| 
         BÀI 4 
        Tôn giả 
        TU BỒ ÐỀ 
        (Subhuti - Giải không đệ nhất)
        -ooOoo- 
        
        Q ua 
        45 năm thuyết pháp, tùy căn cơ trình độ của chúng sinh, Phật 
        nói rất nhiều vấn đề. Từ những vấn đề đó, sau Phật 
        Niết Bàn, giáo đoàn chia thành nhiều bộ phái và có nhiều 
        quan điểm khác nhau. Nhưng không ngoài hai phái chính yếu là 
        Nam Tông và Bắc Tông. Nam Tông theo hệ kinh Pali. Bắc Tông 
        theo hệ kinh Sanskrit. Trung tâm và cơ bản của Bắc Tông là 
        Bát Nhã (Praijrà). Trung Quốc dịch là Tuệ, Trí Tuệ, không 
        trí. Trí tuệ của Bát Nhã không phải là thế trí hiện 
        thông, mà là loại trí tuệ siêu thiện ác, vô phân biệt. 
        Trong bản chất, trí tuệ này thanh tịnh và vắng lặng, 
        trong suốt như hư không, cho nên gọi là không trí, có nghĩa 
        là trí tuệ hiểu về tánh không của các pháp, vì các pháp 
        hiện tượng, vốn là duyên sinh cho nên tự thể nó là 
        không, thảy đều giả hữu, hết thảy đều vô ngã, sâu 
        xa. Tánh này không thật sâu xa huyền diệu, ngôn thuyết 
        không diễn tả hết, tâm tư cũng khó hiểu thấu. Vì không 
        mà có, có mà không, nói theo lý Bát Nhã là chân không diệu 
        hữu. Khi Phật nói kinh Bát Nhã, trong 1.250 vị đại A La Hán 
        nói chung, 10 đại đệ tử nói riêng, người thấu hiểu không 
        trí hơn hết là Tu Bồ Ðề, bậc giải không đệ nhất.
        I- DANH 
        HIỆU TU BỒ ÐỀ 
        Trong các sách sử, các 
        đệ tử Phật đều có ghi chép lịch sử hoặc nhiều hoặc 
        ít. Riêng Tu Bồ Ðề không có ghi chép về gia thế dòng họ. 
        Tuy nhiên, trong kinh Bắc Tông có chép về truyền thuyết sự 
        tích của Tu Bồ Ðề qua một vài chi tiết. 
        Tu Bồ Ðề chào đời 
        ngay trong lúc gia đình như thiếu may mắn, tất cả tài sản 
        vơi cạn, kho lẩm trống trơn một cách ngẫu nhiên. Cả nhà 
        đều lo sợ, nhiều người cho là điểm kỳ lạ, kéo đến 
        quan sát luận bàn và cuối cùng đều quyết đoán đó là một 
        điềm lành. Ngày sau đứa bé sẽ trở thành một nhân vật 
        phi thường, bậc giải không đệ nhất. Dựa theo sự quyết 
        đoán của số đông, bà mẹ đặt tên cho đứa bé là Tu Bồ 
        Ðề (Subhuti), có nghĩa là không sanh, hay Thiện Cát (tốt 
        lành) hay Thiện Hiện (hiện điềm tốt). 
        Quả thật về sau gia 
        đình gặp nhiều điều may mắn, trở lại giàu có, tiền của 
        tràn đầy kho lẩm. Tu Bồ Ðề cũng trở thành một nhân vật 
        phi thường. Tuy tuổi còn nhỏ, Tu Bồ Ðề không mấy thiết 
        tha với tài, lợi, cha mẹ cho bất cứ vật gì Tu Bồ Ðề vẫn 
        đem bố thí hết cho người thiếu thốn. Với trí thông 
        minh, Tu Bồ Ðề xét thấy muôn vật đều hư giả, trống không, 
        tự thể cũng mất khả năng chủ động. Bởi thế khi gặp 
        Phật, Tu Bồ Ðề liền xin xuất gia. 
        II- ÐẠO 
        NGHIỆP CỦA TU BỒ ÐỀ. 
        
