BÀI 9
Tôn giả
A NAN ÐÀ
(Ananda - Ða văn đệ nhất)
-ooOoo-
T rong
hàng Thánh chúng hay 10 đại đệ tử của Phật, về tuổi tác
A nan đà (Ananda) là vị trẻ nhất. Về sự thân cận với
Phật, A Nan Ðà là vị luôn luôn có bên cạnh, về trí nhớ
A Nan Ðà là vị nhớ lời Phật dạy dai nhất, nhiều nhất.
Bởi thế Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi có kệ khen tặng A Nan
Ðà rằng:
"Tướng như thu mãn
nguyệt
Nhãn tợ thanh liên hoa
Phật pháp như đại hải
Lưu nhập An Nan tâm"
Tạm dịch:
"Tướng giống
trăng thu đầy
Mắt giống hoa sen xanh
Phật pháp như biển rộng
Rót vào tâm A Nan"
A Nan Ðà có nhiều đặc
điểm, nhưng nổi tiếng nhất là trí nhớ. Với tất cả
kinh điển do Phật tuyên giảng, A Nan Ðà là vị nhớ nhiều
nhất. Từ đó Phật và Thánh chúng suy tôn A NAN LÀ VỊ ÐA VĂN
ÐỆ NHẤT TRONG HÀNG THÁNH CHÚNG.
I- DÒNG
HỌ VÀ DANH HIỆU A NAN ÐÀ
A Nan Ðà gọi ngắn gọi
là A Nan, em ruột của Ðề Bà Ðạt Ða, con thứ của Bạch
Phạn Vương, tức là em con chú của Ðức Phật Thích Ca Mâu
Ni. A Nan sinh ra trong đêm Phật thành đạo dưới gốc cây Bồ
Ðề, cho nên Trung Quốc dịch là "Khánh Hỷ" có nghĩa
là vui mừng.
A Nan rất khôi ngô tuấn
tú, thông minh, hòa nhã, vui vẻ.
Khi trở về thành Ca Tỳ
La Vệ, thấy A Nan, Phật liền nảy ý sẽ khuyến hóa A Nan
xuất gia. Bởi thế, khi dọn chỗ ở, Phật đến ngay cung
điện của Bạch Phạn Vương, ngự tại căn phòng kế cận
phòng A Nan. Mỗi buổi sáng, mở cửa nhìn qua, A Nan thấy Phật
và cung kính bái chào. Ngày ngày chú bé A Nan lân la bên Phật
và quạt cho Phật khi nóng nực. Thấy con mến Phật, ngại
chú bé có thể chịu ảnh hưởng của Phật, Bạch Phạn
vương gởi chú bé A Nan sang nước Tỳ Xá Ly. Vì nhớ nhà,
nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ Phật, chú bé A Nan khóc đòi về. Rồi
cũng không thể xa chú bé ngây thơ, mủm mỉm duyên dáng, đẹp
đẽ lại thông minh, Bạch Phạn vương lại đưa chú bé A
Nan về thành Ca Tỳ La Vệ. Với luật tương duyên, việc gì
đến sẽ đến, có cản ngăn cũng không được. Khi đã thấm
nhuần mưa pháp, một số vương tôn công tử xin Phật đi xuất
gia. Dù còn bé, tính Phật đã trổi lên, A Nan cũng xin các vương
tôn được đi theo Phật. Về sau A Nan trở thành vị Ða văn
đệ nhất.
II- ÐẠO
NGHIỆP CỦA A NAN ÐÀ.
1. Làm thị giả Phật
Sau khi được theo Ðề
Bà Ðạt Ða, A Na Luật, Ưu Ba Ly, La Hầu La... về Trúc Lâm Tịnh
Xá, dù còn nhỏ tuổi, A Nan siêng năng tham dự các buổi
thuyết pháp của Phật. Với tính thông minh sẵn có, A Nan nhớ
hết những lời Phật nói. Vì thế ngược hẳn với Châu Lỵ
Bàn Ðà Già, học một câu kệ 3 tháng mà không thuộc, A Nan
nghe một biết mười. Châu Lỵ Bàn Ðà Già chỉ hơn A Nan
ở chỗ chứng thánh ngay khi Phật còn tại thế. A Nan phải
đến sau Phật Niết Bàn 3 tháng mới chứng quả A La Hán, trước
ngày khai mạc đại hội kiết tập kinh điển một hôm.
