức Phật đưa lên một hoa sen, Ngài Ðại Ca Diếp mỉm cười. 
        Phật biết chánh pháp đã có người tâm đắc, kế thừa 
        sau này. Một hôm, sau khi mãn buổi thuyết pháp Phật đi đường 
        tắt, đón Ðại Ca Diếp ở một ngã đường. 
        Trên đường về, Ðại 
        Ca Diếp gặp Phật, biết là cơ duyên đã đến, Ðại Ca Diếp 
        chính thức bái yết Phật, xin được xuất gia tiếp tục học 
        đạo. Qua cuộc gặp gỡ, Ðại Ca Diếp theo Phật trở lại 
        Tịnh xá Trúc Lâm. Ở đây, Phật đem phép Tứ Ðế, 12 nhân 
        duyên, khai thị cho Ðại Ca Diếp. Vốn thích tu pháp Ðầu 
        Ðà, sau khi gặp Phật. Ca Diếp vẫn tiếp tục thực hành 
        pháp tu phạm hạnh. Hạnh đầu đà có năng lực tịnh hóa 
        tâm hồn, khi tu theo hạnh này, cần giữ đủ 10 điều. 
        
          1 - Chọn ở nơi hoang 
          vắng. 
          2 - Sinh hoạt bằng phép trì bình. 
          3 - Thường ở tại một nơi. 
          4 - Ngày ăn một bữa. 
          5 - Khất thực không phân biệt giàu nghèo. 
          6 - Tài sản gồm có 3 y, một bình bát. 
          7 - Tư duy dưới gốc cây. 
          8 - Thường ngồi giữa đồng trống. 
          9 - Mặc áo phấn tảo. 
          10 - Sống tại các bãi tha ma. 
         
        Với 10 điều kiện trên, 
        Ðại Ca Diếp tuân giữ trọn vẹn chỉ có 9 điều. Riêng 
        điều khất thực số 5, Ðại Ca Diếp không theo giáo đoàn 
        đi khất thực không phân biệt nhà giàu, nghèo. Khi đi khất 
        thực, Ðại Ca Diếp chỉ đến khất thực trước nhà người 
        nghèo. Theo Ðại Ca Diếp, người giàu đã thừa phước đức, 
        ta không cần phải mang phước đến cho họ, còn người nghèo 
        vì thiếu mất phước đức, ta cần đem phước điền cho họ 
        gieo trồng. Trong hàng đệ tử Phật, người đi khất thực 
        ngược với Ca Diếp là ngài Phú Lâu Na, chỉ đi khất thực 
        nhà giàu. Ngài Phú Lâu Na quan niệm rằng người giàu dể 
        dàng cúng dường, nhưng người nghèo không có tài sản để 
        cúng nên ngài không muốn làm phiền họ. 
        Nghe chỉ khất thực 
        nhà nghèo, Phật thường khiển trách Ðại Ca Diếp và 
        khuyên nên đem tâm bình đẳng khất thực, vì bỏ tâm phân 
        biệt. Với Ðại Ca Diếp, Phật còn khuyên không nên sống 
        quá khổ hạnh. Vì khổ hạnh làù một cực đoan, Phật đã 
        bỏ sau khi bị kiệt sức ở xứ Ba La Nại, tu với 5 anh em 
        ông Kiều Trần Như. Hành giả cần theo con đường Trung đạo, 
        mới đạt được quân bình và đạt được địa vị giác 
        ngộ, giải thoát. Với phép khất thực bình đẳng có lúc 
        Ðại Ca Diếp vẫn tuân hành. Riêng Hạnh Ðầu Ðà, Ðại Ca 
        Diếp khư khư giữ chặt cho đến hơi thở cuối cùng, không 
        ai lay chuyển được. Từ đó Ðại Ca Diếp được tôn xưng 
        là bậc Ðầu Ðà đệ nhất. Với tầm vóc ảnh hưởng của 
        Ðại Ca Diếp rất lớn, lấn lướt hết ảnh hưởng của 
        người khác, như ánh sáng chói chang của mặt trời khỏa hết 
        các ánh sáng khác, vì thế Ngài Ðại Ca Diếp được dịch 
        là Ẩm Quang. 
        
