Vấn đề hôn nhân là một vấn đề phức tạp và khó khăn nhất trong đời người.
Hôn nhân là một nguồn hạnh phúc vô tận nếu nó được thành tựu một cách mỹ
mãn. Nhưng nếu thất bại thì sẽ là một nguồn đau khổ rất lớn. Hôn nhân
đem đến cho đời người những cực điểm về vinh nhục, sướng khổ, và giữa
hai cực điểm đó, có vô số những trạng thái trung gian, hoặc vừa khổ vừa
sướng, hoặc vừa vinh vừa nhục.
Về phương diện pháp lý, hôn nhân là một hợp đồng sống chung dài hạn giữa
hai người khác phái. Về phương diện nhân sinh, đó là một sự phối hợp
giữa nam và nữ tính, do bản năng thúc đẩy của những nhu cầu sinh lý và
tình cảm.
Hội Thánh Gia Tô xem hôn nhân như một nghi thức thiêng liêng. Khoa tâm
lý học xem hôn nhân như một vấn đề xử thế và sinh hoạt. Những kẻ nhạo
đời xem hôn nhân như một cái bẫy mà chỉ những người ngu ngốc mới chui
vào. Nhưng theo một định nghĩa rộng hơn căn cứ vào thuyết luân hồi thì
những quan điểm kể trên đều chỉ đúng có một phần. Một nhà tâm lý học
định nghĩa rằng hôn nhân là một “sự phối hợp của hai cá nhân khiếm
khuyết và bất toàn” cùng góp sức với nhau để xây dựng nền hạnh phúc
chung cho cả hai người. Định nghĩa này sẽ trở nên gần gũi hơn với quan
điểm của nền minh triết cổ truyền nếu ta hiểu rằng việc xây dựng nền
hạnh phúc cũng chính là cố gắng để tự vươn lên hoàn thiện bản thân. Theo
quan điểm rộng rãi này thì hôn nhân là một cơ hội để hai tâm hồn bất
toàn bổ khuyết và giúp đỡ cho nhau và cùng nhau thanh toán những món nợ
nhân quả, rèn luyện những đức tính trên con đường vươn đến sự hoàn thiện
về mặt tâm linh.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã nhiều lần xác nhận rằng không có
một mối liên hệ quan trọng nào trong đời người mà lại do sự ngẫu nhiên
tình cờ. Vấn đề hôn nhân càng chứng minh cho điều này một cách triệt để.
Không có một cuộc hôn nhân nào bắt đầu từ con số không, vì đó bao giờ
cũng là sự nối tiếp của một câu chuyện dài đã bắt đầu từ quá khứ.
Các cuộc soi kiếp cho biết rằng, bằng cách này hay cách khác, những
người kết hôn với nhau đều đã có nhân duyên trong các kiếp trước. Đó là
một điều lý thú!
Trong những cuộc soi kiếp, ông Cayce xem vấn đề hôn nhân như một điều tự
nhiên của con người, và ông thường nói:
– À! Hôn nhân là một việc tốt. Đối với mọi con người sống trên thế gian,
điều đó luôn là một sinh hoạt tự nhiên.
Có người hỏi:
– Tôi có nên kết hôn trong lúc này hay không?
Ông Cayce đáp:
– Lúc nào cũng được cả, nếu anh nghĩ rằng mình đã chọn được người bạn
trăm năm thích hợp. Điều đó tùy thuộc vào mục đích anh theo đuổi khi anh
muốn kết hôn với người ấy.
Một gia đình ấm cúng, đó là hình ảnh của trạng thái hòa hợp hạnh phúc mà
tất cả mọi người đều mong muốn. Về điều này, ông Cayce tuyên bố như sau
với một người được ông soi kiếp:
– Sự thành công của anh phải là cái tổ ấm, vì trên đời không có sự thành
công nào lớn hơn nữa.
Ít người được thành công về cả hai khía cạnh nghề nghiệp và hạnh phúc
gia đình. Nhưng hạnh phúc gia đình mới là sự thành công lớn nhất, và
người nào xem thường điều ấy sẽ tự tạo nên những trách nhiệm nặng nề về
sau. Vì gia đình là biểu tượng gần nhất đối với nguyện vọng sống hạnh
phúc của một người và đó cũng thường là nền tảng tất yếu cho một đời
sống hạnh phúc giữa thế gian. Bởi vậy, có thể nói rằng một gia đình hạnh
phúc chính là cõi thiên đàng ở giữa thế gian này!