Dù A Nan thông minh có
thể nối thạnh Phật pháp theo sự nhận xét của Phật, khi
về Ca Tỳ La Vệ, nhưng tuổi còn nhỏ cần có thời gian tập
sự, mãi đến 20 năm sau, A Nan mới được Tăng đoàn đề
nghị làm thị giả hầu cận Phật. Từ sau khi Phật thành
đạo đến lúc A Nan được đề cử làm thị giả, Phật
không có một thị giả nào nhất định: Thân cận Phật
lúc đầu, có Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, tiếp đến
có Tỳ Kheo Na Ca Ba La, rồi nhiều Tỳ Kheo khác thay nhau hầu
Phật.
Năm Phật 50 tuổi,
Tăng đoàn thấy Phật cần có một thị giả thường trực
bên cạnh, để giúp đỡ Phật mọi sự cần thiết. Vì thế,
Tăng đoàn mở một đại hội để chọn thị giả. Trong đại
hội có nhiều tỳ kheo xung phong, nhưng Phật đều không thuận.
Theo Phật, nhiều vị tuổi đã cao hơn Phật, cần có thời
giờ để đi bố giáo. Lúc đó, Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên biết Phật cần chọn vị trẻ hơn, lại thông minh,
lanh lẹ, nhu hòa... Mục Kiền Liên thấy trong số đệ tử
không ai hơn ngài A Nan. Bởi thế, Mục Kiền Liên liền đến
khuyên A Nan rằng:
- Này A Nan! Ý Ðức Thế
Tôn muốn ông làm thị giả. Ông hội đủ nhiều yếu tố,
đặc biệt là dựa vào trí nhớ, về sau ông có thể thay thế
Ðức Phật tuyên dương diệu pháp, ông giống như một tòa
lâu đài to lớn, mở cửa sổ phía đông là có thể giúp
cho ánh sáng rót thẳng vào vách phía Tây.
Nghe nói, thấy trách
nhiệm lớn lao quá, sợ không kham, A Nan từ chối, nhưng Xá
Lợi Phất và Mục Kiền Liên khuyên mãi, cuối cùng A Nan nhận.
Nhưng e ngại sự tị hiềm có thể xảy ra, A Nan yêu cầu Mục
Kiền Liên trình lên Ðức Phật 5 thỉnh nguyện.
1) Không mặc áo Phật
cho dù cũ hay mới.
2) Không đi trước,
khi có Phật tử thỉnh Phật về nhà cúng dường.
3) Ðược ra ngoài hay
đi chỗ khác, khi Phật tiếp tín chúng đến hỏi đạo, nếu
sự hiện diện của thị giả không cần thiết.
4) Không ăn thức ăn
thừa của Ðức Phật.
5) Ðược tùy tiện sắp
xếp hoặc cho hay không cho mỗi khi có khách muốn đến yết
kiến Phật.
Với 5 thỉnh nguyện
được trình lên, Phật chấp thuận ngay. Vì không những thấu
hiểu tâm tư A Nan, Phật còn khen ngợi A Nan là người thông
minh, nhớ nhiều, tế nhị, thuần hậu, vui vẻ...
2. Giúp cho nữ giới xuất
gia
Nhờ đẹp trai, tính lại cởi mở, vui vẻ, ưu
ái đối với phụ nữ, A Nan được tất cả các nữ giới
kính chuộng.
Khi vua Tịnh Phạn băng
hà, Phật về thành Ca Tỳ La Vệ lo việc lễ táng và sau khi
đã đề cử Ma Ha Nam lên làm vua, Ðức Phật rút ra ngoài
thành Ca Tỳ La Vệ, tạm trú tại rừng Ni Câu Ðà.
Thấy nhà vua đã mãn
phần, việc triều chính cũng đã có người lo, Bà Ma Ha Xà
Ba Ðề rất bằng lòng qua sự sắp xếp của Phật. Một
hôm, bà dẫn 500 thế nữ thuộc dòng họ Thích đến rừng
Ni Câu Ðà bái yết Phật, xin được xuất gia và dâng Phật
2 tấm y do tự tay bà cắt may. Về việc xuất gia, Phật
không chấp thuận, dù bà nhiều lần khẩn khoản cầu xin.
Theo Phật, nữ giới nặng về tình cảm, nhẹ ý chí, có thể
gây phiền hà, rắc rối cho giáo đoàn. Bởi thế, giáo đoàn
có sự tham dự của phụ nữ, chánh pháp sẽ giảm mất 500
năm. Còn 2 y Phật tán thán bà và khuyên nên đem cúng dường
chư Tăng được nhiều phước hơn. Ðã buồn vì bị từ chối
không cho xuất gia lại bị khước từ không nhận y, bà tỏ
thái độ không hài lòng. Ðể làm cho di mẫu vui lòng, với
tư cách là một vị Tăng trong giáo đoàn, Phật nhận 1 tấm
y. Tấm còn lại, Phật bảo bà đem cúng dường cho vị Tăng
khác.
