BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font


Phật và Thánh chúng
Thích Minh Tuệ
Sài Gòn, 1990


BÀI 9

Tôn giả A NAN ÐÀ
(Ananda - Ða văn đệ nhất)

-ooOoo-

Trong hàng Thánh chúng hay 10 đại đệ tử của Phật, về tuổi tác A nan đà (Ananda) là vị trẻ nhất. Về sự thân cận với Phật, A Nan Ðà là vị luôn luôn có bên cạnh, về trí nhớ A Nan Ðà là vị nhớ lời Phật dạy dai nhất, nhiều nhất. Bởi thế Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi có kệ khen tặng A Nan Ðà rằng:

"Tướng như thu mãn nguyệt
Nhãn tợ thanh liên hoa
Phật pháp như đại hải
Lưu nhập An Nan tâm"

Tạm dịch:

"Tướng giống trăng thu đầy
Mắt giống hoa sen xanh
Phật pháp như biển rộng
Rót vào tâm A Nan"

A Nan Ðà có nhiều đặc điểm, nhưng nổi tiếng nhất là trí nhớ. Với tất cả kinh điển do Phật tuyên giảng, A Nan Ðà là vị nhớ nhiều nhất. Từ đó Phật và Thánh chúng suy tôn A NAN LÀ VỊ ÐA VĂN ÐỆ NHẤT TRONG HÀNG THÁNH CHÚNG.

I- DÒNG HỌ VÀ DANH HIỆU A NAN ÐÀ

A Nan Ðà gọi ngắn gọi là A Nan, em ruột của Ðề Bà Ðạt Ða, con thứ của Bạch Phạn Vương, tức là em con chú của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. A Nan sinh ra trong đêm Phật thành đạo dưới gốc cây Bồ Ðề, cho nên Trung Quốc dịch là "Khánh Hỷ" có nghĩa là vui mừng.

A Nan rất khôi ngô tuấn tú, thông minh, hòa nhã, vui vẻ.

Khi trở về thành Ca Tỳ La Vệ, thấy A Nan, Phật liền nảy ý sẽ khuyến hóa A Nan xuất gia. Bởi thế, khi dọn chỗ ở, Phật đến ngay cung điện của Bạch Phạn Vương, ngự tại căn phòng kế cận phòng A Nan. Mỗi buổi sáng, mở cửa nhìn qua, A Nan thấy Phật và cung kính bái chào. Ngày ngày chú bé A Nan lân la bên Phật và quạt cho Phật khi nóng nực. Thấy con mến Phật, ngại chú bé có thể chịu ảnh hưởng của Phật, Bạch Phạn vương gởi chú bé A Nan sang nước Tỳ Xá Ly. Vì nhớ nhà, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ Phật, chú bé A Nan khóc đòi về. Rồi cũng không thể xa chú bé ngây thơ, mủm mỉm duyên dáng, đẹp đẽ lại thông minh, Bạch Phạn vương lại đưa chú bé A Nan về thành Ca Tỳ La Vệ. Với luật tương duyên, việc gì đến sẽ đến, có cản ngăn cũng không được. Khi đã thấm nhuần mưa pháp, một số vương tôn công tử xin Phật đi xuất gia. Dù còn bé, tính Phật đã trổi lên, A Nan cũng xin các vương tôn được đi theo Phật. Về sau A Nan trở thành vị Ða văn đệ nhất.

II- ÐẠO NGHIỆP CỦA A NAN ÐÀ.

1. Làm thị giả Phật

Sau khi được theo Ðề Bà Ðạt Ða, A Na Luật, Ưu Ba Ly, La Hầu La... về Trúc Lâm Tịnh Xá, dù còn nhỏ tuổi, A Nan siêng năng tham dự các buổi thuyết pháp của Phật. Với tính thông minh sẵn có, A Nan nhớ hết những lời Phật nói. Vì thế ngược hẳn với Châu Lỵ Bàn Ðà Già, học một câu kệ 3 tháng mà không thuộc, A Nan nghe một biết mười. Châu Lỵ Bàn Ðà Già chỉ hơn A Nan ở chỗ chứng thánh ngay khi Phật còn tại thế. A Nan phải đến sau Phật Niết Bàn 3 tháng mới chứng quả A La Hán, trước ngày khai mạc đại hội kiết tập kinh điển một hôm.