        1. Khất thực nhà giàu 
        
        Vì sẵn có từ tâm, 
        hay thương người nghèo khổ, từ hồi còn nhỏ ở với cha 
        mẹ, Tu Bồ Ðề thường đem của cải ban bố cho người. 
        Nhiều lần bị cha mẹ rầy la, Tu Bồ Ðề vẫn không từ bỏ 
        hạnh bố thí. Bởi thế, sau khi theo Phật, mỗi sáng đi khất 
        thực, Tu Bồ Ðề không nỡ dừng bước trước cửa những 
        ngôi nhà lụp xụp, xơ xác, có vẻ nghèo nàn. Dù xa đến đâu, 
        Tu Bồ Ðề cũng đến khất thực những gia đình giàu có. Với 
        phong cách khất thực của Tu Bồ Ðề, các đệ tử của Phật 
        cho là khác thường và chẳng rõ vì sao? Bởi theo pháp hành 
        hóa của Phật, Tỳ Kheo phải tuần tự khất thực, trước 
        mỗi nhà dù nghèo hay là giàu đều phải dừng bước để 
        cho người gieo giống phước điền. Ðằng này, mỗi sáng ra 
        khỏi Tịnh Xá, Tu Bồ Ðề tách đoàn đi riêng và tránh xa 
        nhà nghèo, dù đôi lúc phải mang bát không về, chịu đói. 
        Có người hỏi lý do, Tu Bồ Ðề giải thích: 
        - Khất phú hay khất bần 
        cũng đều vì lợi ích chúng sinh cả. Nhưng khất người nghèo 
        là tước đoạt phần ăn của họ. Vả lại, nếu không có 
        vật thực để cúng dường người nghèo có thể sinh buồn 
        tủi. Thế là vô tình Tỳ Kheo đã gieo ưu sầu cho người? 
        Trong chúng đệ tử Phật, 
        ngược với Tu Bồ Ðề, có ngài Ma Ha Ca Diếp chỉ khất thực 
        nhà nghèo, tránh xa nhà giàu. Vì theo Ca Diếp, người giàu đã 
        có thừa phước báu, khỏi cần đem phước báu lại cho họ, 
        người nghèo mới cần đem gieo trồng phước báu, để mai 
        sau khỏi bị nghèo túng. Bởi thế, người xuất gia cần 
        đem ruộng phước đến cho người nghèo gieo trồng phước 
        đức. 
        Thái độ của khỏi và 
        Ma Ha Ca Diếp đã trở thành hai thái cực, nên đã bị Ðức 
        Phật quở trách. 
        - Theo Phật, con người 
        cần giữ tâm quân bình, không được phân biệt, thiên kiến. 
        Người đứng làn ranh này tất phải đối đầu với làn 
        ranh kia, cuộc đời vì có đối kháng mà tương tranh, mất bình 
        đẳng, gây nên nhiều thảm họa. Phật đi xuất gia vì muốn 
        san bằng cuộc sống bất bình đẳng, từ đó giáo pháp của 
        Phật hàm chứa tinh thần hòa đồng, không phân chia ranh giới, 
        kể cả giàu và nghèo. Phép khất thực chân chính là không 
        có lựa chọn phân chia giàu nghèo, sang hèn. Tỳ kheo cần giữ 
        oai nghi nghiêm túc, thứ lớp khất thực. 
        Với đức tính trống 
        rỗng sẵn có, Tu Bồ Ðề dễ dàng thuận theo lời Phật dạy, 
        sau khi đi khất thực không còn phân chia giàu nghèo, đem phước 
        điền đến cho tất cả mọi người. 
        
