| 
         BÀI 9 
        Tôn giả 
        A NAN ÐÀ 
        (Ananda - Ða văn đệ nhất)
        -ooOoo- 
        
        T rong 
        hàng Thánh chúng hay 10 đại đệ tử của Phật, về tuổi tác 
        A nan đà (Ananda) là vị trẻ nhất. Về sự thân cận với 
        Phật, A Nan Ðà là vị luôn luôn có bên cạnh, về trí nhớ 
        A Nan Ðà là vị nhớ lời Phật dạy dai nhất, nhiều nhất. 
        Bởi thế Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi có kệ khen tặng A Nan 
        Ðà rằng:
        
          "Tướng như thu mãn 
          nguyệt 
          Nhãn tợ thanh liên hoa 
          Phật pháp như đại hải 
          Lưu nhập An Nan tâm" 
         
        Tạm dịch: 
        
          "Tướng giống 
          trăng thu đầy 
          Mắt giống hoa sen xanh 
          Phật pháp như biển rộng 
          Rót vào tâm A Nan" 
         
        A Nan Ðà có nhiều đặc 
        điểm, nhưng nổi tiếng nhất là trí nhớ. Với tất cả 
        kinh điển do Phật tuyên giảng, A Nan Ðà là vị nhớ nhiều 
        nhất. Từ đó Phật và Thánh chúng suy tôn A NAN LÀ VỊ ÐA VĂN 
        ÐỆ NHẤT TRONG HÀNG THÁNH CHÚNG. 
        I- DÒNG 
        HỌ VÀ DANH HIỆU A NAN ÐÀ 
        A Nan Ðà gọi ngắn gọi 
        là A Nan, em ruột của Ðề Bà Ðạt Ða, con thứ của Bạch 
        Phạn Vương, tức là em con chú của Ðức Phật Thích Ca Mâu 
        Ni. A Nan sinh ra trong đêm Phật thành đạo dưới gốc cây Bồ 
        Ðề, cho nên Trung Quốc dịch là "Khánh Hỷ" có nghĩa 
        là vui mừng. 
        A Nan rất khôi ngô tuấn 
        tú, thông minh, hòa nhã, vui vẻ. 
        Khi trở về thành Ca Tỳ 
        La Vệ, thấy A Nan, Phật liền nảy ý sẽ khuyến hóa A Nan 
        xuất gia. Bởi thế, khi dọn chỗ ở, Phật đến ngay cung 
        điện của Bạch Phạn Vương, ngự tại căn phòng kế cận 
        phòng A Nan. Mỗi buổi sáng, mở cửa nhìn qua, A Nan thấy Phật 
        và cung kính bái chào. Ngày ngày chú bé A Nan lân la bên Phật 
        và quạt cho Phật khi nóng nực. Thấy con mến Phật, ngại 
        chú bé có thể chịu ảnh hưởng của Phật, Bạch Phạn 
        vương gởi chú bé A Nan sang nước Tỳ Xá Ly. Vì nhớ nhà, 
        nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ Phật, chú bé A Nan khóc đòi về. Rồi 
        cũng không thể xa chú bé ngây thơ, mủm mỉm duyên dáng, đẹp 
        đẽ lại thông minh, Bạch Phạn vương lại đưa chú bé A 
        Nan về thành Ca Tỳ La Vệ. Với luật tương duyên, việc gì 
        đến sẽ đến, có cản ngăn cũng không được. Khi đã thấm 
        nhuần mưa pháp, một số vương tôn công tử xin Phật đi xuất 
        gia. Dù còn bé, tính Phật đã trổi lên, A Nan cũng xin các vương 
        tôn được đi theo Phật. Về sau A Nan trở thành vị Ða văn 
        đệ nhất. 
        II- ÐẠO 
        NGHIỆP CỦA A NAN ÐÀ. 
        