Dù A Nan thông minh có thể nối thạnh Phật pháp theo sự nhận xét của Phật, khi về Ca Tỳ La Vệ, nhưng tuổi còn nhỏ cần có thời gian tập sự, mãi đến 20 năm sau, A Nan mới được Tăng đoàn đề nghị làm thị giả hầu cận Phật. Từ sau khi Phật thành đạo đến lúc A Nan được đề cử làm thị giả, Phật không có một thị giả nào nhất định: Thân cận Phật lúc đầu, có Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, tiếp đến có Tỳ Kheo Na Ca Ba La, rồi nhiều Tỳ Kheo khác thay nhau hầu Phật.

Năm Phật 50 tuổi, Tăng đoàn thấy Phật cần có một thị giả thường trực bên cạnh, để giúp đỡ Phật mọi sự cần thiết. Vì thế, Tăng đoàn mở một đại hội để chọn thị giả. Trong đại hội có nhiều tỳ kheo xung phong, nhưng Phật đều không thuận. Theo Phật, nhiều vị tuổi đã cao hơn Phật, cần có thời giờ để đi bố giáo. Lúc đó, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên biết Phật cần chọn vị trẻ hơn, lại thông minh, lanh lẹ, nhu hòa... Mục Kiền Liên thấy trong số đệ tử không ai hơn ngài A Nan. Bởi thế, Mục Kiền Liên liền đến khuyên A Nan rằng:

- Này A Nan! Ý Ðức Thế Tôn muốn ông làm thị giả. Ông hội đủ nhiều yếu tố, đặc biệt là dựa vào trí nhớ, về sau ông có thể thay thế Ðức Phật tuyên dương diệu pháp, ông giống như một tòa lâu đài to lớn, mở cửa sổ phía đông là có thể giúp cho ánh sáng rót thẳng vào vách phía Tây.

Nghe nói, thấy trách nhiệm lớn lao quá, sợ không kham, A Nan từ chối, nhưng Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên khuyên mãi, cuối cùng A Nan nhận. Nhưng e ngại sự tị hiềm có thể xảy ra, A Nan yêu cầu Mục Kiền Liên trình lên Ðức Phật 5 thỉnh nguyện.

1) Không mặc áo Phật cho dù cũ hay mới.

2) Không đi trước, khi có Phật tử thỉnh Phật về nhà cúng dường.

3) Ðược ra ngoài hay đi chỗ khác, khi Phật tiếp tín chúng đến hỏi đạo, nếu sự hiện diện của thị giả không cần thiết.

4) Không ăn thức ăn thừa của Ðức Phật.

5) Ðược tùy tiện sắp xếp hoặc cho hay không cho mỗi khi có khách muốn đến yết kiến Phật.

Với 5 thỉnh nguyện được trình lên, Phật chấp thuận ngay. Vì không những thấu hiểu tâm tư A Nan, Phật còn khen ngợi A Nan là người thông minh, nhớ nhiều, tế nhị, thuần hậu, vui vẻ...

2. Giúp cho nữ giới xuất gia

Nhờ đẹp trai, tính lại cởi mở, vui vẻ, ưu ái đối với phụ nữ, A Nan được tất cả các nữ giới kính chuộng.

Khi vua Tịnh Phạn băng hà, Phật về thành Ca Tỳ La Vệ lo việc lễ táng và sau khi đã đề cử Ma Ha Nam lên làm vua, Ðức Phật rút ra ngoài thành Ca Tỳ La Vệ, tạm trú tại rừng Ni Câu Ðà.

Thấy nhà vua đã mãn phần, việc triều chính cũng đã có người lo, Bà Ma Ha Xà Ba Ðề rất bằng lòng qua sự sắp xếp của Phật. Một hôm, bà dẫn 500 thế nữ thuộc dòng họ Thích đến rừng Ni Câu Ðà bái yết Phật, xin được xuất gia và dâng Phật 2 tấm y do tự tay bà cắt may. Về việc xuất gia, Phật không chấp thuận, dù bà nhiều lần khẩn khoản cầu xin. Theo Phật, nữ giới nặng về tình cảm, nhẹ ý chí, có thể gây phiền hà, rắc rối cho giáo đoàn. Bởi thế, giáo đoàn có sự tham dự của phụ nữ, chánh pháp sẽ giảm mất 500 năm. Còn 2 y Phật tán thán bà và khuyên nên đem cúng dường chư Tăng được nhiều phước hơn. Ðã buồn vì bị từ chối không cho xuất gia lại bị khước từ không nhận y, bà tỏ thái độ không hài lòng. Ðể làm cho di mẫu vui lòng, với tư cách là một vị Tăng trong giáo đoàn, Phật nhận 1 tấm y. Tấm còn lại, Phật bảo bà đem cúng dường cho vị Tăng khác.