        2. Tiếp độ Diệu Hiền 
        
        Khi Ðức Phật trở về 
        Ca Tỳ La Vệ, giáo hóa cho các vương tôn công tử. Ðại Ca 
        Diếp có đi theo, để hợp giáo phép bình đẳng, và cũng 
        theo lời thỉnh cầu của Ngài A Nan, Phật cho bà Ma Ha Ma Xà 
        Ba Ðề xuất gia với hiệu là Kiều Ðàm Di, vị nữ đầu 
        tiên trong giáo đoàn của Phật. Thấy di mẫu của Phật được 
        xuất gia, Ðại Ca Diếp có ý mừng, vì Phật mở lối để 
        Ðại Ca Diếp thực hiện lời ước hẹn với Diệu Hiền lúc 
        từ tạ gia đình để đi xuất gia. 
        Chờ đợi 3, 4 năm không 
        thấy Ðại Ca Diếp trở về, Diêu Hiền cho phân tán tài sản, 
        bố thí, giúp đỡ bà con và những người gặp khó khăn về 
        kinh tế, rồi đi xuất gia theo phái ngoại đạo lõa hình ở 
        bên bờ sông Hằng. 
        Ðược tin Diệu Hiền 
        đi tu, nhưng vì sắc đẹp mà phải chịu nhiều sĩ nhục, Ðại 
        Ca Diếp nhờ một Tỳ Kheo ni đi đón nàng. Khi về đến Ni 
        Viện cũng vì có sắc đẹp kiều diễm mỹ lệ, Diệu Hiền 
        vẫn không tránh khỏi xì xầm nơi đông người. Tự thấy 
        thân nữ trở ngại đạo nghiệp rất nhiều, Diệu Hiền không 
        đi ra ngoài khất thực nữa, không tiếp xúc với đại chúng, 
        tránh chỗ đông đảo. 
        Cảm kích tình cảnh của 
        Tỳ Kheo ni Diệu Hiền hàng ngày Ðại Ca Diếp chia nửa phần 
        cơm và nhờ người mang đến Ni Viện cho Diệu Hiền. Ðời 
        lại lắm chuyện, Tỳ Kheo ni Thâu La Nan Ðà, người có tình 
        tò mò lại hay thị phi, sinh tâm tật đố và cho là giữa 
        hai người chắc còn tình ý. Ðể tránh tiếng đàm tiếu, Ðại 
        Ca Diếp không chia phần cơm cho Diệu Hiền như bấy lâu nữa. 
        Tỳ Kheo ni Diệu Hiền cũng muốn chóng được nhẹ nghiệp nữ 
        lưu, suốt đêm không ngủ, tỉnh tọa sám hối, tấn tu đạo 
        nghiệp và sớm đạt được Túc mạng thông, được Phật 
        khen ngợi. 
        Tôn giả Ðại Ca Diếp 
        rất hoan hỉ, với hai mặt Ðời và Ðạo, Ðại Ca Diếp đều 
        thực hiện viên mãn, hết mối bận tâm. 
        