        2. Tu Bồ Ðề đón đức 
        Phật 
        
        Trong hàng Thánh chúng, 
        Tu Bồ Ðề dùng trí quán chiếu soi thấy tánh KHÔNG của 
        các pháp, thể chứng lý không. Từ đó, tôn giả thường nói 
        lý không và các oai nghi tế hạnh đều biểu thị lý không. 
        Tương truyền một hôm, 
        tại động núi Kỳ Xà Quật, trên núi Linh Thứu, trong lúc 
        đang vá áo, Tu Bồ Ðề dùng trí quán chiếu biết Ðức Phật 
        du hóa phương xa sắp trở về. Tôn giả ngưng việc vá áo, 
        định đi đón Phật. Nhưng liền nghĩ rằng: Phật là bậc 
        vô ngã, pháp thân không tịch vắng lặng, ngã và ngã sở đều 
        không, tuyệt dứt đối đãi. Phật đã từng nói, không 
        ngã, khôg nhơn, không chúng sinh, không thọ giả, các pháp rỗng 
        lặng, pháp tánh biến khắp không gian và thời gian. Pháp 
        thân Phật ở đâu mà chẳng có. Vì thế ta đi đón Phật 
        có thể bị Phật quở là người hành tà đạo. 
        Trong hội Bát Nhã: Ðức 
        Phật đã nói: 
        - "Nếu lấy sắc 
        thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, đó là người tà đạo, không 
        thể thấy Như Lai". 
        Sau khi suy nghĩ, tôn giả 
        tiếp tục ngồi vá áo một cách bình thản như không có 
        chuyện gì xảy ra. Lúc bấy giờ trên đường trở về, Phật 
        được Tăng đoàn và đông đảo quần chúng Phật tử chuẩn 
        bị đón tiếp vô cùng trang trọng. Trong số đó, có Tỳ 
        Kheo ni Liên Hoa Sắc, vị chứng thần thông đệ nhất bên nữ. 
        Vận dùng sức thần thông sẵn có, Liên Hoa Sắc quyết đón 
        Phật trước nhất, khi gặp Phật, Liên Hoa Sắc đãnh lễ 
        và bạch Phật: 
        - Bạch Ðức Thế Tôn! 
        Nhờ có phép thần thông con hay tin Thế Tôn về và chính con 
        đến đây chờ đảnh lễ Thế Tôn trước hơn ai hết. 
        Trước nét hân hoan của 
        Liên Hoa Sắc, Phật mỉm cười từ tốn nói rằng: 
        - Liên Hoa Sắc! Người 
        nghinh đón ta trước tiên chẳng phải là nhà ngươi. 
        Nhin bốn phía chẳng thấy 
        ai, tất cả đều còn ở sau xa, với vẻ hoài nghi, bàng 
        hoàng, Liên Hoa Sắc quỳ thưa: 
        - Bạch Ðức Thế Tôn! 
        Con vận dụng sức thần thông. Khi đến đây, chẳng thấy 
        có ai cả. Thế ai là người đón Ðức Thế Tôn trước con? 
        Trong lúc Liên Hoa Sắc 
        vừa chấm dứt câu hỏi, Ca Diếp và Tăng đoàn từ từ tiến 
        đến. Ðợi Tăng đoàn quy tụ đông đảo, Phật mỉm cười, 
        nói với tất cả, mà cũng để trả lời cho Liên Hoa Sắc, 
        Phật nói: 
        - Này các Tỳ Kheo! Ta cảm 
        ơn tất cả, các ông đã không quản xa xôi để đến đây 
        đốn ta. Nhưng ngư?i gặp ta trước tiên chính là Tu Bồ Ðề. 
        Hiện giờ, tại núi Kỳ Xà Quật, Tu Bồ Ðề đang chiếu quán 
        tánh không của các phép. Người thấy thể tánh rỗng lặng 
        như như bất động, chính là người trực tiếp nghinh tiếp 
        ta trước nhất. 
        Chúng đệ tử, kể cả 
        Liên Hoa Sắc, nghe Phật nói mới thấu rõ tướng của các 
        pháp là hư vọng, như chiêm bao, ảo thuật, bóng nước, ảnh 
        tượng, sương mai, điện chớp. Thể tính các pháp là pháp 
        không tịnh, rõ chân lý đó nên ông là người đã đón Ðức 
        Thế Tôn trước hơn ai hết. TU BỒ ÐỀ XỨNG ÐÁNG LÀ VỊ 
        GIẢI KHÔNG ÐỆ NHẤT TRONG HÀNG THÁNH CHÚNG. 
        