Vì gia đình là nơi người ta cùng theo đuổi một mục đích chung với sự gắn
kết của một mối tình thân ái, nên nó cũng là nơi thể hiện nhiều nhất
những mối tương quan tốt đẹp giữa con người với con người. Mục đích của
gia đình là sự sáng tạo khi mỗi thành viên trong đó đều hợp nhất với
nhau trong một lẽ sống và một lý tưởng chung. Khi ấy, gia đình sẽ là cội
nguồn tạo ra những đời sống hạnh phúc cũng như mang lại niềm hạnh phúc
vô biên cho mỗi một thành viên của nó.
Những quan niệm trên đây không phải mới lạ gì. Tuy nhiên, điều khác biệt
là những cuộc soi kiếp trình bày những quan điểm trên theo một cách vừa
tự do vừa tân tiến đối với vai trò của người phụ nữ. Điều lý thú ở đây
là vấn đề nam nữ bình quyền và quyền tự do của phụ nữ trong việc tự
quyết định cuộc đời mình được xem như một vấn đề đương nhiên.
Ý niệm về sự đương nhiên này được biểu hiện rõ hơn trong những cuộc soi
kiếp về các trường hợp mà đương sự phải chọn lựa một trong hai điều, đó
là nghề nghiệp và hôn nhân. Thần nhãn của ông Cayce không chấp nhận quan
niệm độc tài chuyên chế và xem vai trò của phụ nữ chỉ là ở trong gia
đình, giới hạn trong việc chăm sóc cho chồng con.
Các cuộc khám bệnh thường đưa ra những phương pháp điều trị không theo
một đường lối duy nhất. Tương tự như vậy, không hề có một phép xử thế
nhất định cho tất cả mọi trường hợp về vấn đề hôn nhân.
Những nguyên tắc tâm lý và đạo đức bao giờ cũng dựa trên một nền tảng
như nhau, nhưng sự biểu đạt cụ thể thành hành động luôn khác biệt nhau
tùy theo từng trường hợp. Đối với một số phụ nữ, ông Cayce khuyên họ nên
lập gia đình; nhưng đối với một số khác ông lại khuyên họ nên theo đuổi
một nghề nghiệp. Có vài người, ông khuyên họ nên lo cho sự nghiệp trước,
rồi sẽ lo việc lập gia đình sau. Với một số người khác thì ông khuyên họ
nên chú trọng đồng thời cả hai việc lập gia đình và theo đuổi nghề
nghiệp. Đối với những người khác nữa, ông khuyên họ hãy chọn một trong
hai điều; vì họ không thể cùng lúc thành công trong cả hai lãnh vực.
Một thiếu nữ mười tám tuổi có tánh e lệ, rụt rè và nhiều bất mãn về cuộc
đời, muốn biết xem cô có thể làm gì trong tương lai. Cuộc soi kiếp nhấn
mạnh rằng trước khi nghĩ đến hôn nhân, cô nên làm một công việc từ thiện
như săn sóc, giúp đỡ các trẻ em bất hạnh. Cuộc soi kiếp cho biết:
– Nếu người này tìm cách có được hạnh phúc theo con đường hôn nhân thì
cô sẽ bị thất vọng đau đớn, trừ phi trước khi lấy chồng cô đã có làm
những công tác trợ giúp xã hội và săn sóc trẻ em bất hạnh.
Cuộc soi kiếp nói thêm rằng, cô cũng có thể giúp việc săn sóc các em gái
nhỏ trong trại mồ côi hay một tổ chức từ thiện tương tự. Một nhà tâm lý
học sẽ nhìn nhận rằng lời khuyên đó rất lành mạnh, theo quan điểm thuần
túy tâm lý. Dạy dỗ các thiếu niên nhi đồng là một phương tiện rất tốt để
cởi mở và phát triển sớm thiên chức làm mẹ. Nhờ đó, cô gái này sẽ có
được sự tự tin trước khi lập gia đình. Trong trường hợp của cô này, nếu
không có đức tính ấy thì sẽ không có cơ hội xây dựng được hạnh phúc gia
đình. Hôn nhân có thể sẽ hoàn toàn thất bại nếu cô ấy chọn một người bạn
trăm năm không thích hợp, và sự lúng túng trong việc chăm sóc con cái
vào buổi đầu có thể là nguyên nhân làm sụp đổ tất cả.