        3. Ðộ bà lão nghèo 
        
        Với chí nguyện, đem 
        phước điền đến cho người nghèo thiếu khi đi khất thực, 
        Ðại Ca Diếp tránh nhà giàu có, dừng bước trước cửa những 
        ngôi nhà nghèo nàn, lụp xụp, có vẻ đói nghèo. Một hôm 
        vào thành Vương Xá khất thực, thấy một bà già ăn mày 
        đau ốm nằm rên rỉ bên vệ đường, Ðại Ca Diếp đến gần 
        và hỏi rằng: 
        - Này bà già! Tại sao 
        trong lúc đau ốm bà lại nằm giữa đất, và chỉ lấy lá 
        che thân? Nơi đất, hơi gió mưa sẽ làm cho bệnh của bà nặng 
        thêm. Bà không có nhà cửa, con cháu gì cả sao? 
        - Nếu đã có các thứ 
        như ông vừa hỏi, tôi đâu có nằm rên rỉ ở đây. Bà 
        già nói. Ông có gì cho tôi không? Trong khi tôi nghèo rớt mồng 
        tơi, sao tôi cảm thấy ông có vẻ vô sản và cũng mang bát 
        đi xin ăn hả? Tôi chẳng có gì cho ông cả. Thế ông có 
        phép gì giúp tôi hết bệnh và hết nghèo đói chăng? 
        Tôi là một tỳ kheo 
        đang theo học đạo lý với Phật Thích Ca và đang tu khổ hạnh 
        để giải thoát cảnh sinh, già, bệnh, chết. Tôi cũng đi 
        xin như bà, nhưng lại đi bán giàu mua nghèo, bà hãy bán 
        nghèo cho tôi để tạo nhiều phước báu giàu sang phú quý. 
        - Nghèo thì lấy gì để 
        bán? Bà nói, đã ba ngày qua tôi không có bất cứ chút gì 
        để bỏ vào bụng, sáng sớm hôm nay có người đi đổ nước 
        cơm, tôi hứng được 1 tý đỉnh, nhưng nước đã có mùi, 
        chưa dám uống, sợ tháo dạ. 
        - Thế, bà đem nước 
        đó bố thí cho tôi chút đỉnh, gọi là gieo trồng phước 
        đức, hy vọng tương lai gặp may mắn, trở nên giàu có. Ðại 
        Ca Diếp nói. Tôi tuy đã cao niên, nhưng còn khỏe mạnh, nước 
        đó không thể làm cho tôi đau bụng được đâu. 
        Nghe Ðại Ca Diếp giảng 
        giải, tâm bà đầy hỷ lạc quên cả sự ô uế của thân 
        hình, bà đem mẻ nước cơm có mùi dâng cúng cho Ðại Ca Diếp. 
        Tôn giả hoan hỷ tiếp 
        nhận. Ðể bà khỏi nghi ngờ, Ðại Ca Diếp uống gần cạn 
        mẻ nước cơm. 
        Thấy thế, bà già vô 
        cùng vui sướng. Tự cảm nhận đã giúp bà già ăn mày gieo 
        trồng phước đức, tôn giả Ðại Ca Diếp ngỏ lời phú 
        chúc bà già, rồi tiếp tục lên đường hành hóa. 
        
        4. A Nan tặng Bát 
        
        Trong giáo đoàn của Phật, 
        tôn giả Ðại Ca Diếp giữ phạm hạnh bao nhiêu, thì nhóm lục 
        quần Tỳ Kheo lại thường sai trái mất phạm hạnh bấy 
        nhiêu. 
        Có một thời kỳ Phật 
        ở Kỳ Viên Tịnh xá, lục quần Tỳ Kheo thi nhau sưu tầm bình 
        bát. Phật chế bát có hai loại, bát bằng sắt thép và bát 
        bằng sành sứ. Nhưng khi sản xuất hình dáng bát, mỗi thứ 
        không giống nhau, chất liệu cũng có thứ tốt, thứ xấu, 
        màu sắc cũng có nhiều. Nước Tô Ma sản xuất bát thiếc, 
        nước Ưu già sản xuất bát màu đỏ, nước Ô già sản xuất 
        bát màu đen... lục quần Tỳ Kheo chẳng lo hành thiền, tu tập, 
        ngày này qua ngày khác lo đi tìm kiếm bát tốt, đem về 
        trưng bày, để ngắm nhìn. Phòng xá của các vị giống như 
        nhà hàng bán đồ gốm, sành sứ. 
        Biết đư?c tình trạng 
        lục quần tích trữ nhiều bát, Phật định ban hành luật: 
        Tỳ Kheo chứa bát dư phạm Ni bát kỳ ba dật đề. 
        Trong lúc đó A Nan được 
        đàn việt cúng dường 4 cái bát của nước Tô Ma rất quý. 
        A Nan định đem bát đó dâng cúng cho Tôn giả Ðại Ca Diếp. 
        Nhưng lúc bấy giờ Ðại Ca Diếp không có mặt ở nước Xá 
        Vệ, đang đi du hóa ở phương xa, giữ bát thừa tất phạm 
        giới, không biết xử lý bằng cách nào, tôn giả A Nan đành 
        đem sự việc trình lên Ðức Phật. Phật hỏi: 
        - Bao giờ Ðại Ca Diếp 
        mới trở về? 
        A Nan thưa: 
        - Bạch Thế Tôn! Khoảng 
        sau 10 ngày. 
        Trong giờ giảng pháp 
        trước đại chúng, Phật hết lời khen ngợi phạm hạnh của 
        Ðại Ca Diếp, và khuyên đại chúng nên noi gương, đặc biệt 
        là Lục quần Tỳ Kheo. Sau cùng, thể theo sự tình của A Nan 
        đã trình bày, với phép cất bát dư, Phật sửa lại điều 
        luật và công bố: 
        - Các Tỳ Kheo được cất 
        bát dư trong thời gian 10 ngày. 
        Qua sự kiện Phật chế 
        giới luật Tỳ Kheo giữ bát dư, chúng ta biết được địa 
        vị và ảnh hưởng của tôn giả Ðại Ca Diếp đối với 
        Ðức Phật và giáo đoàn rất cao. 
        