Sau khi thấy nước Ca Tỳ La Vệ ổn định về mọi mặt, Phật và Tăng đoàn rời Ni Câu Ðà, đi du hóa vùng lưu vực sông Hằng. Riêng bà, Ma Ha Ba Xà Ba Ðề, tuy bị Phật từ chối việc xuất gia, nhưng quyết không bỏ ý hướng. Một hôm, bà nảy ra sáng kiến táo bạo là phải đặt Phật trước sự đã rồi và cũng để chứng tỏ tâm sắt đá của mình, bà cùng 500 thể nữ xuống tóc, mặc cà sa, và kéo đến Tịnh Xá Na Ma Ðề Kiền Ni, nơi Phật đang giáo hóa để bái yết khẩn cầu. Vì từ Ca Tỳ La Vệ đến đây xa cả 2.000 dặm lại gặp trời mưa, bà vừa đến cổng Tịnh Xá đã mệt lã và trời cũng đã tối. do đó, bà đành dừng chân ở cổng Tịnh Xá đợi sáng mai sẽ vào thỉnh Phật cho xuất gia với quyết tâm nếu không được thì cũng chết ở đây chứ không trở về Ca Tỳ La Vệ. Lúc sáng sớm, vì có việc cần phải ra ngoài Tịnh Xá, A Nan bất chợt gặp bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề và 500 thế nữ dòng họ Thích, đầu cạo nhẵn thín và mình khoác áo cà sa. Dịp may hiếm có bà núi A Nan lại và khẩn khoản yêu cầu xin Phật giúp. Sẵn có hảo tâm với phái nữ, lại là chỗ thân thuộc, A Nan vào trình Phật. Ðể đáp lại nhiệt tình và ý chí sắt đá cao độ của di mẫu Phật chấp thuận lời thỉnh cầu của A Nan, nhưng buộc di mẫu phải giữ thêm một số giới pháp và triệt để tuân hành 8 kính pháp (xem phần ghi chú ơ cuối bài). Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề hoan hỷ chấp thuận và được Phật cho thọ ni giới cụ túc. Trên nét mặt A Nan hiện rõ nổi vui mừng, vì đã giúp cho nữ giới được xuất gia, về sau, Ni giới rất nhớ ơn A Nan. Một hôm, tháp tùng Ma Ha Ca Diếp đi khất thực ngang qua một ni viện, A Nan được các Tỳ Kheo ni ùa ra đón rước. Mặc dầu Ma Ha Ca Diếp là vị trưởng lão, đứng đầu trong hàng Tăng đoàn, các tỳ kheo ni vẫn vây quanh A Nan hỏi đạo. Sau mới bái yết Ma Ha Ca Diếp.

3. Thoát nạn Ma Ðăng Già

Với thân hình trẻ đẹp, A Nan rất được các cô gái trẻ mê say.

Một hôm, sau mùa an cư, A Nan mang bát, một mình đi vào thôn xóm khất thực. Nhân trời nóng nực, khát nước, A Nan đến bên 1 cái giếng xin nước uống. Vì ham cúi xuống giếng kéo nước, không thấy A Nan. Khi đứng thẳng người, cô gái trực nhận thấy A Nan, 1 Tỳ Kheo thuộc dòng Sát Ðế Lợi. Không kịp chạy trốn, vô gái tự xưng tên họ, dòng dõi và cuống quít xin lỗi A Nan. Cô gái tự khai thuộc dòng nô lệ tên là Bát Cát Ðế (Praksti hay Pakati), dòng họ Ma Ðăng Già (Matanga). Do đó, cô không thể tiếp xúc và dâng nước cho A Nan được. A Nan bảo là tôi xin nước chứ đâu có xin giai cấp và hơn nữa giáo pháp của Phật giảng dạy cho con người nên có tâm bình đẳng với mọi giai tầng trong xã hội.

Sau khi gánh nước về nhà, cô gái tương tư A Nan, bỏ ăn, bỏ ngủ, cơ thể xác xơ. Cha mẹ cô vặn hỏi mãi mới biết được sự tình. Vì thương con, muốn con khỏi bấn loạn tâm thần, bà mẹ cô gái xin bùa chú để bắt A Nan làm chồng con gái mình.