Sau khi thấy nước Ca Tỳ
La Vệ ổn định về mọi mặt, Phật và Tăng đoàn rời Ni
Câu Ðà, đi du hóa vùng lưu vực sông Hằng. Riêng bà, Ma Ha
Ba Xà Ba Ðề, tuy bị Phật từ chối việc xuất gia, nhưng
quyết không bỏ ý hướng. Một hôm, bà nảy ra sáng kiến
táo bạo là phải đặt Phật trước sự đã rồi và cũng
để chứng tỏ tâm sắt đá của mình, bà cùng 500 thể nữ
xuống tóc, mặc cà sa, và kéo đến Tịnh Xá Na Ma Ðề Kiền
Ni, nơi Phật đang giáo hóa để bái yết khẩn cầu. Vì từ
Ca Tỳ La Vệ đến đây xa cả 2.000 dặm lại gặp trời mưa,
bà vừa đến cổng Tịnh Xá đã mệt lã và trời cũng đã
tối. do đó, bà đành dừng chân ở cổng Tịnh Xá đợi sáng
mai sẽ vào thỉnh Phật cho xuất gia với quyết tâm nếu
không được thì cũng chết ở đây chứ không trở về Ca Tỳ
La Vệ. Lúc sáng sớm, vì có việc cần phải ra ngoài Tịnh
Xá, A Nan bất chợt gặp bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề và 500 thế nữ
dòng họ Thích, đầu cạo nhẵn thín và mình khoác áo cà
sa. Dịp may hiếm có bà núi A Nan lại và khẩn khoản yêu cầu
xin Phật giúp. Sẵn có hảo tâm với phái nữ, lại là chỗ
thân thuộc, A Nan vào trình Phật. Ðể đáp lại nhiệt tình
và ý chí sắt đá cao độ của di mẫu Phật chấp thuận lời
thỉnh cầu của A Nan, nhưng buộc di mẫu phải giữ thêm một
số giới pháp và triệt để tuân hành 8 kính pháp (xem phần
ghi chú ơ cuối bài). Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề hoan hỷ chấp thuận
và được Phật cho thọ ni giới cụ túc. Trên nét mặt A
Nan hiện rõ nổi vui mừng, vì đã giúp cho nữ giới được
xuất gia, về sau, Ni giới rất nhớ ơn A Nan. Một hôm, tháp
tùng Ma Ha Ca Diếp đi khất thực ngang qua một ni viện, A Nan
được các Tỳ Kheo ni ùa ra đón rước. Mặc dầu Ma Ha Ca Diếp
là vị trưởng lão, đứng đầu trong hàng Tăng đoàn, các tỳ
kheo ni vẫn vây quanh A Nan hỏi đạo. Sau mới bái yết Ma Ha
Ca Diếp.
3. Thoát nạn Ma Ðăng
Già
Với thân hình trẻ đẹp,
A Nan rất được các cô gái trẻ mê say.
Một hôm, sau mùa an cư,
A Nan mang bát, một mình đi vào thôn xóm khất thực. Nhân trời
nóng nực, khát nước, A Nan đến bên 1 cái giếng xin nước
uống. Vì ham cúi xuống giếng kéo nước, không thấy A Nan.
Khi đứng thẳng người, cô gái trực nhận thấy A Nan, 1 Tỳ
Kheo thuộc dòng Sát Ðế Lợi. Không kịp chạy trốn, vô
gái tự xưng tên họ, dòng dõi và cuống quít xin lỗi A Nan.
Cô gái tự khai thuộc dòng nô lệ tên là Bát Cát Ðế
(Praksti hay Pakati), dòng họ Ma Ðăng Già (Matanga). Do đó, cô
không thể tiếp xúc và dâng nước cho A Nan được. A Nan bảo
là tôi xin nước chứ đâu có xin giai cấp và hơn nữa giáo
pháp của Phật giảng dạy cho con người nên có tâm bình đẳng
với mọi giai tầng trong xã hội.
Sau khi gánh nước về
nhà, cô gái tương tư A Nan, bỏ ăn, bỏ ngủ, cơ thể xác xơ.
Cha mẹ cô vặn hỏi mãi mới biết được sự tình. Vì thương
con, muốn con khỏi bấn loạn tâm thần, bà mẹ cô gái xin
bùa chú để bắt A Nan làm chồng con gái mình.