        5. Thừa kế Ðức Phật 
        
        Thấy Ðại Ca Diếp đạo 
        cao đức trọng, Phật và giáo đoàn đều vị nể, Xá Lợi 
        Phất và Mục Kiền Liên yêu cầu tôn giả tham gia việc hoằng 
        pháp, tôn giả không tham dự, vì việc đi bố giáo đã có 
        các vị thông minh tài trí, như Xá Lợi Phất, Mục Kiền 
        Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, Tôn giả chỉ chú trọng đến 
        cuộc sống phạm hạnh, thiểu dục, trí túc, vì đó cũng là 
        cách gián tiếp truyền bá đạo lý của Ðức Phật. Tôn giả 
        trọn giữ Hạnh Ðầu Ðà, lúc nào Tôn giả cũng ở trong rừng 
        già, kinh hành hoặc tọa thiền gốc cây, quán xương trắng, 
        ở bãi tha ma, chẳng quản nắng mưa, sương gió... 
        Mãi đến lúc tuổi 
        già tóc râu bạc phơ, thân thể gầy guộc tôn giả vẫn 
        không giờ phúc chểnh mảng sinh hoạt đầu đà. Thấy thế, 
        không đành lòng Phật yêu cầu tôn giả về thường trú tại 
        Tịnh Xá Kỳ Viên, nhưng tôn giả vẫn không chịu. Dù biết 
        rằng cung kính không bằng phụng mạng, nhưng tôn giả thấy 
        sống với tập thể thì phải theo khuôn khổ chung và đành 
        phải ngưng thực hành Hạnh Ðầu Ðà. Hơn nữa, ở chốn rừng 
        sâu, không phiền hà gì đến ai, khi cần gieo phước điền 
        cho người thì vào thành khất thực, khi mệt mỏi không đi 
        được thì kiếm hoa quả rau trái ở rừng, thọ dụng qua 
        ngày. 
        Thực hành phạm hạnh 
        đầu đà đã là trực tiếp củng cố giáo đoàn, gián tiếp 
        lợi lạc chúng sanh. Củng cố tăng đoàn là điền kiện thừa 
        kế Ðức Phật, Ðại Ca Diếp xin Phật được tiếp tục 
        con đường đã chọn. 
        Biết không thể lay 
        chuyển được ý hướng của Ðại Ca Diếp, Phật hướng về 
        Ðại chúng dạy rằng: 
        - Này các Tỳ Kheo! Ðại 
        Ca Diếp luôn luôn lo ngại cho tiền đồ chánh pháp, Thiên ma 
        ngoại đạo hay thế lực cường quyền không thể phá hoại 
        chánh pháp. Nội tình lộn xộn, Tăng đoàn hủ hóa, thiếu 
        phạm hạnh là điều kiện chánh làm cho chánh pháp tiêu diệt. 
        "Trùng trong sư tử ăn thịt sư tử". Vì thế, nếu 
        tăng đoàn được củng cố, giới đức trang nghiêm, nội 
        tình ổn định hòa hợp tất yếu chánh pháp được trường 
        tồn. Ðể củng cố tăng đoàn, sinh hoạt phải nghiêm túc, 
        giới luật phải được tôn trọng giữ gìn, giới luật 
        còn thì đạo ta còn. Người có thể chủ trì thừa kế 
        chánh pháp nhãn tạng của ta phải là Ma Ha Ca Diếp. Ðiều 
        đó, ta đã thấy rõ ngay ở hội Linh Sơn, khi ta đưa lên một 
        cành hoa sen, Ma Ha Ca Diếp liền mỉm cười, trong khi mọi 
        người chỉ biết ngồi nín lặng. 
        