        1. Làm thị giả Phật 
        
        Sau khi được theo Ðề 
        Bà Ðạt Ða, A Na Luật, Ưu Ba Ly, La Hầu La... về Trúc Lâm Tịnh 
        Xá, dù còn nhỏ tuổi, A Nan siêng năng tham dự các buổi 
        thuyết pháp của Phật. Với tính thông minh sẵn có, A Nan nhớ 
        hết những lời Phật nói. Vì thế ngược hẳn với Châu Lỵ 
        Bàn Ðà Già, học một câu kệ 3 tháng mà không thuộc, A Nan 
        nghe một biết mười. Châu Lỵ Bàn Ðà Già chỉ hơn A Nan 
        ở chỗ chứng thánh ngay khi Phật còn tại thế. A Nan phải 
        đến sau Phật Niết Bàn 3 tháng mới chứng quả A La Hán, trước 
        ngày khai mạc đại hội kiết tập kinh điển một hôm. 
        Dù A Nan thông minh có 
        thể nối thạnh Phật pháp theo sự nhận xét của Phật, khi 
        về Ca Tỳ La Vệ, nhưng tuổi còn nhỏ cần có thời gian tập 
        sự, mãi đến 20 năm sau, A Nan mới được Tăng đoàn đề 
        nghị làm thị giả hầu cận Phật. Từ sau khi Phật thành 
        đạo đến lúc A Nan được đề cử làm thị giả, Phật 
        không có một thị giả nào nhất định: Thân cận Phật 
        lúc đầu, có Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, tiếp đến 
        có Tỳ Kheo Na Ca Ba La, rồi nhiều Tỳ Kheo khác thay nhau hầu 
        Phật. 
        Năm Phật 50 tuổi, 
        Tăng đoàn thấy Phật cần có một thị giả thường trực 
        bên cạnh, để giúp đỡ Phật mọi sự cần thiết. Vì thế, 
        Tăng đoàn mở một đại hội để chọn thị giả. Trong đại 
        hội có nhiều tỳ kheo xung phong, nhưng Phật đều không thuận. 
        Theo Phật, nhiều vị tuổi đã cao hơn Phật, cần có thời 
        giờ để đi bố giáo. Lúc đó, Xá Lợi Phất và Mục Kiền 
        Liên biết Phật cần chọn vị trẻ hơn, lại thông minh, 
        lanh lẹ, nhu hòa... Mục Kiền Liên thấy trong số đệ tử 
        không ai hơn ngài A Nan. Bởi thế, Mục Kiền Liên liền đến 
        khuyên A Nan rằng: 
        - Này A Nan! Ý Ðức Thế 
        Tôn muốn ông làm thị giả. Ông hội đủ nhiều yếu tố, 
        đặc biệt là dựa vào trí nhớ, về sau ông có thể thay thế 
        Ðức Phật tuyên dương diệu pháp, ông giống như một tòa 
        lâu đài to lớn, mở cửa sổ phía đông là có thể giúp 
        cho ánh sáng rót thẳng vào vách phía Tây. 
        Nghe nói, thấy trách 
        nhiệm lớn lao quá, sợ không kham, A Nan từ chối, nhưng Xá 
        Lợi Phất và Mục Kiền Liên khuyên mãi, cuối cùng A Nan nhận. 
        Nhưng e ngại sự tị hiềm có thể xảy ra, A Nan yêu cầu Mục 
        Kiền Liên trình lên Ðức Phật 5 thỉnh nguyện. 
        
          1) Không mặc áo Phật 
          cho dù cũ hay mới. 
          2) Không đi trước, 
          khi có Phật tử thỉnh Phật về nhà cúng dường. 
          3) Ðược ra ngoài hay 
          đi chỗ khác, khi Phật tiếp tín chúng đến hỏi đạo, nếu 
          sự hiện diện của thị giả không cần thiết. 
          4) Không ăn thức ăn 
          thừa của Ðức Phật. 
          5) Ðược tùy tiện sắp 
          xếp hoặc cho hay không cho mỗi khi có khách muốn đến yết 
          kiến Phật. 
         
        Với 5 thỉnh nguyện 
        được trình lên, Phật chấp thuận ngay. Vì không những thấu 
        hiểu tâm tư A Nan, Phật còn khen ngợi A Nan là người thông 
        minh, nhớ nhiều, tế nhị, thuần hậu, vui vẻ... 
        
        2. Giúp cho nữ giới xuất 
        gia 
        
        Nhờ đẹp trai, tính lại cởi mở, vui vẻ, ưu 
        ái đối với phụ nữ, A Nan được tất cả các nữ giới 
        kính chuộng. 
        
