Một trong những điều buồn thảm nhất của các bậc cha mẹ là sinh ra một
đứa con tàn tật. Về phương diện thể chất, điều này là một gánh nặng về
phí tổn tiền bạc và công lao chăm sóc cho đứa trẻ. Về phương diện kinh
tế xã hội, đó là một gánh nặng của toàn xã hội vì phải nuôi dưỡng một
phế nhân có thụ hưởng mà không sản xuất. Về phương diện tâm linh, điều
này có thể gây cho con người một sự hoài nghi về lòng nhân từ của Thượng
Đế, và một sự băn khoăn lo ngại cho hạnh phúc tương lai của đứa trẻ.
Nhưng đối với những người cha mẹ đau khổ đó, niềm tin vào luật nhân quả
có thể mang đến cho họ lòng can đảm và nghị lực.
Trước hết, theo luật nhân quả thì tất cả mọi sự tai ương, tật ách hay
đau khổ của con người đều có những nguyên nhân nhất định, do chính ta đã
tạo ra trong quá khứ. Hơn nữa, sự liên hệ giữa cha mẹ và đứa con bị phế
tật cũng phải hiểu là do nhân quả. Và khi tin hiểu được như thế, cho dù
phải khổ đau hoặc vất vả rất nhiều khi có một đứa con dị tật, những
người cha mẹ vẫn có thể chấp nhận sự thật đó mà không sinh lòng oán hận
hay chán nản.
Những cuộc soi kiếp cho những đứa trẻ bị câm điếc hoặc những khuyết tật
khác luôn cho biết rằng:
– Quả báo xấu này vừa là của cha mẹ, vừa là của bản thân đứa trẻ.
Một trong những thí dụ điển hình về loại quả báo này là trường hợp của
một cô gái nhỏ người Do Thái mới mười hai tuổi, bị chứng động kinh từ
thuở sơ sinh. Chứng bệnh này không những rất đáng sợ khi cô bị lên cơn,
mà còn là một trở ngại rất lớn cho sự phát triển cá tính của cô.
Theo cuộc soi kiếp thì người cha, người mẹ và cô gái, cả ba người đã
từng sum họp với nhau trong kiếp trước trong một gia đình ở Bắc Mỹ, hồi
thời kỳ khởi nghĩa giành độc lập. Trong kiếp sống đó, cha mẹ cô gái nhận
thấy rằng việc đi theo chế độ cũ của người Anh có lợi về vật chất hơn là
theo phe khởi nghĩa, nên họ hoạt động để cung cấp tài liệu tin tức cho
người Anh. Cô gái khi đó là một thiếu nữ đẹp và thông minh, và điều này
là những yếu tố có thể giúp ích cho những mưu toan đen tối của cha mẹ
cô. Thay vì giữ cô trong nhà, cha mẹ cô lại khuyến khích cô dùng sắc đẹp
và sự quyến rũ kia vào những mục đích chính trị có lợi cho gia đình họ.
Mặc dầu cuộc soi kiếp không nói gì về kết quả tấn tuồng ám muội kia,
nhưng nó đã vạch rõ những hậu quả xấu của hành động ấy trong kiếp hiện
tại. Xem xét những hậu quả này, chúng ta mới thấy rằng luật nhân quả
luôn tác động một cách mầu nhiệm và chính xác vô cùng, không hề sai
lệch. Cuộc soi kiếp cho cô gái bắt đầu như sau:
– Những người cha mẹ trong trường hợp này nên suy xét những kinh nghiệm
đã qua bằng một cuộc soi kiếp cho chính họ để thấy được những bổn phận
và trách nhiệm của họ đối với con cái.
Bất cứ người nào nhìn thấy sự đau khổ hiện tại của cô gái này đều phải
nhận rõ sự kiện “nhân nào quả nấy”, vì quả thật là “ai gieo giống nào sẽ
gặt giống nấy”. Cuộc sống phóng đãng trụy lạc của cô gái này trong kiếp
trước đã để lại hậu quả cho cơ thể của cô trong hiện tại, vì ai gieo gió
ắt sẽ gặt bão. Nhưng cha mẹ cô cũng phải chịu trách nhiệm một phần lớn
về cuộc đời ô trược của của cô, vì họ đã thúc đẩy điều đó nhằm mục đích
trục lợi. Bởi đó, chính họ là người phải chịu gánh lấy hậu quả xấu trong
kiếp này.