        6. Kiết tập kinh điển 
        
        Ðúng là người thừa 
        kế mạng mạch của Như Lai, sau khi Phật Niết Bàn 7 ngày, 
        suốt 3 tháng, tôn giả Ðại Ca Diếp liền triệu tập hội 
        nghị kiết tập kinh điển, Tịnh Xá của giáo đoàn rộng 
        rãi có rất nhiều, nhưng đa phần chưa phải là nơi hoàn 
        toàn thanh tịnh. Các Tỳ Kheo lân cận đa phần chưa phải thật 
        sự ly dục, chứng thánh quả. Suy xét kỹ lưỡng, Ðại Ca 
        Diếp chỉ thấy có động Kỳ Xà Quật mới xứng đáng là 
        nơi kiết tập kinh điển. Ðó là nơi u tịch, rộng rãi, cảnh 
        trí thoát trần, Ðại Ca Diếp hướng dẫn đến động này 
        500 đệ tử của Phật. Trong số, hầu hết đều chứng thánh 
        quả A La Hán, riêng A Nan luôn luôn gần Phật lại đa văn, 
        thuộc tất cả các lời Phật dạy, nhưng lại chưa chứng 
        thánh quả, lại còn có 6 tội. Ðể có thể và duy trì 
        chánh pháp lâu dài, sư sinh hoạt của giáo đoàn phải oai 
        nghiêm, không thể có người còn lỗi lầm. Ở trong đại chúng, 
        với oai đức sẵn có, tôn giả Ðại Ca Diếp buộc A Nan phải 
        sám hối 6 tội trước giáo đoàn. 
        Còn vấn đề chưa chứng 
        thánh quả, Ðại Ca Diếp buộc A Nan phải ra ngoài động, kiếm 
        nơi an tĩnh tu tập, lúc nào chứng thánh quả A La Hán hãy trở 
        vào. Nhờ nhất tâm, chỉ tĩnh tu trong thời gian ngắn, A Nan 
        liền chứng A La Hán. 
        Khi A Nan trở vào thạch 
        động, cuộc kiết tập kinh điển cũng mới chính thức bắt 
        đầu. 
        Ðại chúng nhất trí 
        đề cử Ðại Ca Diếp làm chủ tọa. 
        
        - Ưu Ba Ly đọc luật. 
        - A Nan đọc kinh. 
        