Một hôm khác, A Nan một mình đi vào thôn xóm của cô gái khất thực, cứ thứ tự khất thực. A Nan dừng bước trước nhà cô gái. Thấy bóng dáng A Nan cô gái mừng quýnh vội vàng chạy ra chào hỏi đủ điều và quỳ dâng A Nan bát nước. Lúc đó, A Nan lạc vào mê hồn trận, lảo đảo đi theo cô gái vào nhà. Cha mẹ anh em cô gái đều đi vắng, cô gái nghĩ là mình sẽ tự do ân ái với thầy Tỳ Kheo trẻ đẹp và thầy sẽ bỏ áo cà sa làm chồng mình. MAy mắn thay, khi vào trong phòng kín, A Nan từ từ tỉnh trí, vì thuốc mê cũng từ từ theo thời gian mà hết hiệu nghiệm. Dù đã tỉnh, A Nan thấy mình mắc nạn và khó thoát vì cổng ngoài và cửa phòng đều đã đóng chặt. Liền khi đó, A Nan tưởng đến Phật và mong Phật đến giải vây trừ nạn. Nhờ có thần giao cách cảm, tại Tịnh xá, Phật quán chiếu biết A Nan mắc nạn đàn bà. Phật liền đem thần chú Lăng Nghiêm bảo Xá Lợi Phất mang đến trì tụng trước nhà Ma Ðăng Già. Nhờ nhất tâm niệm chú của Xá Lợi Phất và toàn thể Tăng đoàn, cô gái Ma Ðăng Già buông tha A Nan và xin theo Xá Lợi Phất về Tịnh xá cầu Phật cho xuất gia.

Qua tai nạn xảy ra suýt mất phẩm hạnh, A Nan hết dám đi khất thực một mình. Biết A Nan trẻ đẹp rất dễ bị lạc vào mê hồn trận của phụ nữ, Phật buộc A Nan không được rời Phật bất cứ lúc nào. Nhờ sát cánh với Phật, A Nan thuộc lòng tất cả kinh giáo do Phật nói.

4. Ác mộng

Thấy Phật, ngày càng già, lòng A Nan vô cùng lo lắng, vì nếu Phật Niết Bàn, biết dựa vào đâu để tu đạo và chứng thánh. Trong một đêm nằm mộng thấy 7 điều kỳ quái, A Nan cảm thấy lo sợ hoang mang. Sáng sớm thức dậy, đến trình bày sự việc với Ðức Phật và xin ý kiến của Ðức Phật, 7 điều mộng là:

1) Khắp nơi, các ao ngòi sông hồ, biển cả đều bị lửa dữ rực cháy, khô cạn tất cả.

2) Mặt trời rơi rụng, thế giới tối đen, không có một ánh sao, đầu con vượn lao lên 9 tầng mây.

3) Các Tỳ Kheo không tuân giữ giới luật, treo áo cà sa.

4) Trong cảnh chông gai lao lý, Tỳ Kheo khốn khổ, pháp y tơi bời.

5) Cây chiên đàn, to lớn xanh tươi, vì các đàn heo rừng đến bới gốc, trốc rễ.

6) Không nghe lời voi mẹ, voi con tung chạy khắp nơi, lạc vào chốn đồng khô cỏ cháy, chết đói, chết khát, ngổn ngang.

7) Sư tử chết, các loài điểu thú côn trùng không dám đến gần, dòi từ trong ruột sư tử bò ra lúc nhúc, rúc tỉa thịt xương sư tử.

Khi nghe kể, biết đó là điều chẳng lành. Phật giải thích:

- Này A Nan! Ðã là mộng nên làm gì có thực, tất cả đều do thức biến, chắc lòng ông có gì khắc khoải lo âu! Tuy nhiên giữa cái có và cái không vốn không tách biệt. Bởi thế, giấc mộng của ông có thể là điều báo trước giáo pháp của ta trong tương lai.

- Này A Nan! Với điềm thứ nhất: lửa cháy thiêu đốt, sông biển khô cạn, biểu hiện tương lai các vị Tỳ Kheo được hưởng đầy đủ mọi sự cúng dường, nhưng lại không giữ theo giáo pháp thanh tịnh, khởi xướng nhiều việc đấu tranh gây gỗ.

Ðiềm thứ hai: Sau khi ta Niết Bàn, giống như trời đất mù tối, để chánh pháp không bị lu mờ, Tăng đoàn sẽ yêu cầu ông tuyên dương chánh pháp.

Ðiềm thứ ba: Trong tương lai có hạng Tỳ Kheo chỉ chuyên nói lý thuyết suông không lo tu hành.

Ðiềm thứ tư: Trong lương lai có Tỳ Kheo không lo tu giới định tuệ, xuôi theo thế tục, hưởng lạc, có vợ con đùm đề.

Ðiềm thứ năm: Trong tương lai chỉ có hạng Tỳ Kheo chuyên buôn Phật, bán Thánh, đem chánh pháp làm phương tiện đổi chác, mong cầu lợi dưỡng.