Một hôm khác, A Nan một
mình đi vào thôn xóm của cô gái khất thực, cứ thứ tự
khất thực. A Nan dừng bước trước nhà cô gái. Thấy bóng
dáng A Nan cô gái mừng quýnh vội vàng chạy ra chào hỏi đủ
điều và quỳ dâng A Nan bát nước. Lúc đó, A Nan lạc vào
mê hồn trận, lảo đảo đi theo cô gái vào nhà. Cha mẹ anh
em cô gái đều đi vắng, cô gái nghĩ là mình sẽ tự do ân
ái với thầy Tỳ Kheo trẻ đẹp và thầy sẽ bỏ áo cà sa
làm chồng mình. MAy mắn thay, khi vào trong phòng kín, A Nan từ
từ tỉnh trí, vì thuốc mê cũng từ từ theo thời gian mà hết
hiệu nghiệm. Dù đã tỉnh, A Nan thấy mình mắc nạn và
khó thoát vì cổng ngoài và cửa phòng đều đã đóng chặt.
Liền khi đó, A Nan tưởng đến Phật và mong Phật đến giải
vây trừ nạn. Nhờ có thần giao cách cảm, tại Tịnh xá,
Phật quán chiếu biết A Nan mắc nạn đàn bà. Phật liền
đem thần chú Lăng Nghiêm bảo Xá Lợi Phất mang đến trì tụng
trước nhà Ma Ðăng Già. Nhờ nhất tâm niệm chú của Xá Lợi
Phất và toàn thể Tăng đoàn, cô gái Ma Ðăng Già buông tha
A Nan và xin theo Xá Lợi Phất về Tịnh xá cầu Phật cho xuất
gia.
Qua tai nạn xảy ra
suýt mất phẩm hạnh, A Nan hết dám đi khất thực một mình.
Biết A Nan trẻ đẹp rất dễ bị lạc vào mê hồn trận của
phụ nữ, Phật buộc A Nan không được rời Phật bất cứ
lúc nào. Nhờ sát cánh với Phật, A Nan thuộc lòng tất cả
kinh giáo do Phật nói.
4. Ác mộng
Thấy Phật, ngày càng
già, lòng A Nan vô cùng lo lắng, vì nếu Phật Niết Bàn, biết
dựa vào đâu để tu đạo và chứng thánh. Trong một đêm nằm
mộng thấy 7 điều kỳ quái, A Nan cảm thấy lo sợ hoang
mang. Sáng sớm thức dậy, đến trình bày sự việc với Ðức
Phật và xin ý kiến của Ðức Phật, 7 điều mộng là:
1) Khắp nơi, các ao
ngòi sông hồ, biển cả đều bị lửa dữ rực cháy, khô
cạn tất cả.
2) Mặt trời rơi rụng,
thế giới tối đen, không có một ánh sao, đầu con vượn
lao lên 9 tầng mây.
3) Các Tỳ Kheo không
tuân giữ giới luật, treo áo cà sa.
4) Trong cảnh chông
gai lao lý, Tỳ Kheo khốn khổ, pháp y tơi bời.
5) Cây chiên đàn, to
lớn xanh tươi, vì các đàn heo rừng đến bới gốc, trốc
rễ.
6) Không nghe lời voi
mẹ, voi con tung chạy khắp nơi, lạc vào chốn đồng khô
cỏ cháy, chết đói, chết khát, ngổn ngang.
7) Sư tử chết, các
loài điểu thú côn trùng không dám đến gần, dòi từ
trong ruột sư tử bò ra lúc nhúc, rúc tỉa thịt xương sư
tử.
Khi nghe kể, biết đó
là điều chẳng lành. Phật giải thích:
- Này A Nan! Ðã là mộng
nên làm gì có thực, tất cả đều do thức biến, chắc lòng
ông có gì khắc khoải lo âu! Tuy nhiên giữa cái có và cái
không vốn không tách biệt. Bởi thế, giấc mộng của ông
có thể là điều báo trước giáo pháp của ta trong tương
lai.
- Này A Nan! Với điềm
thứ nhất: lửa cháy thiêu đốt, sông biển khô cạn, biểu
hiện tương lai các vị Tỳ Kheo được hưởng đầy đủ mọi
sự cúng dường, nhưng lại không giữ theo giáo pháp thanh tịnh,
khởi xướng nhiều việc đấu tranh gây gỗ.
Ðiềm thứ hai: Sau
khi ta Niết Bàn, giống như trời đất mù tối, để chánh
pháp không bị lu mờ, Tăng đoàn sẽ yêu cầu ông tuyên dương
chánh pháp.
Ðiềm thứ ba: Trong
tương lai có hạng Tỳ Kheo chỉ chuyên nói lý thuyết suông
không lo tu hành.
Ðiềm thứ tư:
Trong lương lai có Tỳ Kheo không lo tu giới định tuệ, xuôi
theo thế tục, hưởng lạc, có vợ con đùm đề.
Ðiềm thứ năm:
Trong tương lai chỉ có hạng Tỳ Kheo chuyên buôn Phật, bán
Thánh, đem chánh pháp làm phương tiện đổi chác, mong cầu
lợi dưỡng.