        - Phú Lâu Na luận nghị. 
        - Ngoại hộ đắc lực 
        cho cuộc kiết tập kinh điển lần thứ nhất là vua A Xà Thế. 
        III- ÐẠI 
        CA DIẾP NIẾT BÀN 
        Trong hàng đệ tử của 
        Ðức Phật, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên Niết Bàn trước 
        Phật. Niết bàn sau Phật có Ðại Ca Diếp. 
        Tương truyền, sau cuộc 
        kiến tập kinh điển tại động Kỳ Xà quật, khoảng hai hoặc 
        ba mươi năm sau, cảm thấy cơ thể già yếu, mệt mỏi, vì 
        đã trên 100 tuổi, Ðại Ca Diếp quyết định Niết Bàn, 
        Tôn giả tìm đến nơi 
        A Nan đang du hóa để phú chúc pháp tạng, yêu cầu A Nan tiếp 
        nối sứ mạng thừa kế truyền bá chánh pháp. Rồi không nề 
        mệt mỏi, tôn giả đến 8 tháp thờ Xá Lợi Phật và cung 
        kính lễ bái cúng dường. 
        Sau đó, trở về thành 
        Vương Xá, tôn giả đến tạ từ vua A Xà Thế, nhưng gặp lúc 
        nhà vua đang ngủ nghỉ, quân hầu không cho tôn giả vào 
        cung. Rời thành vương Xá, tôn giả mang theo y bát của Phật 
        đến núi Kê Túc, ngồi nhập định và Niết Bàn. Nơi này 
        cách thành Vương Xá khoảng 8 dặm, ở phía Tây Nam. Nghe tin 
        tôn giả Ðại Ca Diếp đã Niết Bàn. Vua A Xà Thế rất bi 
        thương! Nhà vua lập tức đến thông báo cho A Nan và yêu cầu 
        cùng nhà vua đến núi Kê Túc đảnh lễ cúng dường. 
        Mặc dù Tôn giả Ðại 
        Ca Diếp đã Niết Bàn, nhưng ảnh hưởng đạo đức, nếp sống 
        phạm hạnh của tôn giả vẫn còn tồn tại mãi với thời 
        gian vô cùng và không gian vô tận... 
        IV- NHẬN 
        THỨC VÀ KẾT LUẬN 
        Với những phép khất 
        thực, Phật dạy phải bình đẳng không thiên chấp, phân biệt. 
        Nhưng tôn giả Ca Diếp lại chỉ khất thực nhà nghèo, trong 
        khi Phú Lâu Na chỉ khất thực nhà giàu. Vì thế, cả hai đều 
        bị Phật khiển trách. Tuy thế, theo Ðại Ca Diếp với thực 
        tế người nghèo là kẻ đáng thương, đáng lân mẫn để 
        an ủi họ. Từ quan niệm đó, bất luận một hành vi, cử 
        chỉ lớn hoặc nhỏ nào của tôn giả Ðại Ca Diếp đều 
        biểu thị đức từ bi bao la vô hạn. Bởi thế, tăng hay tục, 
        mọi người đều kính nể tôn giả Ðại Ca Diếp. Hào quang 
        hiền dịu của tôn giả đã lấn lướt ảnh hưởng của 
        người khác. Do đó, tên Ðại Ca Diếp được Trung Quốc dịch 
        là "ẩm quang" (uống ánh sáng). 
        Trong hàng đệ tử Phật 
        có nhiều vị mang tên Ca Diếp, vì thế, để phân biệt với 
        các vị khác, giáo đoàn của Phật gọi tôn giả Ca Diếp tu 
        hạnh đầu đà là Ma Ha Ca Diếp (tức Ðại Ca Diếp). 
        * Theo Phật giáo Bắc 
        Tông sau khi Phật Niết Bàn, Ðại Ca Diếp được tôn vinh 
        làm sư tổ, trong khi Phật giáo Nam Tông tôn vinh Ưu Ba Ly làm 
        sư tổ. Theo thiển ý của chúng tôi vì quan điểm của hai 
        phái có thiên trọng khác nhau, nên sự suy tôn sư tổ 
        đương nhiên là khác. Ðó cũng chính là một trong những điểm 
        mà Phật giáo có chia Nam Bắc hai phái. Phật giáo Bắc tông 
        thiên về thiền, về giáo ngoại biệt truyền, không lập văn 
        tự, chỉ dùng tâm ấn tâm, cho nên qua biểu thị Phật đưa 
        hoa sen, Ðại Ca Diếp liền mỉm cười (chính ngộ yếu chỉ 
        niêm hoa vi tiếu), vì thế Ðại Ca Diếp được suy tôn là sư 
        tổ. Trong khóa chúc tán có bài tán đã nói lên ý nghĩa đó 
        như sau: 
        
          - Niêm hoa ngộ chỉ, 
          tổ đạo sơ hưng, miên diên tứ thất diễn chơn thừa, lục 
          đại viễn truyền đăng, dịch diệp tương thừa chánh 
          pháp vinh xương minh. 
          (Thấy hoa liền ngộ, 
          vị tổ đầu tiên, liên tục bốn bảy giảng chơn thừa, 
          đèn soi suốt 6 đời, cây lá nối nhau, chính pháp mãi thịnh 
          hành). 
         