Ðiềm thứ sáu: Trong tương lai có hạng Tỳ Kheo trẻ tuổi không chịu học tập theo lời dạy dỗ của sư trưởng, không tin theo nhân quả tội phước, chết đọa vào địa ngục.

Ðiềm thứ bảy: Trong tương lai, chính đệ tử Phật lại phá hoại giáo pháp của Phật, chứ không phải ngoại đạo đủ sức phá nổi chính pháp.

Trong 7 điều mộng, ngay sau khi Phật Niết Bàn 3 tháng, điềm thứ 2 đã xảy ra tại núi Kỳ Xà Quật, A Nan được đại hội kiết tập, yêu cầu thay Phật tuyên đọc lời Phật dạy để tuyên dương diệu pháp.

5. Yêu cầu Phật Di giáo

Tại rừng Ta La Song thọ, thành Câu Thi Na, khi Phật sắp Niết Bàn, người khóc than thê thảm nhất là A Nan, Phật khuyên A Nan không nên khóc, vì hễ ở đời có sinh là có diệt. Con người có hợp thì có ly. Ðó là một định luật không ai có thể cưỡng lại được. Phật tuy đã giác ngộ và giải thoát nhưng dư báo vẫn còn cho nên phải xả để vào vô dư Niết Bàn. Tất cả giáo pháp, tư lợi, lợi tha, Phật đã tuyên giảng đầy đủ. Con đường tiến đến chân trời giác ngộ, giải thoát, Phật đã chỉ rõ. Do đó, Phật còn ở lại thế gian cũng bằng thừa. Hơn nữa, có Phật, mọi người sẽ ỷ lại, không chịu khắc phục thân tâm, tiến tu đạo nghiệp. Trước giờ phút Niết Bàn, Phật hỏi đại chúng còn gì nghi ngờ hãy nêu rõ vấn đề.

Ðối trước Ðức Phật, A Nan thưa thỉnh:

- Bạch Thế Tôn! Con có 4 thắc mắc, xin Thế Tôn chỉ giáo: Thứ nhất: Sau khi Thế tôn Niết Bàn chúng con nhận ai làm thầy?

Thứ hai: Sau khi Thế Tôn Niết Bàn, chúng con an trụ vào đâu?

Thứ ba: Sau khi Thế tôn Niết Bàn, làm sao hàng phục kẻ dữ?

Thứ tư: Sau khi kiết tập kinh điển, nên để lời gì đầu mỗi kinh?

Ðức Phật từ tốn trả lời:

- Thứ nhất: hãy lấy Ba La Ðề mộc xoa (giới) làm thầy.

- Thứ hai: Hãy an trú vào tứ niệm xứ (thân không tịnh, thọ là khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã).

- Thứ ba: Hãy dùng phép "mặc tẩn" (làm lơ, không giao thiệp, luận bàn) để điều phục kẻ dữ.

- Thứ tư: Ðầu mỗi câu kinh ghi bằng câu: "Như thị ngã văn" (Tôi nghe như vầy) mà kiết tập kinh điển.

Trả lời xong, Phật khuyên tiếp: A Nan và đại chúng hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. Ta và giáo pháp chỉ là phương tiện chỉ đường, còn đến đích hay không mọi người tự cất bước. Tỳ kheo nào thật tình thương nhớ ta hãy áp dụng đức từ bi vào thân, khẩu, ý, đó là cách nhớ tưởng ta một cách chân chính nhất.

6. Tham dự Kiết tập Kinh

Sau khi trà tỳ và phân chia Xá Lợi của Phật suốt 3 tháng Tăng đoàn tổ chức Ðại hội kiết tập kinh điển tại núi Kỳ Xà Quật. A Nan được Ðại hội đề cử tụng lại, tất cả các kinh do Phật đã nói. Tuy nhiên Ðại hội buộc A Nan sám hối 6 sai lầm đã vấp phải khi Phật còn tại thế, và hãy ra ngoài dốc lòng tu tập lúc nào chứng thánh mới trở vào tham dự đại hội.

Sáu tội Ðột Cát La mà A Nan phải sám hối là:

1 - Do A Nan thỉnh cầu Phật nhận nữ giới vào giáo hội.

2 - Mượn cớ nước không sạch, A Nan không cung cấp nước cho Phật uống, lúc ở gần thành Duy Ra Yết.

3 - Ðã biết Ðức Phật có đại thần lực, có thể khiến nước đục trở thành trong, A Nan vẫn không lấy nước dâng Phật.