Ðiềm thứ sáu:
Trong tương lai có hạng Tỳ Kheo trẻ tuổi không chịu học
tập theo lời dạy dỗ của sư trưởng, không tin theo nhân
quả tội phước, chết đọa vào địa ngục.
Ðiềm thứ bảy:
Trong tương lai, chính đệ tử Phật lại phá hoại giáo
pháp của Phật, chứ không phải ngoại đạo đủ sức phá
nổi chính pháp.
Trong 7 điều mộng,
ngay sau khi Phật Niết Bàn 3 tháng, điềm thứ 2 đã xảy ra
tại núi Kỳ Xà Quật, A Nan được đại hội kiết tập, yêu
cầu thay Phật tuyên đọc lời Phật dạy để tuyên dương
diệu pháp.
5. Yêu cầu Phật Di
giáo
Tại rừng Ta La Song thọ,
thành Câu Thi Na, khi Phật sắp Niết Bàn, người khóc than
thê thảm nhất là A Nan, Phật khuyên A Nan không nên khóc,
vì hễ ở đời có sinh là có diệt. Con người có hợp thì
có ly. Ðó là một định luật không ai có thể cưỡng lại
được. Phật tuy đã giác ngộ và giải thoát nhưng dư báo
vẫn còn cho nên phải xả để vào vô dư Niết Bàn. Tất cả
giáo pháp, tư lợi, lợi tha, Phật đã tuyên giảng đầy đủ.
Con đường tiến đến chân trời giác ngộ, giải thoát, Phật
đã chỉ rõ. Do đó, Phật còn ở lại thế gian cũng bằng
thừa. Hơn nữa, có Phật, mọi người sẽ ỷ lại, không chịu
khắc phục thân tâm, tiến tu đạo nghiệp. Trước giờ phút
Niết Bàn, Phật hỏi đại chúng còn gì nghi ngờ hãy nêu
rõ vấn đề.
Ðối trước Ðức Phật,
A Nan thưa thỉnh:
- Bạch Thế Tôn! Con
có 4 thắc mắc, xin Thế Tôn chỉ giáo: Thứ nhất: Sau
khi Thế tôn Niết Bàn chúng con nhận ai làm thầy?
Thứ hai: Sau
khi Thế Tôn Niết Bàn, chúng con an trụ vào đâu?
Thứ ba:
Sau khi Thế tôn Niết Bàn, làm sao hàng phục kẻ dữ?
Thứ tư:
Sau khi kiết tập kinh điển, nên để lời gì đầu mỗi
kinh?
Ðức Phật từ tốn trả
lời:
- Thứ nhất: hãy
lấy Ba La Ðề mộc xoa (giới) làm thầy.
- Thứ hai: Hãy an
trú vào tứ niệm xứ (thân không tịnh, thọ là khổ, tâm
vô thường, pháp vô ngã).
- Thứ ba: Hãy
dùng phép "mặc tẩn" (làm lơ, không giao thiệp, luận
bàn) để điều phục kẻ dữ.
- Thứ tư: Ðầu
mỗi câu kinh ghi bằng câu: "Như thị ngã văn" (Tôi
nghe như vầy) mà kiết tập kinh điển.
Trả lời xong, Phật
khuyên tiếp: A Nan và đại chúng hãy tự mình thắp đuốc lên
mà đi. Ta và giáo pháp chỉ là phương tiện chỉ đường, còn
đến đích hay không mọi người tự cất bước. Tỳ kheo nào
thật tình thương nhớ ta hãy áp dụng đức từ bi vào
thân, khẩu, ý, đó là cách nhớ tưởng ta một cách chân
chính nhất.
6. Tham dự Kiết tập
Kinh
Sau khi trà tỳ và phân
chia Xá Lợi của Phật suốt 3 tháng Tăng đoàn tổ chức Ðại
hội kiết tập kinh điển tại núi Kỳ Xà Quật. A Nan được
Ðại hội đề cử tụng lại, tất cả các kinh do Phật đã
nói. Tuy nhiên Ðại hội buộc A Nan sám hối 6 sai lầm đã vấp
phải khi Phật còn tại thế, và hãy ra ngoài dốc lòng tu tập
lúc nào chứng thánh mới trở vào tham dự đại hội.
Sáu tội Ðột Cát La
mà A Nan phải sám hối là:
1 - Do A Nan thỉnh cầu
Phật nhận nữ giới vào giáo hội.
2 - Mượn cớ nước
không sạch, A Nan không cung cấp nước cho Phật uống, lúc
ở gần thành Duy Ra Yết.
3 - Ðã biết Ðức Phật
có đại thần lực, có thể khiến nước đục trở thành
trong, A Nan vẫn không lấy nước dâng Phật.