        3. Tu Bồ Ðề xướng 
        minh lý Không. 
        
        Một hôm, tại hội 
        Bát Nhã, trước 1.250 Tỳ Kheo, hướng về Tu Bồ Ðề, Phật 
        nói: 
        - Tu Bồ Ðề! Ông có 
        biện tài, thể hội sâu xa đạo lý chân không, giờ này trước 
        đại chúng ông hãy thuyết về không lý Bát Nhã cho tất cả 
        cùng nghe. 
        Nghe Phật dạy Tu Bồ 
        Ðề, đại chúng đều không rõ Tu Bồ Ðề dựa vào biện 
        tài của tự thân hay nhờ oai lực của Phật để nói lý chơn 
        không của Bát Nhã? 
        Rõ biết tâm lý đại 
        chúng, Tu Bồ Ðề rào đón, nói rằng: 
        - Thưa đại chúng! 
        Muốn tỏ lòng cung kính Phật là phải vâng lãnh mệnh lệnh 
        của Phật. Tôi vốn biết sức người có hạn, trí tuệ biện 
        tài còn non, nếu không nương sức oai lực của Phật, tôi 
        phải thúc thủ (bó tay). 
        Với chân lý Phật nói 
        thật là sâu xa huyền diệu, không nhờ oai lực của Phật, 
        tôi đâu có thể thuyết được tánh không của các pháp. Như 
        chúng ta đã biết muôn sự muôn vật, nói khác hơn là các 
        pháp đều do nhân duyên mà sinh khởi, cho nên các Pháp là 
        không, là giả, là không tự chủ. Thực tướng các pháp là 
        chân không diệu hữu. Trong hội Bát Nhã Phật nói: "Sắc 
        tức là không, không tức là sắc, sắc chẳng khác không, 
        không chẳng khác sắc, thọ tưởng thành thức cũng giống 
        như vậy". 
        Cái có của các pháp 
        là giả danh. Không có thật. Bởi thế, các pháp chẳng sinh, 
        chẳng diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng dị, chẳng 
        lai, chẳng xuất. 
        Các pháp vốn không tướng 
        cho nên đâu còn tướng sinh, diệt, sạch, dơ, thêm, bớt. Rồi 
        từ đó 6 căn, 6 trần, 6 thức, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới, không 
        vô minh, cũng không vô minh hết. Ðã là giả danh cho nên 
        không những sinh, lão, bệnh, tử, khổ, tập, diệt, đạo đã 
        không mà không luôn cả trí và cái sở đắc, kể luôn cả 
        cái tâm. 
        - Phật nói: Các tâm đều 
        là phi tâm, thế mới gọi là tâm. Tâm quá khứ hiện tại 
        và cả vị lai đều không nhận được. Các pháp vốn không 
        nên không có chủ thể, gọi là vô ngã, vì ngã cũng là giả 
        danh. Có ly tất cả mới đạt trung đạo, mới thật đạt 
        tướng Niết Nàn, tịch diệt vắng lặng. 
        Trong giáo đoàn của Phật, 
        chỉ có Tu Bồ Ðề nhận thức sâu sắc về không tánh của 
        các pháp, hiểu thấu đáo không lý và thật chứng không 
        trí, bởi thế Tu Bồ Ðề được xưng tôn là bậc giải 
        không đệ nhất. 
        III- NHẬN 
        THỨC VÀ KẾT LUẬN 
        Khi còn tại thế, lúc 
        nói kinh Bát Nhã, Phật xương minh lý tính chơn không diệu hữu 
        của các pháp duyên sinh. Tu Bồ Ðề được thừa nhận là bậc 
        đã chứng đắc về không trí và không lý. 
        Mãi đến hơn 600 năm 
        sau, với luận lý Bát nhã Bồ Tát Long thọ mới triển khai 
        thành giáo nghĩa Bát Nhã, xây dựng thế giới quan chân 
        không diệu hữu của giáo hệ Bắc Tông qua con đường trung 
        đạo. 
        Hịên nay trong Ðại Tạng 
        chữ Hán có đến 720 quyển kinh thuộc về hệ Bát Nhã. 
        Từ xưa, đầu mối của 
        giáo hệ Bắc Tông, kinh Bát Nhã là nguồn mạch. Nếu không 
        có kinh Bát Nhã thuyết lý chân không diệu hữu thì các 
        trào lưu tư tưởng thuộc hệ Bắc Tông không thể hình 
        thành và tồn tại đến ngày nay. Bởi thế, chúng ta có thể 
        nói: TU BỒ ÐỀ LÀ TỔ ÐẦU TIÊN CỦA PHÁI BẮC TÔNG, còn 
        nếu thành lập Tông Bát Nhã thì Tu Bồ Ðề đương nhiên 
        là thủy tổ. Vì chính Tu Bồ Ðề là bậc đã tu quán bằng 