        Khi vua Tịnh Phạn băng 
        hà, Phật về thành Ca Tỳ La Vệ lo việc lễ táng và sau khi 
        đã đề cử Ma Ha Nam lên làm vua, Ðức Phật rút ra ngoài 
        thành Ca Tỳ La Vệ, tạm trú tại rừng Ni Câu Ðà. 
        Thấy nhà vua đã mãn 
        phần, việc triều chính cũng đã có người lo, Bà Ma Ha Xà 
        Ba Ðề rất bằng lòng qua sự sắp xếp của Phật. Một 
        hôm, bà dẫn 500 thế nữ thuộc dòng họ Thích đến rừng 
        Ni Câu Ðà bái yết Phật, xin được xuất gia và dâng Phật 
        2 tấm y do tự tay bà cắt may. Về việc xuất gia, Phật 
        không chấp thuận, dù bà nhiều lần khẩn khoản cầu xin. 
        Theo Phật, nữ giới nặng về tình cảm, nhẹ ý chí, có thể 
        gây phiền hà, rắc rối cho giáo đoàn. Bởi thế, giáo đoàn 
        có sự tham dự của phụ nữ, chánh pháp sẽ giảm mất 500 
        năm. Còn 2 y Phật tán thán bà và khuyên nên đem cúng dường 
        chư Tăng được nhiều phước hơn. Ðã buồn vì bị từ chối 
        không cho xuất gia lại bị khước từ không nhận y, bà tỏ 
        thái độ không hài lòng. Ðể làm cho di mẫu vui lòng, với 
        tư cách là một vị Tăng trong giáo đoàn, Phật nhận 1 tấm 
        y. Tấm còn lại, Phật bảo bà đem cúng dường cho vị Tăng 
        khác. 
        Sau khi thấy nước Ca Tỳ 
        La Vệ ổn định về mọi mặt, Phật và Tăng đoàn rời Ni 
        Câu Ðà, đi du hóa vùng lưu vực sông Hằng. Riêng bà, Ma Ha 
        Ba Xà Ba Ðề, tuy bị Phật từ chối việc xuất gia, nhưng 
        quyết không bỏ ý hướng. Một hôm, bà nảy ra sáng kiến 
        táo bạo là phải đặt Phật trước sự đã rồi và cũng 
        để chứng tỏ tâm sắt đá của mình, bà cùng 500 thể nữ 
        xuống tóc, mặc cà sa, và kéo đến Tịnh Xá Na Ma Ðề Kiền 
        Ni, nơi Phật đang giáo hóa để bái yết khẩn cầu. Vì từ 
        Ca Tỳ La Vệ đến đây xa cả 2.000 dặm lại gặp trời mưa, 
        bà vừa đến cổng Tịnh Xá đã mệt lã và trời cũng đã 
        tối. do đó, bà đành dừng chân ở cổng Tịnh Xá đợi sáng 
        mai sẽ vào thỉnh Phật cho xuất gia với quyết tâm nếu 
        không được thì cũng chết ở đây chứ không trở về Ca Tỳ 
        La Vệ. Lúc sáng sớm, vì có việc cần phải ra ngoài Tịnh 
        Xá, A Nan bất chợt gặp bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề và 500 thế nữ 
        dòng họ Thích, đầu cạo nhẵn thín và mình khoác áo cà 
        sa. Dịp may hiếm có bà núi A Nan lại và khẩn khoản yêu cầu 
        xin Phật giúp. Sẵn có hảo tâm với phái nữ, lại là chỗ 
        thân thuộc, A Nan vào trình Phật. Ðể đáp lại nhiệt tình 
        và ý chí sắt đá cao độ của di mẫu Phật chấp thuận lời 
        thỉnh cầu của A Nan, nhưng buộc di mẫu phải giữ thêm một 
        số giới pháp và triệt để tuân hành 8 kính pháp (xem phần 
        ghi chú ơ cuối bài). Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề hoan hỷ chấp thuận 
        và được Phật cho thọ ni giới cụ túc. Trên nét mặt A 
        Nan hiện rõ nổi vui mừng, vì đã giúp cho nữ giới được 
        xuất gia, về sau, Ni giới rất nhớ ơn A Nan. Một hôm, tháp 
        tùng Ma Ha Ca Diếp đi khất thực ngang qua một ni viện, A Nan 
        được các Tỳ Kheo ni ùa ra đón rước. Mặc dầu Ma Ha Ca Diếp 
        là vị trưởng lão, đứng đầu trong hàng Tăng đoàn, các tỳ 
        kheo ni vẫn vây quanh A Nan hỏi đạo. Sau mới bái yết Ma Ha 
        Ca Diếp. 
        
        3. Thoát nạn Ma Ðăng 
        Già 
        
        Với thân hình trẻ đẹp, 
        A Nan rất được các cô gái trẻ mê say. 
        Một hôm, sau mùa an cư, 
        A Nan mang bát, một mình đi vào thôn xóm khất thực. Nhân trời 
        nóng nực, khát nước, A Nan đến bên 1 cái giếng xin nước 
        uống. Vì ham cúi xuống giếng kéo nước, không thấy A Nan. 
        Khi đứng thẳng người, cô gái trực nhận thấy A Nan, 1 Tỳ 
        Kheo thuộc dòng Sát Ðế Lợi. Không kịp chạy trốn, vô 
        gái tự xưng tên họ, dòng dõi và cuống quít xin lỗi A Nan. 
        Cô gái tự khai thuộc dòng nô lệ tên là Bát Cát Ðế 
        (Praksti hay Pakati), dòng họ Ma Ðăng Già (Matanga). Do đó, cô 
        không thể tiếp xúc và dâng nước cho A Nan được. A Nan bảo 
        là tôi xin nước chứ đâu có xin giai cấp và hơn nữa giáo 
        pháp của Phật giảng dạy cho con người nên có tâm bình đẳng 
        với mọi giai tầng trong xã hội. 
        Sau khi gánh nước về 
        nhà, cô gái tương tư A Nan, bỏ ăn, bỏ ngủ, cơ thể xác xơ. 
        Cha mẹ cô vặn hỏi mãi mới biết được sự tình. Vì thương 
        con, muốn con khỏi bấn loạn tâm thần, bà mẹ cô gái xin 
        bùa chú để bắt A Nan làm chồng con gái mình. 
        Một hôm khác, A Nan một 
        mình đi vào thôn xóm của cô gái khất thực, cứ thứ tự 
        khất thực. A Nan dừng bước trước nhà cô gái. Thấy bóng 
        dáng A Nan cô gái mừng quýnh vội vàng chạy ra chào hỏi đủ 
        điều và quỳ dâng A Nan bát nước. Lúc đó, A Nan lạc vào 
        mê hồn trận, lảo đảo đi theo cô gái vào nhà. Cha mẹ anh 
        em cô gái đều đi vắng, cô gái nghĩ là mình sẽ tự do ân 
        ái với thầy Tỳ Kheo trẻ đẹp và thầy sẽ bỏ áo cà sa 
        làm chồng mình. MAy mắn thay, khi vào trong phòng kín, A Nan từ 
        từ tỉnh trí, vì thuốc mê cũng từ từ theo thời gian mà hết 
        hiệu nghiệm. Dù đã tỉnh, A Nan thấy mình mắc nạn và 
        khó thoát vì cổng ngoài và cửa phòng đều đã đóng chặt. 
        Liền khi đó, A Nan tưởng đến Phật và mong Phật đến giải 
        vây trừ nạn. Nhờ có thần giao cách cảm, tại Tịnh xá, 
        Phật quán chiếu biết A Nan mắc nạn đàn bà. Phật liền 
        đem thần chú Lăng Nghiêm bảo Xá Lợi Phất mang đến trì tụng 
        trước nhà Ma Ðăng Già. Nhờ nhất tâm niệm chú của Xá Lợi 
        Phất và toàn thể Tăng đoàn, cô gái Ma Ðăng Già buông tha 
        A Nan và xin theo Xá Lợi Phất về Tịnh xá cầu Phật cho xuất 
        gia. 
        Qua tai nạn xảy ra 
        suýt mất phẩm hạnh, A Nan hết dám đi khất thực một mình. 
        Biết A Nan trẻ đẹp rất dễ bị lạc vào mê hồn trận của 
        phụ nữ, Phật buộc A Nan không được rời Phật bất cứ 
        lúc nào. Nhờ sát cánh với Phật, A Nan thuộc lòng tất cả 
        kinh giáo do Phật nói. 
        