4 - Phật nhắc 3 lần về điều người khác tu học được 4 thần túc, có thể kéo dài thêm mạng sống, A Nan im lặng chẳng thưa thỉnh, Phật mới Niết Bàn.

5 - Là thị giả cần cẩn thận, A Nan đã dẫm chân lên y Tăng già lê của Phật.

6 - Sau khi Phật Niết Bàn, A Nan cho nữ giới xem âm tàng tướng của đức Phật.

Với tâm hoan hỷ nhu thuận sẵn có, trước đị chúng, A Nan nhận đã có sai trái, đúng như 6 điều mà đại hội đã trình bày và thành khẩn sám hối. Còn vấn đề chưa chứng thánh quả A Nan ra ngoài động, tìm nơi vắng vẻ ngồi kiết già, nỗ lực tu tập, giữ tư tưởng trầm mặc, buông dứt hết vô minh vọng tưởng. Sau một ngày, vào nửa đêm, A Nan chứng quả A La Hán. Khi trời vừa sáng, A Nan trở lại vào động, đúng lúc Ðại hội bắt đầu khai mạc. Như trách nhiệm đã phân, trước đại hội, A Nan đứng lên, tụng đọc có 4 bộ A Hàm là: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm và Tăng nhất a Hàm. Ngoài ra còn có một số kinh khách như: Kinh Thí dụ, Kinh Bổn sinh, Kinh Pháp cú.

Trong cuộc kiết tập kinh điển lần thứ nhất A Nan đã thực hiện trọn vẹn di chúc của Phật là: Ðại Phật tuyên dương chánh pháp.

III- A NAN NIẾT BÀN

Sau Phật Niết Bàn, Ðại Ca Diếp thống lãnh giáo đoàn cho đến lúc hơn 100 tuổi thì vào Niết Bàn, người thừa kế là tôn giả A Nan, vị tổ thứ 2 theo Bắc Tông Phật giáo.

Ðến khoảng 120 tuổi, tự thấy cơ thể đã già yếu, A Nan quyết định nhập Niết Bàn. Sau khi suy nghĩ và trước khi thực hiện ý định, A Nan đem lại chánh pháp và giáo đoàn giao lại cho Thương Na Hòa Tu lãnh đạo. Chánh pháp đã có người tiếp nhận kế thừa, tôn giả A Nan lại phân vân, không biết nên Niết bàn ở Ma Kiệt Ðà hay Tỳ Xá Ly. Ðức Phật truyền dạy giáo pháp bình đẳng cho nên phải loại trừ tâm thiên vị, gây oán thù, tranh chấp. Hơn nữa lúc bấy giờ hai nước đang giao chiến đối đầu nhau. Cuối cùng, để hai nước khỏi so bì, tôn giả chọn sông Hằng làm nơi Niết Bàn. Vì con sông là biên giới của hai nước.

Nghe tin tôn giả A Nan sắp Niết Bàn ở sông Hằng, Vua A Xà Thế, tức tốc đến mé sông thì A Nan đã lên thuyền ra giữa sông. Vua đưa loa mời A Nan trở lại. Bên kia bờ, dân chúng Tỳ Xá Ly cũng đến bờ sông xướng lời thỉnh cầu qua Tỳ Xá Ly vào Niết Bàn.

Ra đến giữa sông tôn giả nói lớn:

- Vì hai nước bất hòa, hai bên còn oán hận nhau ta không biết nên Niết bàn ở nước nào cho hợp lẽ. Do đó, ta xét thấy ra giữa sông nhập diệt là giải pháp công bằng nhất. Ta cầu mong hai nước chấm dứt chinh chiến, lập lại hòa bình thân hữu.

Phát biểu quan điểm xong. Tôn giả A Nan nhập định tam muội và Niết Bàn. Xá Lợi của tôn giả được chia cho hai nước xây tháp tôn thờ. Một tháp xây ở giảng đường Ðại Long phía Bắc Tỳ Xá Ly. Một tháp được xây cạnh Tịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá nước Ma Kiệt Ðà.

Nhờ cách nhập diệt và lời kêu gọi của Tôn giả A Nan, hai nước hòa giải được hận thù, chấm dứt chinh chiến, sống trong hòa bình hợp tác. Sự nhập Niết bàn của Tôn giả đã giúp cho tài sản khỏi thiệt hại, sinh mạng của nhân dân được cứu vãn. Vì thế nhân dân hai nước vô cùng nhớ ơn Tôn giả.

IV. NHẬN THỨC VÀ KẾT LUẬN

Qua cuộc đời và đạo nghiệp của Tôn giả A Nan, có một vài vấn đề cho chúng ta cần đề cập đến.