4 - Phật nhắc 3 lần
về điều người khác tu học được 4 thần túc, có thể
kéo dài thêm mạng sống, A Nan im lặng chẳng thưa thỉnh,
Phật mới Niết Bàn.
5 - Là thị giả cần
cẩn thận, A Nan đã dẫm chân lên y Tăng già lê của Phật.
6 - Sau khi Phật Niết
Bàn, A Nan cho nữ giới xem âm tàng tướng của đức Phật.
Với tâm hoan hỷ nhu
thuận sẵn có, trước đị chúng, A Nan nhận đã có sai
trái, đúng như 6 điều mà đại hội đã trình bày và
thành khẩn sám hối. Còn vấn đề chưa chứng thánh quả A
Nan ra ngoài động, tìm nơi vắng vẻ ngồi kiết già, nỗ lực
tu tập, giữ tư tưởng trầm mặc, buông dứt hết vô minh vọng
tưởng. Sau một ngày, vào nửa đêm, A Nan chứng quả A La
Hán. Khi trời vừa sáng, A Nan trở lại vào động, đúng
lúc Ðại hội bắt đầu khai mạc. Như trách nhiệm đã
phân, trước đại hội, A Nan đứng lên, tụng đọc có 4 bộ
A Hàm là: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm và Tăng nhất
a Hàm. Ngoài ra còn có một số kinh khách như: Kinh Thí dụ,
Kinh Bổn sinh, Kinh Pháp cú.
Trong cuộc kiết tập
kinh điển lần thứ nhất A Nan đã thực hiện trọn vẹn di
chúc của Phật là: Ðại Phật tuyên dương chánh pháp.
III- A
NAN NIẾT BÀN
Sau Phật Niết Bàn, Ðại
Ca Diếp thống lãnh giáo đoàn cho đến lúc hơn 100 tuổi thì
vào Niết Bàn, người thừa kế là tôn giả A Nan, vị tổ
thứ 2 theo Bắc Tông Phật giáo.
Ðến khoảng 120 tuổi,
tự thấy cơ thể đã già yếu, A Nan quyết định nhập Niết
Bàn. Sau khi suy nghĩ và trước khi thực hiện ý định, A Nan
đem lại chánh pháp và giáo đoàn giao lại cho Thương Na Hòa
Tu lãnh đạo. Chánh pháp đã có người tiếp nhận kế thừa,
tôn giả A Nan lại phân vân, không biết nên Niết bàn ở Ma
Kiệt Ðà hay Tỳ Xá Ly. Ðức Phật truyền dạy giáo pháp
bình đẳng cho nên phải loại trừ tâm thiên vị, gây oán
thù, tranh chấp. Hơn nữa lúc bấy giờ hai nước đang giao
chiến đối đầu nhau. Cuối cùng, để hai nước khỏi so bì,
tôn giả chọn sông Hằng làm nơi Niết Bàn. Vì con sông là
biên giới của hai nước.
Nghe tin tôn giả A Nan sắp
Niết Bàn ở sông Hằng, Vua A Xà Thế, tức tốc đến mé
sông thì A Nan đã lên thuyền ra giữa sông. Vua đưa loa mời
A Nan trở lại. Bên kia bờ, dân chúng Tỳ Xá Ly cũng đến bờ
sông xướng lời thỉnh cầu qua Tỳ Xá Ly vào Niết Bàn.
Ra đến giữa sông tôn giả nói lớn:
- Vì hai nước bất hòa,
hai bên còn oán hận nhau ta không biết nên Niết bàn ở nước
nào cho hợp lẽ. Do đó, ta xét thấy ra giữa sông nhập diệt
là giải pháp công bằng nhất. Ta cầu mong hai nước chấm dứt
chinh chiến, lập lại hòa bình thân hữu.
Phát biểu quan điểm
xong. Tôn giả A Nan nhập định tam muội và Niết Bàn. Xá Lợi
của tôn giả được chia cho hai nước xây tháp tôn thờ. Một
tháp xây ở giảng đường Ðại Long phía Bắc Tỳ Xá Ly. Một
tháp được xây cạnh Tịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá nước
Ma Kiệt Ðà.
Nhờ cách nhập diệt
và lời kêu gọi của Tôn giả A Nan, hai nước hòa giải
được hận thù, chấm dứt chinh chiến, sống trong hòa bình
hợp tác. Sự nhập Niết bàn của Tôn giả đã giúp cho tài
sản khỏi thiệt hại, sinh mạng của nhân dân được cứu
vãn. Vì thế nhân dân hai nước vô cùng nhớ ơn Tôn giả.