        4. Ác mộng 
        
        Thấy Phật, ngày càng 
        già, lòng A Nan vô cùng lo lắng, vì nếu Phật Niết Bàn, biết 
        dựa vào đâu để tu đạo và chứng thánh. Trong một đêm nằm 
        mộng thấy 7 điều kỳ quái, A Nan cảm thấy lo sợ hoang 
        mang. Sáng sớm thức dậy, đến trình bày sự việc với Ðức 
        Phật và xin ý kiến của Ðức Phật, 7 điều mộng là: 
        
          1) Khắp nơi, các ao 
          ngòi sông hồ, biển cả đều bị lửa dữ rực cháy, khô 
          cạn tất cả. 
          2) Mặt trời rơi rụng, 
          thế giới tối đen, không có một ánh sao, đầu con vượn 
          lao lên 9 tầng mây. 
          3) Các Tỳ Kheo không 
          tuân giữ giới luật, treo áo cà sa. 
          4) Trong cảnh chông 
          gai lao lý, Tỳ Kheo khốn khổ, pháp y tơi bời. 
          5) Cây chiên đàn, to 
          lớn xanh tươi, vì các đàn heo rừng đến bới gốc, trốc 
          rễ. 
          6) Không nghe lời voi 
          mẹ, voi con tung chạy khắp nơi, lạc vào chốn đồng khô 
          cỏ cháy, chết đói, chết khát, ngổn ngang. 
          7) Sư tử chết, các 
          loài điểu thú côn trùng không dám đến gần, dòi từ 
          trong ruột sư tử bò ra lúc nhúc, rúc tỉa thịt xương sư 
          tử. 
         
        Khi nghe kể, biết đó 
        là điều chẳng lành. Phật giải thích: 
        - Này A Nan! Ðã là mộng 
        nên làm gì có thực, tất cả đều do thức biến, chắc lòng 
        ông có gì khắc khoải lo âu! Tuy nhiên giữa cái có và cái 
        không vốn không tách biệt. Bởi thế, giấc mộng của ông 
        có thể là điều báo trước giáo pháp của ta trong tương 
        lai. 
        - Này A Nan! Với điềm 
        thứ nhất: lửa cháy thiêu đốt, sông biển khô cạn, biểu 
        hiện tương lai các vị Tỳ Kheo được hưởng đầy đủ mọi 
        sự cúng dường, nhưng lại không giữ theo giáo pháp thanh tịnh, 
        khởi xướng nhiều việc đấu tranh gây gỗ. 
        
        Ðiềm thứ hai: Sau 
        khi ta Niết Bàn, giống như trời đất mù tối, để chánh 
        pháp không bị lu mờ, Tăng đoàn sẽ yêu cầu ông tuyên dương 
        chánh pháp. 
        
        Ðiềm thứ ba: Trong 
        tương lai có hạng Tỳ Kheo chỉ chuyên nói lý thuyết suông 
        không lo tu hành. 
        
        Ðiềm thứ tư: 
        Trong lương lai có Tỳ Kheo không lo tu giới định tuệ, xuôi 
        theo thế tục, hưởng lạc, có vợ con đùm đề. 
        
        Ðiềm thứ năm: 
        Trong tương lai chỉ có hạng Tỳ Kheo chuyên buôn Phật, bán 
        Thánh, đem chánh pháp làm phương tiện đổi chác, mong cầu 
        lợi dưỡng. 
        