Mặt khác, cho dù cô có tìm được một người chồng thích hợp, sự thất bại
vẫn có thể xảy đến nếu một trong hai người không có đủ sự hòa hợp cần
thiết để đương đầu với những vấn đề do hoàn cảnh đưa đến và những căng
thẳng mà cuộc sống hôn nhân tạo nên. Vì thế, trong trường hợp này thì
phương pháp tốt nhất là hãy làm quen với một công tác xã hội và theo
đuổi một nghề nghiệp trước khi lập gia đình.
Trong một trường hợp khác, một thiếu nữ có nhiều năng lực được khuyên là
nên lập gia đình đồng thời với việc theo đuổi một nghề nghiệp, nhưng chỉ
nên kết hôn với một người hoàn toàn thích hợp với cô mà thôi. Người
thiếu nữ này những kiếp trước đã từng làm nhiều công việc khác nhau và
có năng khiếu đặc biệt về các ngành điêu khắc, làm đồ gốm, dệt vải cũng
như năng khiếu về âm nhạc và khiêu vũ .v.v... Với một năng khiếu đa dạng
và phong phú như thế, cô có đủ điều kiện cần thiết để trở thành một nhà
lãnh đạo. Sau khi đã nêu rõ các điểm nêu trên, ông Cayce cho biết thêm:
– Tôi thấy rằng người này nên lập gia đình đồng thời với việc theo đuổi
nghề nghiệp yêu thích, với điều kiện là nghề nghiệp đó phải thích hợp cả
với người chồng mà cô chọn lựa. Bởi vì nếu người chồng đó không phải là
một người hoàn toàn thích hợp để có thể góp phần xây dựng vào công việc
mà cô theo đuổi thì sẽ có những bất đồng ý kiến và những sự thất vọng
chua cay làm tổn thương sâu sắc tâm hồn cô.
Trái lại, dưới đây là một trường hợp lý thú khác của một nữ diễn viên
trẻ đẹp và tài năng. Cô này yêu một người và muốn biết xem có thể tiếp
tục làm nghề diễn viên sau khi kết hôn hay không?
Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce trả lời rất rõ ràng rằng:
– Không thể được! Người này có những đức tính cần thiết để thành công
trên sân khấu hoặc trong gia đình; nhưng cô không thể thành công trong
cả hai lãnh vực. Vậy cô hãy tự mình chọn lựa!
Xem xét tỉ mỉ những cuộc soi kiếp kể trên, ta thấy rằng những lời khuyên
luôn nhằm mục đích dìu dắt đương sự hướng về việc phát triển sự hoàn
thiện tâm linh. Nếu một phụ nữ muốn theo đuổi một nghề nghiệp với những
lý do ích kỷ như là tiền bạc, quần áo đẹp, địa vị cao sang, quyền lực,
danh vọng cá nhân .v.v... thì ông Cayce luôn thấy rõ được tâm địa ấy và
sẽ khuyên cô ta nên hướng về việc lập gia đình. Lời khuyên này được đưa
ra không phải vì lý do tình cảm hay theo tục lệ truyền thống về tánh
cách thiêng liêng của gia đình và vai trò của người phụ nữ. Nó được dựa
trên quan niệm rằng những động cơ thúc đẩy và mục đích hướng đến là
những tiêu chuẩn để xét đoán mọi hành động của con người; rằng một hành
vi ích kỷ bao giờ cũng bị đánh giá thấp hơn một hành động vị tha, và
những trách nhiệm mà người ta phải gánh vác trong sự kết hôn và lập gia
đình dễ đưa con người đến hành động vị tha hơn là những thú vui mà người
ta tìm kiếm để thụ hưởng riêng trong một vài nghề nghiệp.
Bởi vậy, ông Cayce thường khuyên nhiều phụ nữ, dầu rằng có tài năng, nên
tạo lập gia đình và tập trung vào việc chăm sóc, nuôi dạy con cái; vì đó
là khuôn thước tốt nhất để giúp họ khai mở những đức tánh tâm linh còn
thiếu sót, để kiềm chế bớt lòng ích kỷ, dù họ có ý thức được việc đó hay
không, trong khi theo đuổi con đường sự nghiệp.