IV. NHẬN
THỨC VÀ KẾT LUẬN
Qua cuộc đời và đạo
nghiệp của Tôn giả A Nan, có một vài vấn đề cho chúng
ta cần đề cập đến.
* Trước hết là Tôn
giả đã giúp cho phái nữ xuất gia, vấn đề mà nhiều lần
chính Ðức Phật đã khước từ. Dù Ðức Phật chủ trương
bình đẳng, nhưng trong thực tế nam nữ chung đụng hay nảy
sinh nhiều chuyện phức tạp, làm tổn hại đến thanh danh của
Tăng đoàn, khiến sự trường tồn của chánh pháp cũng bị
suy giảm (500 năm). Ðó là lý do Phật không nhận phái nữ
xuất gia. Không phải A Nan không rõ lý do, nhưng với bản tính
dịu hiền, hay ưu ái phái nữ, A Nan đã mạnh dạn xin Phật
cho bà Ma Na Ha Ba Xà Ba Ðề và 500 thể nữ xuất gia. Từ đó,
chúng ta thấy A Nan được Phật tín nhiệm như thế nào.
Chính cũng vì lý do xin
cho phái nữ xuất gia trong kỳ kiết tập kinh điển lần thứ
nhất, A Nan đã bị Ðại hội kết tội và buộc A Nan phải
sám hối. Dù bị buộc tội làm cho thời kỳ chính pháp bị
suy giảm, nhưng A Nan đã góp phần cho giáo đoàn của Phật
được có trọn vẹn, tinh thần bình đẳng. Noi gương A Nan,
chúng ta hãy áp dụng vào cuộc sống tinh thần bình đẳng của
Phật.
* Thứ đến là vấn đề
bùa chú, trên đường đi khất thực một mình, A Nan đã bị
Ma Ðăng Già bỏ bùa suýt mất giới hạnh. A Nan lại cũng nhờ
thần chú Lăng Nghiêm mà thoát nạn. Người ta thường cho bùa
là thứ phù phép siêu hình. Riêng chúng tôi thấy vấn đề
đó chẳng có bùa phép siêu hình gì hết. Chẳng qua người
ta rút từ động vật hay thực vật ra một số hóa chất
nào đó có tác dụng làm mê mẫn con người mà thôi. Khi
hóa chất tan hết, con người trở lại bình thường, còn chữ
và hình vẽ chỉ là một thứ trang trí, mà mắt thiên hạ.
Cụ thể như tỏi, nén là chất làm cho rắn bị mê. Sả có
mùi làm cho rắn sợ không dám đến gần. Dầu mè, đậu phộng
có tác dụng đẩy tử khí ra ngoài. Ngược lại dầu thơm làm
xúc tác cho tử khí tăng mùi, thuốc Imenocotan làm cho người
hôn mê...
Còn thần chú, muốn
có hiệu quả, người trì chú phải có nhiều dụng công, tỉnh,
tâm, định lực, thông thường gọi là phải tu luyện, cùng
một bài chú có người đọc linh nghiệm, có người đọc
không linh nghiệm là do có công phu tu luyện hay không. Thần
chú là một phương tiện khi chú tâm trì tụng, giúp cho định
lực cao cường, cõi lòng vắng lặng chi phối được tâm tư
người khác. Thôi miên hoặc thần giao cách cảm cũng thuộc
dạng này, nhưng thấp hơn tu luyện bằng thần chú. Sự thực
chỉ có thế, chứ chẳng có gì siêu hình hết.
A Nan vì chưa chứng thánh
nên phải bị bùa của Ma Ðăng Già mê hoặc. Xá Lợi Phất
đã chứng A La Hán - Thánh - Ðịnh lực cao nên khi đọc chú
Lăng Nghiêm đã chuyển được tâm tánh Ma Ðăng Già.
* Một vấn đề khác
là giấc mộng của A Nan trở thành biểu hiện trong thực tại.
Mộng có thể thực, có thể không thực. Chẳng hạn, ban
ngày chúng ta tiếp xúc với vấn đề gây khủng hoảng tâm
lý, đêm có ác mộng, đó là mộng không thực. Khi nằm ngủ
vì một động tác nào đó làm động mạch tắc ngẳn, mộng
sinh ra, đó là mộng không thực. Còn ngày hoặc đêm chúng
ta quan tâm đến một vấn đề nào đó, trong giấc ngủ, từ
tiềm thức trồi lên các hình ảnh mộng. Những điềm đó
có thể thành hiện thực. Khi có điều kiện, Phật gọi là
nhân duyên. Lúc đó người kể cho chúng ta nghe một giấc mộng
và hỏi hậu quả của giấc mộng, muốn đoán trúng, trước
hết chúng ta phải hỏi dò người có giấc mộng, rồi phải
có trình độ suy lý cao, trực giác mạnh, chúng ta mới có
thể phê phán nhận định giấc mộng, gọi là đoán mộng.