        Ðiềm thứ sáu: 
        Trong tương lai có hạng Tỳ Kheo trẻ tuổi không chịu học 
        tập theo lời dạy dỗ của sư trưởng, không tin theo nhân 
        quả tội phước, chết đọa vào địa ngục. 
        
        Ðiềm thứ bảy: 
        Trong tương lai, chính đệ tử Phật lại phá hoại giáo 
        pháp của Phật, chứ không phải ngoại đạo đủ sức phá 
        nổi chính pháp. 
        Trong 7 điều mộng, 
        ngay sau khi Phật Niết Bàn 3 tháng, điềm thứ 2 đã xảy ra 
        tại núi Kỳ Xà Quật, A Nan được đại hội kiết tập, yêu 
        cầu thay Phật tuyên đọc lời Phật dạy để tuyên dương 
        diệu pháp. 
        
        5. Yêu cầu Phật Di 
        giáo 
        
        Tại rừng Ta La Song thọ, 
        thành Câu Thi Na, khi Phật sắp Niết Bàn, người khóc than 
        thê thảm nhất là A Nan, Phật khuyên A Nan không nên khóc, 
        vì hễ ở đời có sinh là có diệt. Con người có hợp thì 
        có ly. Ðó là một định luật không ai có thể cưỡng lại 
        được. Phật tuy đã giác ngộ và giải thoát nhưng dư báo 
        vẫn còn cho nên phải xả để vào vô dư Niết Bàn. Tất cả 
        giáo pháp, tư lợi, lợi tha, Phật đã tuyên giảng đầy đủ. 
        Con đường tiến đến chân trời giác ngộ, giải thoát, Phật 
        đã chỉ rõ. Do đó, Phật còn ở lại thế gian cũng bằng 
        thừa. Hơn nữa, có Phật, mọi người sẽ ỷ lại, không chịu 
        khắc phục thân tâm, tiến tu đạo nghiệp. Trước giờ phút 
        Niết Bàn, Phật hỏi đại chúng còn gì nghi ngờ hãy nêu 
        rõ vấn đề. 
        Ðối trước Ðức Phật, 
        A Nan thưa thỉnh: 
        - Bạch Thế Tôn! Con 
        có 4 thắc mắc, xin Thế Tôn chỉ giáo: Thứ nhất: Sau 
        khi Thế tôn Niết Bàn chúng con nhận ai làm thầy? 
        
        Thứ hai: Sau 
        khi Thế Tôn Niết Bàn, chúng con an trụ vào đâu? 
        
        Thứ ba: 
        Sau khi Thế tôn Niết Bàn, làm sao hàng phục kẻ dữ? 
        
        Thứ tư: 
        Sau khi kiết tập kinh điển, nên để lời gì đầu mỗi 
        kinh? 
        Ðức Phật từ tốn trả 
        lời: 
        - Thứ nhất: hãy 
        lấy Ba La Ðề mộc xoa (giới) làm thầy. 
        - Thứ hai: Hãy an 
        trú vào tứ niệm xứ (thân không tịnh, thọ là khổ, tâm 
        vô thường, pháp vô ngã). 
        - Thứ ba: Hãy 
        dùng phép "mặc tẩn" (làm lơ, không giao thiệp, luận 
        bàn) để điều phục kẻ dữ. 
        - Thứ tư: Ðầu 
        mỗi câu kinh ghi bằng câu: "Như thị ngã văn" (Tôi 
        nghe như vầy) mà kiết tập kinh điển. 
        Trả lời xong, Phật 
        khuyên tiếp: A Nan và đại chúng hãy tự mình thắp đuốc lên 
        mà đi. Ta và giáo pháp chỉ là phương tiện chỉ đường, còn 
        đến đích hay không mọi người tự cất bước. Tỳ kheo nào 
        thật tình thương nhớ ta hãy áp dụng đức từ bi vào 
        thân, khẩu, ý, đó là cách nhớ tưởng ta một cách chân 
        chính nhất. 
        
        6. Tham dự Kiết tập 
        Kinh 
        
        Sau khi trà tỳ và phân 
        chia Xá Lợi của Phật suốt 3 tháng Tăng đoàn tổ chức Ðại 
        hội kiết tập kinh điển tại núi Kỳ Xà Quật. A Nan được 
        Ðại hội đề cử tụng lại, tất cả các kinh do Phật đã 
        nói. Tuy nhiên Ðại hội buộc A Nan sám hối 6 sai lầm đã vấp 
        phải khi Phật còn tại thế, và hãy ra ngoài dốc lòng tu tập 
        lúc nào chứng thánh mới trở vào tham dự đại hội. 
        Sáu tội Ðột Cát La 
        mà A Nan phải sám hối là: 
        
          1 - Do A Nan thỉnh cầu 
          Phật nhận nữ giới vào giáo hội. 
          2 - Mượn cớ nước 
          không sạch, A Nan không cung cấp nước cho Phật uống, lúc 
          ở gần thành Duy Ra Yết. 
          3 - Ðã biết Ðức Phật 
          có đại thần lực, có thể khiến nước đục trở thành 
          trong, A Nan vẫn không lấy nước dâng Phật. 
          4 - Phật nhắc 3 lần 
          về điều người khác tu học được 4 thần túc, có thể 
          kéo dài thêm mạng sống, A Nan im lặng chẳng thưa thỉnh, 
          Phật mới Niết Bàn. 
          5 - Là thị giả cần 
          cẩn thận, A Nan đã dẫm chân lên y Tăng già lê của Phật. 
          6 - Sau khi Phật Niết 
          Bàn, A Nan cho nữ giới xem âm tàng tướng của đức Phật. 
         