* Trước hết là Tôn giả đã giúp cho phái nữ xuất gia, vấn đề mà nhiều lần chính Ðức Phật đã khước từ. Dù Ðức Phật chủ trương bình đẳng, nhưng trong thực tế nam nữ chung đụng hay nảy sinh nhiều chuyện phức tạp, làm tổn hại đến thanh danh của Tăng đoàn, khiến sự trường tồn của chánh pháp cũng bị suy giảm (500 năm). Ðó là lý do Phật không nhận phái nữ xuất gia. Không phải A Nan không rõ lý do, nhưng với bản tính dịu hiền, hay ưu ái phái nữ, A Nan đã mạnh dạn xin Phật cho bà Ma Na Ha Ba Xà Ba Ðề và 500 thể nữ xuất gia. Từ đó, chúng ta thấy A Nan được Phật tín nhiệm như thế nào.

Chính cũng vì lý do xin cho phái nữ xuất gia trong kỳ kiết tập kinh điển lần thứ nhất, A Nan đã bị Ðại hội kết tội và buộc A Nan phải sám hối. Dù bị buộc tội làm cho thời kỳ chính pháp bị suy giảm, nhưng A Nan đã góp phần cho giáo đoàn của Phật được có trọn vẹn, tinh thần bình đẳng. Noi gương A Nan, chúng ta hãy áp dụng vào cuộc sống tinh thần bình đẳng của Phật.

* Thứ đến là vấn đề bùa chú, trên đường đi khất thực một mình, A Nan đã bị Ma Ðăng Già bỏ bùa suýt mất giới hạnh. A Nan lại cũng nhờ thần chú Lăng Nghiêm mà thoát nạn. Người ta thường cho bùa là thứ phù phép siêu hình. Riêng chúng tôi thấy vấn đề đó chẳng có bùa phép siêu hình gì hết. Chẳng qua người ta rút từ động vật hay thực vật ra một số hóa chất nào đó có tác dụng làm mê mẫn con người mà thôi. Khi hóa chất tan hết, con người trở lại bình thường, còn chữ và hình vẽ chỉ là một thứ trang trí, mà mắt thiên hạ. Cụ thể như tỏi, nén là chất làm cho rắn bị mê. Sả có mùi làm cho rắn sợ không dám đến gần. Dầu mè, đậu phộng có tác dụng đẩy tử khí ra ngoài. Ngược lại dầu thơm làm xúc tác cho tử khí tăng mùi, thuốc Imenocotan làm cho người hôn mê...

Còn thần chú, muốn có hiệu quả, người trì chú phải có nhiều dụng công, tỉnh, tâm, định lực, thông thường gọi là phải tu luyện, cùng một bài chú có người đọc linh nghiệm, có người đọc không linh nghiệm là do có công phu tu luyện hay không. Thần chú là một phương tiện khi chú tâm trì tụng, giúp cho định lực cao cường, cõi lòng vắng lặng chi phối được tâm tư người khác. Thôi miên hoặc thần giao cách cảm cũng thuộc dạng này, nhưng thấp hơn tu luyện bằng thần chú. Sự thực chỉ có thế, chứ chẳng có gì siêu hình hết.

A Nan vì chưa chứng thánh nên phải bị bùa của Ma Ðăng Già mê hoặc. Xá Lợi Phất đã chứng A La Hán - Thánh - Ðịnh lực cao nên khi đọc chú Lăng Nghiêm đã chuyển được tâm tánh Ma Ðăng Già.

* Một vấn đề khác là giấc mộng của A Nan trở thành biểu hiện trong thực tại. Mộng có thể thực, có thể không thực. Chẳng hạn, ban ngày chúng ta tiếp xúc với vấn đề gây khủng hoảng tâm lý, đêm có ác mộng, đó là mộng không thực. Khi nằm ngủ vì một động tác nào đó làm động mạch tắc ngẳn, mộng sinh ra, đó là mộng không thực. Còn ngày hoặc đêm chúng ta quan tâm đến một vấn đề nào đó, trong giấc ngủ, từ tiềm thức trồi lên các hình ảnh mộng. Những điềm đó có thể thành hiện thực. Khi có điều kiện, Phật gọi là nhân duyên. Lúc đó người kể cho chúng ta nghe một giấc mộng và hỏi hậu quả của giấc mộng, muốn đoán trúng, trước hết chúng ta phải hỏi dò người có giấc mộng, rồi phải có trình độ suy lý cao, trực giác mạnh, chúng ta mới có thể phê phán nhận định giấc mộng, gọi là đoán mộng. Chúng tôi quan niệm mộng là một hiện tượng tâm lý chứ không phải là điều kỳ lạ hay thần kỳ như ông bà của chúng ta tưởng tượng hồi xưa. A Nan có 7 điều mộng là do A Nan đã có sẵn tư duy về vấn đề tuổi già của Phật và sau khi Phật Niết Bàn có những gì sẽ xảy ra. Từ tư duy đó, tiềm thức làm việc và cho hình ảnh kết quả. Còn Ðức Phật dựa vào 7 điều mộng để luận đoán. Hầu như từ sau Phật Niết Bàn đến nay, những điều Ðức Phật dựa vào mộng để dự đoán đều đúng. Vì Phật là bậc giác ngộ, có trí tuệ ưu việt, siêu đẳng cho nên tìm được hệ luận của mộng.