Mặt khác, một vài phụ nữ có tài năng có thể thành thật muốn đem khả năng
của mình để phụng sự nhân loại. Đối với một phụ nữ thuộc về loại này thì
một tổ ấm, một người chồng, một gia đình có thể là những chướng ngại cho
sự phát triển tối đa những khả năng của họ. Bởi vậy, ông Cayce thường
khuyên họ hãy trì hoãn việc lập gia đình một thời gian hoặc nên phối hợp
hôn nhân với sự nghiệp cùng một lúc.
Mục đích cao nhất đối với những người độc thân cũng như có gia đình, đều
là sự phát triển hoàn thiện tâm linh; và dầu là đàn ông hay đàn bà đều
có quyền chọn lựa để xây dựng một gia đình thích hợp nhất, có thể giúp
họ theo đuổi sự phát triển hoàn thiện tâm linh.
Ông Cayce xem quyền tự do chọn lựa và xây dựng cuộc đời của mỗi người
không chỉ là một quyền hạn trên địa hạt xã hội mà còn là một quyền tất
yếu về mặt tâm linh. Nói theo danh từ triết học thì đó gọi là quyền tự
do ý chí (libre arbitre), đã từng là một đầu đề tranh luận gay go sôi
nổi trải qua nhiều thế kỷ.
Một trong những điểm quan trọng nhất của thuyết luân hồi là nó nhấn mạnh
về sự hiện hữu của quyền tự do ý chí. Một điều lầm lạc rất thông thường
của những người tin tưởng ở thuyết luân hồi và nhân quả là họ cho rằng
số mạng con người đã được định sẵn từ trước. Một sự tin tưởng sai lầm
như thế có những hậu quả rất tai hại về mặt tâm lý và đạo đức tâm linh,
vì nó làm cho tinh thần con người trở nên yếu đuối, thụ động và làm tê
liệt ý chí tiến thủ của con người. Khi một người hiểu về luật nhân quả
theo cách đó, họ sẽ có một thái độ buông xuôi, thụ động vì cho rằng mọi
việc đều đã được định sẵn và con người không thể thay đổi được gì. Thật
ra, những người như thế được gọi là tin theo thuyết tiền định, hoàn toàn
không liên quan gì đến thuyết nhân quả.
Thuyết nhân quả chỉ ra rằng mỗi một “nhân” mà chúng ta tạo ra bằng hành
vi hay tư tưởng đều chắc chắn phải tạo thành “quả” trong tương lai khi
kết hợp đủ các điều kiện hay các “duyên”. Như vậy, khi đã tạo nhân thì
chắc chắn phải nhận quả, nhưng điều này không có nghĩa là mọi việc đều
đã được định sẵn bởi các nhân trong quá khứ. Quá trình tương tác giữa
các nhân, quả và duyên là một quá trình liên tục và phức tạp. Một nhân
của quá khứ tạo thành một quả trong tương lai, nhưng chính cái nhân đó
cũng có thể là một phần quả của một nhân khác từ trong quá khứ lâu xa
hơn nữa. Hơn nữa, kết quả của một sự việc này cũng có thể làm duyên cho
sự hình thành kết quả của một sự việc khác. Và trong bất cứ thời điểm
nào, sự chọn lựa bằng tự do ý chí của mỗi cá nhân đều góp phần quyết
định vào sự hình thành các sự việc. Đây là lý do giải thích sự đề cao
vai trò quyết định của mỗi cá nhân trong việc hình thành chuỗi nhân quả
phức tạp trong cuộc đời. Sự thật là phần nhiều những chi tiết của cuộc
đời chúng ta đều hoàn toàn do chính chúng ta định đoạt bằng những tư
tưởng và hành vi ngay trong giây phút hiện tại.
Thật ra, tất cả những sự việc xảy ra trong đời chúng ta, từ việc quan
trọng như hôn nhân đến việc nhỏ mọn như ăn một cây kem chẳng hạn, đều do
chính chúng ta định đoạt. Những khó khăn trắc trở đè nặng lên vai chúng
ta bây giờ đều là kết quả của những lỗi lầm mà chúng ta đã gây ra trong
quá khứ do sự định đoạt của chính mình, nhưng ngay trong hiện tại ta vẫn
luôn có cơ hội để tích cực sửa chữa sai lầm và nhận được những kết quả
tốt đẹp hơn. Những quả báo xấu dường như đến với chúng ta một cách tình
cờ, bởi vì ta đã quên đi những hành động của ta trong quá khứ nên không
thể thấy được sự liên quan giữa những hành động đã qua với cuộc đời
chúng ta trong hiện tại. Tuy nhiên, việc quả báo xấu ấy xảy ra như thế
nào, với mức độ nào thì phần lớn lại được quyết định do chính những hành
vi và tư tưởng ngay trong hiện tại của chúng ta.