        Với tâm hoan hỷ nhu 
        thuận sẵn có, trước đị chúng, A Nan nhận đã có sai 
        trái, đúng như 6 điều mà đại hội đã trình bày và 
        thành khẩn sám hối. Còn vấn đề chưa chứng thánh quả A 
        Nan ra ngoài động, tìm nơi vắng vẻ ngồi kiết già, nỗ lực 
        tu tập, giữ tư tưởng trầm mặc, buông dứt hết vô minh vọng 
        tưởng. Sau một ngày, vào nửa đêm, A Nan chứng quả A La 
        Hán. Khi trời vừa sáng, A Nan trở lại vào động, đúng 
        lúc Ðại hội bắt đầu khai mạc. Như trách nhiệm đã 
        phân, trước đại hội, A Nan đứng lên, tụng đọc có 4 bộ 
        A Hàm là: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm và Tăng nhất 
        a Hàm. Ngoài ra còn có một số kinh khách như: Kinh Thí dụ, 
        Kinh Bổn sinh, Kinh Pháp cú. 
        Trong cuộc kiết tập 
        kinh điển lần thứ nhất A Nan đã thực hiện trọn vẹn di 
        chúc của Phật là: Ðại Phật tuyên dương chánh pháp. 
        III- A 
        NAN NIẾT BÀN 
        Sau Phật Niết Bàn, Ðại 
        Ca Diếp thống lãnh giáo đoàn cho đến lúc hơn 100 tuổi thì 
        vào Niết Bàn, người thừa kế là tôn giả A Nan, vị tổ 
        thứ 2 theo Bắc Tông Phật giáo. 
        Ðến khoảng 120 tuổi, 
        tự thấy cơ thể đã già yếu, A Nan quyết định nhập Niết 
        Bàn. Sau khi suy nghĩ và trước khi thực hiện ý định, A Nan 
        đem lại chánh pháp và giáo đoàn giao lại cho Thương Na Hòa 
        Tu lãnh đạo. Chánh pháp đã có người tiếp nhận kế thừa, 
        tôn giả A Nan lại phân vân, không biết nên Niết bàn ở Ma 
        Kiệt Ðà hay Tỳ Xá Ly. Ðức Phật truyền dạy giáo pháp 
        bình đẳng cho nên phải loại trừ tâm thiên vị, gây oán 
        thù, tranh chấp. Hơn nữa lúc bấy giờ hai nước đang giao 
        chiến đối đầu nhau. Cuối cùng, để hai nước khỏi so bì, 
        tôn giả chọn sông Hằng làm nơi Niết Bàn. Vì con sông là 
        biên giới của hai nước. 
        Nghe tin tôn giả A Nan sắp 
        Niết Bàn ở sông Hằng, Vua A Xà Thế, tức tốc đến mé 
        sông thì A Nan đã lên thuyền ra giữa sông. Vua đưa loa mời 
        A Nan trở lại. Bên kia bờ, dân chúng Tỳ Xá Ly cũng đến bờ 
        sông xướng lời thỉnh cầu qua Tỳ Xá Ly vào Niết Bàn. 
        
        Ra đến giữa sông tôn giả nói lớn: 
        