Bản thân người con gái ấy bị chứng động kinh trong hiện tại là quả báo
về sự dâm đãng phóng túng trong kiếp trước. Và chính cha mẹ cô chứ không
phải ai khác phải tiếp tục có trách nhiệm nuôi dưỡng săn sóc người con
bệnh tật này, vì sự sa đọa của cô trước đây phần lớn là do lỗi lầm của
họ.
Một trường hợp lý thú khác là của một thiếu nữ ở New York bị mù mắt từ
khi lọt lòng mẹ. Nhìn qua các tấm ảnh của cô ta thì thấy cũng khá đẹp.
Người mẹ đã yêu cầu ông Cayce khám bệnh cho cô ấy, nhưng vì không có một
cuộc soi kiếp nên không rõ sự mù lòa này có nguyên nhân từ đâu. Tuy
nhiên, người mẹ có yêu cầu một cuộc soi kiếp cho chính bà ấy, và nhờ đó
người ta mới thấy rõ mối liên hệ về nhân quả giữa hai mẹ con.
Trong một kiếp trước, người mẹ đã từng làm một giáo sư. Trong cuộc soi
kiếp, ông Cayce nói:
– Người này đã lợi dụng một cơ hội để làm tiền và gieo sự rối rắm vào
cuộc đời của một người đàn bà khác. Vì thế, trong kiếp này hai vợ chồng
người ấy phải chịu quả báo vì thuở xưa đã hành động theo những mục đích
ích kỷ mà không kể đến sự tổn hại gây ra cho người khác.
Người ta chỉ có thể phỏng đoán về tánh chất thật sự của tấn bi kịch này,
trong đó hình như người cha cũng đóng một vai trò quan trọng. Tất cả
những gì xảy ra đã được biết là vị giáo sư nói trên đã lợi dụng một
người đàn bà để làm lợi riêng cho mình, khiến cho người đàn bà ấy phải
buồn rầu và chịu nhiều đau khổ. Bản thân người đàn bà ấy cũng có một
nghiệp ác từ trước dẫn đến quả báo là sự mù lòa. Kết quả của sự tương
hợp này là cô đầu thai làm con gái của vị giáo sư trước kia.
Như vậy, việc người mẹ hiện nay (là vị giáo sư trước kia) sinh ra đứa
con mù lòa chính là quả báo của hành vi xấu ác trong kiếp trước, nhưng
đồng thời bản thân đứa con chịu mù lòa cũng là do ác nghiệp của chính
nó.
Trường hợp thứ ba là một trường hợp rất lý thú về sự mất trí khôn của
người con vì tội lỗi của một người mẹ. Trong một kiếp trước ở Palestine,
người đàn bà này đã chế nhạo những kẻ tàn tật, bởi đó cô gây ra nhiều
nghiệp ác dẫn đến việc cô sinh ra một đứa con thiếu trí khôn trong kiếp
này.
Trong một trường hợp khác, đương sự là một thiếu nữ bị chứng to đầu vì
trong não có nước, một chứng bệnh rất kỳ lạ và ít có. Người mẹ đã chết
chỉ vài ngày sau khi sinh con, và người cha đã gửi đứa con vào một nhà
từ thiện Công giáo. Khi đứa con lên bốn tuổi, người cha đến xin ông
Cayce soi kiếp cho nó. Cuộc soi kiếp nói:
– Em bé này rất thông minh, hiểu biết hết mọi chuyện, biết gọi tên từng
người và có thể theo dõi một cuộc nói chuyện lý thú. Nhưng em không thể
đi đứng bình thường vì đầu em quá nặng và em phải luôn chú ý giữ cho đầu
không bị nghiêng.
Ông Cayce không cho biết rõ lý do của căn bệnh ấy. Tuy thế, khi ông soi
kiếp cho người cha, vì người này muốn biết sự liên hệ giữa ông với đứa
con gái trong kiếp trước là như thế nào, thì chúng ta có thể qua đó để
hiểu được phần nào câu chuyện. Nhưng câu trả lời của ông khá vắn tắt và
khô khan:
– Trong kiếp trước, ông có phương tiện giúp đỡ kẻ khác nhưng ông đã làm
ngơ không chịu giúp ai cả! Vậy trong kiếp này ông nên nuôi dưỡng lòng
thương người.