Chúng tôi quan niệm mộng là một hiện tượng tâm lý chứ
không phải là điều kỳ lạ hay thần kỳ như ông bà của
chúng ta tưởng tượng hồi xưa. A Nan có 7 điều mộng là
do A Nan đã có sẵn tư duy về vấn đề tuổi già của Phật
và sau khi Phật Niết Bàn có những gì sẽ xảy ra. Từ tư
duy đó, tiềm thức làm việc và cho hình ảnh kết quả.
Còn Ðức Phật dựa vào 7 điều mộng để luận đoán. Hầu
như từ sau Phật Niết Bàn đến nay, những điều Ðức Phật
dựa vào mộng để dự đoán đều đúng. Vì Phật là bậc
giác ngộ, có trí tuệ ưu việt, siêu đẳng cho nên tìm được
hệ luận của mộng.
* Với 3 vấn đề qua
tư duy và trình bày của chúng tôi ở trên chỉ là ý kiến
gợi ý cá nhân, chưa hẳn là tuyệt đúng. Do đó, vấn đề
cần có thời gian để tư duy và thực nghiệm thêm, mới có
thể xác thực hơn.
* Sau cùng, với thời
hiện đại, với giáo pháp của Phật, chúng ta đa phần thiên
về nghiên cứu, lý thuyết... nhiều hơn là thực nghiệm tu
chứng. Bởi thế chúng ta cần noi gương tôn giả A Nan trong
vấn đề tuyên dương chánh pháp để tự lợi và giúp ích
cho mọi người nhiều hơn. Lấy chính pháp trang nghiêm bản
thân, trang nghiêm giáo hội cũng chính là để góp phần
trang nghiêm xây dựng quốc độ, an bình, phúc lạc.
* * *
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Dòng họ và danh hiệu
A Nan như thế nào?
2. Tại sao Phật chọn
A Nan làm thị giả?
3. A Nan giúp cho nữ
giới xuất gia với tinh thần gì? Kết quả như thế nào?
4. Diễn tiến A Nan mắc
nạn Ma Ðăng Già như thế nào?
5. A Nan mộng thấy
gì?
6. Phật suy đoán giấc
mộng của A Nan sẽ biểu hiện những gì?
7. Khi Phật sắp Niết
Bàn, A Nan thỉnh cầu Phật những gì?
8. A Nan tham dự Ðại
hội kiết tập kinh điển như thế nào?
9. Nhờ đây Tỳ Xá
Ly và Ma Kiệt Ðà đã chấm dứt giao chiến sống hòa
bình?
10. Hãy cho biết quan
điểm về bùa chú và điềm mộng.
Ghi chú:
Tám Kính pháp.
1. Tỳ Kheo ni phải y chỉ
chúng Tỳ Kheo mà cầu thọ cụ túc giới.
2. Tỳ Kheo ni, mỗi nửa
tháng phải đến trụ xứ Tỳ Kheo làm lễ thỉnh thầy giáo
thọ.
3. Tỳ Kheo ni mỗi năm
một lần đến kỳ kiết hạ an cư. Nhưng nếu trong vùng
không có chúng Tỳ Kheo thì tuyệt đối không được phép tự
lập kiết hạ riêng.
4. Tỳ Kheo ni không được
cử tội hay nói lỗi lầm của tỳ kheo. Ngược lại, Tỳ
Kheo có quyền nói lỗi của Tỳ Kheo ni.
5. Tỳ Kheo ni nếu phạm
lỗi Tăng tàn phải tự mình xin sám hối trước hai bộ chúng
Tỳ Kheo và Tỳ Kheo ni, trong kỳ bồ tát hằng tháng gần nhất.
6. Tỳ Kheo ni dù đã thọ
giới cụ túc lâu 100 năm, nhưng với Tỳ Kheo mới thọ giới
vẫn phải đảnh lễ cung kính, vái chào.
7. Tỳ Kheo ni sau mùa an
cư phái đứng trước Tỳ Kheo xin chỉ những việc bất xứng,
ý, qua mắt thấy, tai nghe hoặc nghi ngờ.
8. Tỳ Kheo ni có điều
gì cần hỏi Tỳ Kheo mà nếu vì một cớ nào đó Tỳ Kheo
không đáp, không được gạn hỏi.
-ooOoo-
Ðầu
trang | 1.01
| 1.02 | 1.03 | 1.04
| 1.05 | 1.06 | 1.07
| 1.08 |
| 2.01 | 2.02 | 2.03
| 2.04 | 2.05 | 2.06
| 2.07 | 2.08 |
2.09 | 2.10 | 3 | Mục
lục |