        - Vì hai nước bất hòa, 
        hai bên còn oán hận nhau ta không biết nên Niết bàn ở nước 
        nào cho hợp lẽ. Do đó, ta xét thấy ra giữa sông nhập diệt 
        là giải pháp công bằng nhất. Ta cầu mong hai nước chấm dứt 
        chinh chiến, lập lại hòa bình thân hữu. 
        Phát biểu quan điểm 
        xong. Tôn giả A Nan nhập định tam muội và Niết Bàn. Xá Lợi 
        của tôn giả được chia cho hai nước xây tháp tôn thờ. Một 
        tháp xây ở giảng đường Ðại Long phía Bắc Tỳ Xá Ly. Một 
        tháp được xây cạnh Tịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá nước 
        Ma Kiệt Ðà. 
        Nhờ cách nhập diệt 
        và lời kêu gọi của Tôn giả A Nan, hai nước hòa giải 
        được hận thù, chấm dứt chinh chiến, sống trong hòa bình 
        hợp tác. Sự nhập Niết bàn của Tôn giả đã giúp cho tài 
        sản khỏi thiệt hại, sinh mạng của nhân dân được cứu 
        vãn. Vì thế nhân dân hai nước vô cùng nhớ ơn Tôn giả. 
        IV. NHẬN 
        THỨC VÀ KẾT LUẬN 
        Qua cuộc đời và đạo 
        nghiệp của Tôn giả A Nan, có một vài vấn đề cho chúng 
        ta cần đề cập đến. 
        * Trước hết là Tôn 
        giả đã giúp cho phái nữ xuất gia, vấn đề mà nhiều lần 
        chính Ðức Phật đã khước từ. Dù Ðức Phật chủ trương 
        bình đẳng, nhưng trong thực tế nam nữ chung đụng hay nảy 
        sinh nhiều chuyện phức tạp, làm tổn hại đến thanh danh của 
        Tăng đoàn, khiến sự trường tồn của chánh pháp cũng bị 
        suy giảm (500 năm). Ðó là lý do Phật không nhận phái nữ 
        xuất gia. Không phải A Nan không rõ lý do, nhưng với bản tính 
        dịu hiền, hay ưu ái phái nữ, A Nan đã mạnh dạn xin Phật 
        cho bà Ma Na Ha Ba Xà Ba Ðề và 500 thể nữ xuất gia. Từ đó, 
        chúng ta thấy A Nan được Phật tín nhiệm như thế nào. 
        Chính cũng vì lý do xin 
        cho phái nữ xuất gia trong kỳ kiết tập kinh điển lần thứ 
        nhất, A Nan đã bị Ðại hội kết tội và buộc A Nan phải 
        sám hối. Dù bị buộc tội làm cho thời kỳ chính pháp bị 
        suy giảm, nhưng A Nan đã góp phần cho giáo đoàn của Phật 
        được có trọn vẹn, tinh thần bình đẳng. Noi gương A Nan, 
        chúng ta hãy áp dụng vào cuộc sống tinh thần bình đẳng của 
        Phật. 
        * Thứ đến là vấn đề 
        bùa chú, trên đường đi khất thực một mình, A Nan đã bị 
        Ma Ðăng Già bỏ bùa suýt mất giới hạnh. A Nan lại cũng nhờ 
        thần chú Lăng Nghiêm mà thoát nạn. Người ta thường cho bùa 
        là thứ phù phép siêu hình. Riêng chúng tôi thấy vấn đề 
        đó chẳng có bùa phép siêu hình gì hết. Chẳng qua người 
        ta rút từ động vật hay thực vật ra một số hóa chất 
        nào đó có tác dụng làm mê mẫn con người mà thôi. Khi 
        hóa chất tan hết, con người trở lại bình thường, còn chữ 
        và hình vẽ chỉ là một thứ trang trí, mà mắt thiên hạ. 
        Cụ thể như tỏi, nén là chất làm cho rắn bị mê. Sả có 
        mùi làm cho rắn sợ không dám đến gần. Dầu mè, đậu phộng 
        có tác dụng đẩy tử khí ra ngoài. Ngược lại dầu thơm làm 
        xúc tác cho tử khí tăng mùi, thuốc Imenocotan làm cho người 
        hôn mê... 
        Còn thần chú, muốn 
        có hiệu quả, người trì chú phải có nhiều dụng công, tỉnh, 
        tâm, định lực, thông thường gọi là phải tu luyện, cùng 
        một bài chú có người đọc linh nghiệm, có người đọc 
        không linh nghiệm là do có công phu tu luyện hay không. Thần 
        chú là một phương tiện khi chú tâm trì tụng, giúp cho định 
        lực cao cường, cõi lòng vắng lặng chi phối được tâm tư 
        người khác. Thôi miên hoặc thần giao cách cảm cũng thuộc 
        dạng này, nhưng thấp hơn tu luyện bằng thần chú. Sự thực 
        chỉ có thế, chứ chẳng có gì siêu hình hết. 
        A Nan vì chưa chứng thánh 
        nên phải bị bùa của Ma Ðăng Già mê hoặc. Xá Lợi Phất 
        đã chứng A La Hán - Thánh - Ðịnh lực cao nên khi đọc chú 
        Lăng Nghiêm đã chuyển được tâm tánh Ma Ðăng Già. 
        * Một vấn đề khác 
        là giấc mộng của A Nan trở thành biểu hiện trong thực tại. 
        Mộng có thể thực, có thể không thực. Chẳng hạn, ban 
        ngày chúng ta tiếp xúc với vấn đề gây khủng hoảng tâm 
        lý, đêm có ác mộng, đó là mộng không thực. Khi nằm ngủ 
        vì một động tác nào đó làm động mạch tắc ngẳn, mộng 
        sinh ra, đó là mộng không thực. Còn ngày hoặc đêm chúng 
        ta quan tâm đến một vấn đề nào đó, trong giấc ngủ, từ 
        tiềm thức trồi lên các hình ảnh mộng. Những điềm đó 
        có thể thành hiện thực. Khi có điều kiện, Phật gọi là 
        nhân duyên. Lúc đó người kể cho chúng ta nghe một giấc mộng 
        và hỏi hậu quả của giấc mộng, muốn đoán trúng, trước 
        hết chúng ta phải hỏi dò người có giấc mộng, rồi phải 
        có trình độ suy lý cao, trực giác mạnh, chúng ta mới có 
        thể phê phán nhận định giấc mộng, gọi là đoán mộng. 
        Chúng tôi quan niệm mộng là một hiện tượng tâm lý chứ 
        không phải là điều kỳ lạ hay thần kỳ như ông bà của 
        chúng ta tưởng tượng hồi xưa. A Nan có 7 điều mộng là 
        do A Nan đã có sẵn tư duy về vấn đề tuổi già của Phật 
        và sau khi Phật Niết Bàn có những gì sẽ xảy ra. Từ tư 
        duy đó, tiềm thức làm việc và cho hình ảnh kết quả. 
        Còn Ðức Phật dựa vào 7 điều mộng để luận đoán. Hầu 
        như từ sau Phật Niết Bàn đến nay, những điều Ðức Phật 
        dựa vào mộng để dự đoán đều đúng. Vì Phật là bậc 
        giác ngộ, có trí tuệ ưu việt, siêu đẳng cho nên tìm được 
        hệ luận của mộng. 
        * Với 3 vấn đề qua 
        tư duy và trình bày của chúng tôi ở trên chỉ là ý kiến 
        gợi ý cá nhân, chưa hẳn là tuyệt đúng. Do đó, vấn đề 
        cần có thời gian để tư duy và thực nghiệm thêm, mới có 
        thể xác thực hơn. 
        * Sau cùng, với thời 
        hiện đại, với giáo pháp của Phật, chúng ta đa phần thiên 
        về nghiên cứu, lý thuyết... nhiều hơn là thực nghiệm tu 
        chứng. Bởi thế chúng ta cần noi gương tôn giả A Nan trong 
        vấn đề tuyên dương chánh pháp để tự lợi và giúp ích 
        cho mọi người nhiều hơn. Lấy chính pháp trang nghiêm bản 
        thân, trang nghiêm giáo hội cũng chính là để góp phần 
        trang nghiêm xây dựng quốc độ, an bình, phúc lạc. 
        * * * 
        