* Với 3 vấn đề qua tư duy và trình bày của chúng tôi ở trên chỉ là ý kiến gợi ý cá nhân, chưa hẳn là tuyệt đúng. Do đó, vấn đề cần có thời gian để tư duy và thực nghiệm thêm, mới có thể xác thực hơn.

* Sau cùng, với thời hiện đại, với giáo pháp của Phật, chúng ta đa phần thiên về nghiên cứu, lý thuyết... nhiều hơn là thực nghiệm tu chứng. Bởi thế chúng ta cần noi gương tôn giả A Nan trong vấn đề tuyên dương chánh pháp để tự lợi và giúp ích cho mọi người nhiều hơn. Lấy chính pháp trang nghiêm bản thân, trang nghiêm giáo hội cũng chính là để góp phần trang nghiêm xây dựng quốc độ, an bình, phúc lạc.

* * *

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Dòng họ và danh hiệu A Nan như thế nào?

2. Tại sao Phật chọn A Nan làm thị giả?

3. A Nan giúp cho nữ giới xuất gia với tinh thần gì? Kết quả như thế nào?

4. Diễn tiến A Nan mắc nạn Ma Ðăng Già như thế nào?

5. A Nan mộng thấy gì?

6. Phật suy đoán giấc mộng của A Nan sẽ biểu hiện những gì?

7. Khi Phật sắp Niết Bàn, A Nan thỉnh cầu Phật những gì?

8. A Nan tham dự Ðại hội kiết tập kinh điển như thế nào?

9. Nhờ đây Tỳ Xá Ly và Ma Kiệt Ðà đã chấm dứt giao chiến sống hòa bình?

10. Hãy cho biết quan điểm về bùa chú và điềm mộng.

Ghi chú: Tám Kính pháp.

1. Tỳ Kheo ni phải y chỉ chúng Tỳ Kheo mà cầu thọ cụ túc giới.

2. Tỳ Kheo ni, mỗi nửa tháng phải đến trụ xứ Tỳ Kheo làm lễ thỉnh thầy giáo thọ.

3. Tỳ Kheo ni mỗi năm một lần đến kỳ kiết hạ an cư. Nhưng nếu trong vùng không có chúng Tỳ Kheo thì tuyệt đối không được phép tự lập kiết hạ riêng.

4. Tỳ Kheo ni không được cử tội hay nói lỗi lầm của tỳ kheo. Ngược lại, Tỳ Kheo có quyền nói lỗi của Tỳ Kheo ni.

5. Tỳ Kheo ni nếu phạm lỗi Tăng tàn phải tự mình xin sám hối trước hai bộ chúng Tỳ Kheo và Tỳ Kheo ni, trong kỳ bồ tát hằng tháng gần nhất.

6. Tỳ Kheo ni dù đã thọ giới cụ túc lâu 100 năm, nhưng với Tỳ Kheo mới thọ giới vẫn phải đảnh lễ cung kính, vái chào.

7. Tỳ Kheo ni sau mùa an cư phái đứng trước Tỳ Kheo xin chỉ những việc bất xứng, ý, qua mắt thấy, tai nghe hoặc nghi ngờ.

8. Tỳ Kheo ni có điều gì cần hỏi Tỳ Kheo mà nếu vì một cớ nào đó Tỳ Kheo không đáp, không được gạn hỏi.

-ooOoo-

Ðầu trang | 1.01 | 1.02 | 1.03 | 1.04 | 1.05 | 1.06 | 1.07 | 1.08 |
| 2.01 | 2.02 | 2.03 | 2.04 | 2.05 | 2.06 | 2.07 | 2.08 | 2.09 | 2.10 | 3 | Mục lục

Chân thành cám ơn Đại đức Giác Đồng đã gửi tặng phiên bản điện tử (Bình Anson, 07-2001)


[Trở về trang Thư Mục]