        không trí Bát Nhã và đã thành bậc giải không đệ nhất. 
        Với lý duyên sinh, các 
        pháp trùng trùng duyên khởi liên hệ với nhau chằng chịt, 
        từ đó tương truyền khi Tu Bồ Ðề mới sinh chính là lúc 
        tài sản gia đình hết sạch, kho lẫm trống trơn, không phải 
        là vấn đề hoang đờng, duy lý hay duy tâm. Phật giáo không 
        duy gì hết. Ðức Phật chỉ thuyết minh cái thực tại của 
        các pháp, để giúp con người hiểu, tu chứng, giải thoát. 
        Thực tại là như vậy, ta không nên rơi vào bất cứ cái 
        duy nào. Với lý duyên sinh cái này có thì cái kia có, cái 
        này không thì cái kia không... Cái này làm thuận duyên cho 
        cái kia sinh cái này tạo nghịch duyên cho cái kia hoại diệt. 
        Ðó là Tăng thượng duyên (Thuận và nghịch), một trong 4 
        duyên (nhân duyên, sở nhân duyên, đẳng vô gián duyên và tăng 
        thượng duyên). Con người có nhiều ảnh hưởng chi phối sự 
        vật chung quanh và ngược lại. Bởi thế tài sản trong kho lẩm 
        của gia đình Tu Bồ Ðề có thể liên hệ hữu cơ với tính 
        giải không của Tu Bồ Ðề. 
        Trong gia đình hay ngoài 
        xã hội cũng thế, cụ thể dễ nhận hơn như trong một gia 
        đình, phòng ốc, nhà cửa, vườn tược, tươm tất sạch sẽ 
        xanh tương biểu thị cho người trong gia đình mang tính sạch 
        sẽ, tươm tất, cần cù, siêng năng... là một gia đình 
        đang thịnh, ngược lại là biểu thị của một gia đình 
        đang suy. Ðể nói lên sự thịnh - suy của một gia đình, 
        phong giao Việt Nam có câu: "Ngày xem Tre, đêm nghe chó sủa". 
        Có nghĩa là: Nếu thấy tre vườn xanh tươi, chó sủa hùng mạnh 
        thì biết là gia đình hiện hữu trong đó đang thịnh, ngược 
        lại là biểu thị cho suy tàn. 
        Trong một quốc gia, xã 
        hội, nếu mọi người mang tính thiện: "Cần kiệm, 
        liêm chính, chí công, vô tư", quốc gia, xã hội, nhất 
        định đang trên đà giàu mạnh. Ngược lại, con người mang 
        tính xấu, quốc gia xã hội đang là con bệnh trầm kha, 
        không phương cứu chữa. Ðó là lý tất yếu. Mọi sự kiện 
        trong đời đều liên hệ hữu cơ với nhau thật chặt chẽ. 
        Nhìn chung, qua cuộc đời 
        và đạo nghiệp của Tu Bồ Ðề, có hai điểm đáng cho 
        chúng ta noi gương. 
        - Hạnh bố thí. 
        - Trí giải không. 
        Hai điểm đó lại tương 
        quan với nhau. Nhờ thấu rõ tánh không của các pháp duyên 
        sinh là không, là giả danh, là vô ngã, Tu Bồ Ðề mới 
        không ích kỷ, tham lam, chấp ngã... để đem của cải bố 
        thí cho người nghèo thiếu... 
        Lại nhờ xả ly, bố 
        thí, Tu Bồ Ðề mới thực sự biểu thị cho sự tu chứng 
        tánh không của các pháp để trở thành bậc giải không đệ 
        nhất trong hàng Thánh chúng. 
        * * * 
        
        CÂU HỎI THẢO LUẬN 
        
          1. Tại sao Tu Bồ Ðề 
          có danh hiệu là Tu Bồ Ðề? 
          2. Tại sao Tu Bồ Ðề 
          đi khất thực nhà giàu? 
          3. Phép đi khất thực 
          phải như thế nào? 
          4. Tu Bồ Ðề và 
          Liên Hoa Sắc đã đón Phật như thế nào? 
          5. Tu Bồ Ðề quán 
          chiếu các pháp như thế nào? 
          6. Sự liên hệ giữa 
          Kinh Bát Nhã với hệ phái Bắc Tông như thế nào? 
          7. Qua cuộc đời và 
          đạo nghiệp của Tu Bồ Ðề chúng ta có thể học hỏi 
          được điều gì? 
        
         
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | 1.01 
        | 1.02 | 1.03 | 1.04 
        | 1.05 | 1.06 | 1.07 
        | 1.08 | 
        | 2.01 | 2.02 | 2.03 
        | 2.04 | 2.05 | 2.06 
        | 2.07 | 2.08 | 2.09 
        | 2.10 | 3 | Mục 
        lục  |