Cuộc soi kiếp không nói ra đầy đủ chi tiết để ta biết rõ tánh ích kỷ của
người này là như thế nào. Chỉ biết rằng trong kiếp trước ông ta là một
người lái buôn ở Fort Dearborn, thâu gom được rất nhiều của cải vật chất
nhưng lại rất kém cỏi về phương diện tâm linh.
Xét theo trường hợp này, ta thấy rằng nếu thản nhiên và làm ngơ trước sự
đau khổ của kẻ khác thì chính ta rồi sẽ phải trải qua những đau khổ đó.
Một người nào đó có thể không quá độc ác đến mức cố ý gây thương tổn cho
kẻ khác, nhưng người ấy lại thờ ơ không chịu làm bất cứ việc lành nào.
Một thái độ thản nhiên trước sự đau khổ của đồng loại có thể không phải
là một tội ác lớn để gây nên một nghiệp quả tàn tật xác thân. Nhưng xét
từ một góc độ khác thì đó là một thái độ hoàn toàn thiếu thiện chí và sự
thông cảm. Bằng cách này hay cách khác, nếu người ta không biết lưu tâm
đến những sự lầm than khốn khổ của người khác, không có lòng nhân từ và
thương xót kẻ khác thì điều tất nhiên là họ không dựa vào đâu để có thể
làm sinh khởi và nuôi dưỡng tâm hướng thiện.
Cho nên, sự thờ ơ lãnh đạm trước nỗi đau của người khác không thể không
chiêu cảm những quả báo không tốt đẹp. Kết quả những cuộc soi kiếp của
ông Cayce cho thấy là trong trường hợp này thì quả báo ấy chính là nhận
lấy cái kinh nghiệm đau thương của một người cha sinh ra một đứa con tàn
phế! Do sự đau khổ nhìn thấy đứa con bị phế tật, mà người cha ấy mới có
dịp cảm thông với sự đau khổ của những người khác.
Những trường hợp vừa kể trên cho chúng ta thấy rằng giữa cha mẹ và con
cái luôn có những nhân duyên và nghiệp quả ràng buộc lẫn nhau. Ngoài ra
cũng có những sợi dây duyên nghiệp giữa anh chị em trong một gia đình.
Trong những hồ sơ của ông Cayce, có một trường hợp lạ lùng về sự thù
nghịch giữa hai chị em nhà kia có thể minh chứng cho điều này.
Kể từ thuở còn thơ ấu, giữa hai chị em này đã có sự ganh ghét, đố kỵ và
thù hằn lẫn nhau. Giữa hai chị em luôn xảy ra những cuộc xung đột cãi
vã, thường khi chỉ vì những duyên cớ nhỏ nhặt không đâu. Sự thù nghịch
đó không hề xảy ra giữa những người anh em khác trong gia đình.
Xét theo quan điểm tâm lý của Freud thì sự thù nghịch giữa hai chị em
nhà này có thể truy nguyên ra bởi sự tranh giành tình thương của người
cha. Nhưng theo sự quan sát bằng thần nhãn của ông Cayce thì giữa hai
người có một sự ghen tuông sâu xa về tình cảm, vì trong một kiếp trước,
người chị đã có sự hiểu lầm về mối quan hệ giữa người em gái mình với
chồng của cô.
Khi thực hiện một cuộc soi kiếp cho cô em, ông Cayce đã cho biết về
những mối liên hệ trong kiếp trước giữa cô với người chồng và người chị
của cô hiện nay. thank
Trong kiếp trước, ba người cũng có mối quan hệ gia đình với nhau. Người
chồng của cô bây giờ trong kiếp đó lại là chồng của người chị. Một ngày
kia, người chồng đau nặng và vợ anh ta lại vắng nhà vì phải đi xa. Người
em vợ, tức cô gái đang được soi kiếp, khi ấy lại là một nữ y tá và đã
hết lòng chăm sóc cho anh rể. Người chồng nhanh chóng khỏi bệnh và phục
hồi sức khỏe. Mặc dù sự chăm sóc của cô em vợ không hề vượt quá giới hạn
của một nữ y tá đối với bệnh nhân, nhưng sự chăm nom tận tụy của cô
không khỏi làm cho người anh rể phải bày tỏ một sự cảm kích và biết ơn
sâu sắc. Mối quan hệ trong sáng giữa hai người không ngờ lại làm cho
người chị hiểu lầm và đem lòng ghen tức. Sự ghen tuông vô lý ấy không
bao lâu sau đã được nuôi lớn dần thành một sự thù ghét, hằn học, và sự
căm hờn uất hận đó đã để lại ảnh hưởng sâu xa trong tâm hồn người đàn bà
khó tính ấy đến nỗi cho đến kiếp này nó vẫn còn biểu lộ rõ nét trong
tánh tình của cô ta.