        CÂU HỎI THẢO LUẬN 
        
          1. Dòng họ và danh hiệu 
          A Nan như thế nào? 
          2. Tại sao Phật chọn 
          A Nan làm thị giả? 
          3. A Nan giúp cho nữ 
          giới xuất gia với tinh thần gì? Kết quả như thế nào? 
          4. Diễn tiến A Nan mắc 
          nạn Ma Ðăng Già như thế nào? 
          5. A Nan mộng thấy 
          gì? 
          6. Phật suy đoán giấc 
          mộng của A Nan sẽ biểu hiện những gì? 
          7. Khi Phật sắp Niết 
          Bàn, A Nan thỉnh cầu Phật những gì? 
          8. A Nan tham dự Ðại 
          hội kiết tập kinh điển như thế nào? 
          9. Nhờ đây Tỳ Xá 
          Ly và Ma Kiệt Ðà đã chấm dứt giao chiến sống hòa 
          bình? 
          10. Hãy cho biết quan 
          điểm về bùa chú và điềm mộng. 
        
         
        
        Ghi chú: 
        Tám Kính pháp. 
        
        
        1. Tỳ Kheo ni phải y chỉ 
        chúng Tỳ Kheo mà cầu thọ cụ túc giới. 
        2. Tỳ Kheo ni, mỗi nửa 
        tháng phải đến trụ xứ Tỳ Kheo làm lễ thỉnh thầy giáo 
        thọ. 
        3. Tỳ Kheo ni mỗi năm 
        một lần đến kỳ kiết hạ an cư. Nhưng nếu trong vùng 
        không có chúng Tỳ Kheo thì tuyệt đối không được phép tự 
        lập kiết hạ riêng. 
        4. Tỳ Kheo ni không được 
        cử tội hay nói lỗi lầm của tỳ kheo. Ngược lại, Tỳ 
        Kheo có quyền nói lỗi của Tỳ Kheo ni. 
        5. Tỳ Kheo ni nếu phạm 
        lỗi Tăng tàn phải tự mình xin sám hối trước hai bộ chúng 
        Tỳ Kheo và Tỳ Kheo ni, trong kỳ bồ tát hằng tháng gần nhất. 
        6. Tỳ Kheo ni dù đã thọ 
        giới cụ túc lâu 100 năm, nhưng với Tỳ Kheo mới thọ giới 
        vẫn phải đảnh lễ cung kính, vái chào. 
        7. Tỳ Kheo ni sau mùa an 
        cư phái đứng trước Tỳ Kheo xin chỉ những việc bất xứng, 
        ý, qua mắt thấy, tai nghe hoặc nghi ngờ. 
        8. Tỳ Kheo ni có điều 
        gì cần hỏi Tỳ Kheo mà nếu vì một cớ nào đó Tỳ Kheo 
        không đáp, không được gạn hỏi. 
         
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | 1.01 
        | 1.02 | 1.03 | 1.04 
        | 1.05 | 1.06 | 1.07 
        | 1.08 | 
        | 2.01 | 2.02 | 2.03 
        | 2.04 | 2.05 | 2.06 
        | 2.07 | 2.08 | 
        2.09 | 2.10 | 3 | Mục 
        lục  |