        Phật giáo Nam tông chủ 
        yếu vẫn tọa thiền, loại trừ phiền não triền cái, nhưng 
        lại nhắm hướng giải thoát cá nhân làm trọng điểm... Muốn 
        giải thoát tất yếu phải giữ giới luật, chính chữ giới 
        luật có nghĩa là biệt giải thoát. Phật tìm đạo vì để 
        giải thoát sanh tử luân hồi cho chúng sanh. Lúc Phật sắp 
        Niết Bàn, A Nan hỏi Phật: 
        - Sau khi Thế Tôn Niết 
        Bàn chúng con biết lấy ai làm thầy. Phật bảo: "Lấy 
        giới luật làm thầy, giới luật còn thì đạo ta còn". 
        Ưu Ba Ly là vị trì luật đệ nhất,với mục đích duy trì 
        mạng mạch của Ðức Phật lâu dài, đồng thời cũng tiến 
        tới chân trời giải thoát, đương nhiên Phật giáo Nam tông 
        phải suy tôn Ưu Ba Ly làm sư tổ. 
        * Nhìn chung, suốt cả 
        cuộc đời tôn giả Ðại Ca Diếp luôn luôn hướng dẫn phẩm 
        hạnh đạo đức thiểu dục, tri túc là chính. Cuộc sống nội 
        tâm thúc ép hành vi, cử chỉ, lời ăn tiếng nói vào một lề 
        lối không cho chệch lề. Bởi thế, người khác nhìn vào 
        có vẻ thấy tiêu cực, thụ động, yếu đuối... Nhưng ở 
        đời có mấy ai ép mình được trong khuôn khổ đạo đức, 
        lo trau dồi phẩm hạnh. Theo chúng tôi nghĩ, đó là tiêu cực 
        mà tích cực. Cái lăng xăng, tích cực tham dự và sự thu 
        hút của xã hội, của cuộc đời có thể dễ dàng thực hiện. 
        Có cái tích cực diệt trừ cái thói hư, tật xấu, tham, sân, 
        si, chấp, ngã, tiềm ẩn trong mỗi tự thân của con người 
        thật khó thực hiện. 
        * Thắng người thì dễ, 
        thắng mình rất khó. Tôn giả Ðại Ca Diếp luôn luôn hướng 
        về tự thắng. Nhờ đó, tôn giả trở thành một con người 
        gương mẫu trong giáo đoàn. Phẩm hạnh của tôn giả đã 
        có một tầm mức ảnh hưởng rất rộng. Ðức Phật cũng 
        đã vị nể, xem tôn giả như bạn, có lần Phật đã nhường 
        nửa tòa ngồi giảng pháp cho tôn giả. Dù tôn giả không ngồi, 
        vì dù bình đẳng đến đâu cũng phải có sự tôn ti trật 
        tự. Phật phải trên tất cả giáo đoàn. Nhờ phẩm hạnh 
        đầu đà, sau khi Phật Niết Bàn, tôn giả Ðại Ca Diếp đã 
        được giáo đoàn suy tôn lên ngôi thủ lãnh, trong cuộc kiết 
        tập kinh điển lần đầu tiên tại Kỳ Xà Quật. 
        * Ngày nay, để duy trì 
        đạo Pháp, lợi lạc mỗi người, chúng ta nhất là hàng Tăng 
        sĩ hãy noi gương tôn giả Ðại Ca Diếp, để nâng cao phẩm 
        hạnh đạo đức ở đời. Người có tư cách đạo đức 
        bao giờ cũng được kính nể. Ngược lại, không tư cách, 
        đạo đức, dù mạnh đến mức nào, cuối cùng cũng bị cuộc 
        đời, con người dẹp bỏ. 
        * * * 
        
        CÂU HỎI THẢO LUẬN 
        
          1. Quê quán, dòng họ 
          và danh hiệu Ðại Ca Diếp như thế nào? 
          2. Mục đích của hạnh 
          đầu đà là gì? 
          3. Muốn theo hạnh đầu 
          đà chúng ta cần tuân giữ những điều kiện gì? 
          4. Lai lịch xuất gia 
          của Ðại Ca Diếp như thế nào? 
          5. Khi vào thành Vương 
          Xá khất thực, Ðại Ca Diếp đã gặp ai và làm gì? 
          6. Lý do và trường hợp 
          nào Phật đã chế giới Tỳ Kheo được giữ bát dư thừa, 
          thời gian 10 ngày? 
          7. Nhờ đâu, Ðại Ca 
          Diếp được thừa kế Ðức Phật? 
          8. Diễn tiến của cuộc 
          tập kinh điển lần thứ nhất như thế nào? 
          9. Truyền thuyết khi 
          Ðại Ca Diếp Niết Bàn như thế nào? 
          10. Trên đường tu tập, 
          hành giả chỉ lo trau dồi phẩm hạnh đạo đức phải 
          chăng là một việc làm tiêu cực? 
         
        
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | 1.01 
        | 1.02 | 1.03 | 1.04 
        | 1.05 | 1.06 | 1.07 
        | 1.08 | 
        | 2.01 | 2.02 | 2.03 
        | 2.04 | 2.05 | 
        2.06 | 2.07 | 2.08 
        | 2.09 | 2.10 | 3 
        | Mục lục  |