Dưới đây là một trường hợp thứ hai về nghiệp quả ràng buộc giữa người
anh và một cô em gái, hai anh em cùng sinh ra tại Anh quốc.
Trong Thế chiến thứ hai, hai người được một người phụ nữ Mỹ săn sóc. Bà
này khi đó đang làm hiệu trưởng một trường học ở tiểu bang New England.
Người anh lên mười tuổi, còn cô em mới lên năm tuổi. Bà mẹ nuôi của hai
em là người biết rõ tâm lý trẻ con, nhờ có học qua về phần lý thuyết
cũng như đã từng thực nghiệm trong đời làm nghề dạy học. Bà bắt đầu nhận
thấy thái độ thù nghịch rõ rệt giữa hai anh em này, và đặc biệt là người
anh tỏ ra luôn lấn lướt, “ăn hiếp” em mình.
Bà hiệu trưởng liền yêu cầu ông Cayce soi kiếp cho cả hai đứa bé. Cuộc
soi kiếp đã tiết lộ cho biết một sự kiện rất lý thú:
– Hai đứa trẻ này trong kiếp trước là người thuộc hai bộ lạc đối nghịch
ở xứ Ecosse. Hai bộ lạc này đã từng chia rẽ và thù nghịch nhau vì một sự
tranh chấp từ lâu đời và đã từng đánh nhau nhiều trận ác liệt. Sự thù
nghịch ấy tồn tại trong tâm thức của những người dân thuộc hai bộ lạc và
biểu lộ trong kiếp này qua sự thù nghịch giữa hai đứa bé!
Hai thí dụ trên đây có thể chứng minh cho thuyết luân hồi nhân quả và
đưa ra lời giải đáp những sự thù nghịch hay hờn ghen vô căn cứ giữa
những người trong cùng một gia đình, làm cho họ bị giày vò khổ sở mà
không hiểu được nguyên do.
Mọi gia đình đều có những xung đột do sự đụng chạm nhất thời. Tuy nhiên,
những sự đụng chạm nhất thời đó thường không tạo thành một khuynh hướng
thù nghịch rõ rệt. Và một khi có sự xuất hiện của những khuynh hướng thù
nghịch không rõ nguyên nhân thì điều đó rất thường có thể do những
nguyên nhân từ nhiều kiếp về trước.
Việc tìm ra nguyên nhân ở một kiếp trước về sự thù nghịch giữa hai người
không đủ để làm tiêu tan sự thù nghịch ấy. Nếu hai người ấy không muốn
kéo dài sự thù nghịch từ kiếp này sang kiếp khác thì trong kiếp này họ
phải cố gắng nhẫn nại thay thế sự căm thù ấy bằng tình thương, và thay
đổi sự đố kỵ chia rẽ bằng một lòng ưu ái và thiện cảm.
Lời khuyên trên đây không những áp dụng cho những anh em trong một nhà
mà thôi, nó còn áp dụng cho mọi sự giao tế ngoài xã hội, cùng mọi sợi
dây liên hệ ràng buộc chúng ta với tất cả mọi người trong cuộc đời.
Xét cho cùng, những sự thay đổi vị trí quan hệ trong một gia đình qua
nhiều kiếp sống khác nhau cho thấy rằng thật ra mỗi chúng ta không bao
giờ thuộc về một gia đình riêng biệt nhất định nào cả. Hay nói đúng hơn,
hết thảy những mối quan hệ giữa cuộc sống thế gian này đều chỉ có giá
trị nhất thời, tạm bợ, không bền chắc. Chỉ có một giá trị duy nhất luôn
tồn tại qua mọi kiếp sống là tình thương chân thật vô điều kiện mà chúng
ta đã dành cho người khác.