Như thế, nếu chúng ta hiểu đúng về luật nhân quả thì sự mâu thuẫn giữa
hai vấn đề tự do ý chí và định mệnh xem như đã được giải quyết. Cái gọi
là “định mệnh” thật ra chính là sự chi phối, là kết quả những hành vi
trong quá khứ của chính chúng ta, và ta không có sự lựa chọn nào khác
hơn là đón nhận nó. Cũng như một người đã làm xong mọi thủ tục mua hàng
và bây giờ hàng hóa đang trên đường được chuyển đến. Anh ta không có lựa
chọn nào khác hơn là nhận lấy số hàng hóa mà chính mình đã đặt mua. Mặc
dù vậy, vì mỗi cá nhân đều có quyền tự do ý chí nên ta hoàn toàn có thể
chọn lựa cách thức đón nhận những quả báo xảy đến cho ta; và quả báo ấy
xảy ra như thế nào cũng có một phần do những hành vi và tư tưởng trong
hiện tại của chúng ta quyết định. Tương tự như người đặt mua hàng kia
tuy không thể từ chối việc nhận hàng, nhưng có thể chọn lựa cách thức
giao nhận hàng hoặc sử dụng số hàng đó như thế nào.
Nói một cách khác, chúng ta được hoàn toàn tự do trong sự quyết định mọi
hành vi, tư tưởng của mình, và mỗi hành vi, tư tưởng của ta đều góp phần
quyết định sự việc sẽ xảy ra.
Như thế, tuy luật nhân quả quyết định những sự kiện xảy ra trong đời
người, nhưng trong từng giây phút hiện tại chúng ta vẫn luôn được hoàn
toàn tự do chọn lựa hành vi tư tưởng của mình để góp phần làm thay đổi
mỗi sự kiện theo hướng tốt hơn hoặc xấu hơn.
Vấn đề tự do ý chí này luôn gợi sự chú ý của những người khảo cứu các
tập hồ sơ soi kiếp của ông Cayce về vấn đề hôn nhân và nhất là những
trường hợp có thắc mắc về người bạn trăm năm sau này. Các cuộc soi kiếp
luôn cho biết rằng mọi cuộc hôn nhân đều do những sợi dây duyên nghiệp
tạo nên, có nghĩa là những người đến với nhau trong hôn nhân đều là
những người quen nhau từ kiếp trước và ngày nay gặp lại nhau để cùng
thanh toán những mối duyên nghiệp nợ nần giữa hai người.
Tuy nhiên, trong vấn đề hôn nhân cũng như trong tất cả mọi vấn đề khác,
mỗi người luôn vẫn có quyền tự do ý chí và tự do chọn lựa. Dầu cho giữa
hai người có một sợi dây duyên nghiệp tạo ra một sự hấp dẫn mãnh liệt,
thì sự kết hợp của họ trong hiện tại vẫn không phải là điều không thể
thay đổi. Điều đó tùy thuộc vào sự chọn lựa và quyết định của cả hai
người. Hơn nữa, không phải bao giờ điều đó cũng là cần thiết hoặc đáng
khuyến khích.
Dưới đây là hai cuộc vấn đáp ngắn liên quan đến nhận xét vừa nêu trên:
Hỏi: Tôi có nên kết hôn với chàng trai đang tỏ tình với tôi lúc này
chăng?
Đáp: Hai người vốn có duyên nghiệp với nhau từ trước. Nhưng tốt hơn cô
không nên kết hôn với anh ta.
Hỏi: Cuộc hôn nhân của tôi với F. S. có thể giúp cho sự phát triển chung
của chúng tôi chăng?
Đáp: Có thể được, nhưng tôi thấy có nhiều người khác mà cô có thể kết
hợp để cùng nhau phát triển một cách hài hòa và tốt đẹp hơn nữa. Đó là
những người mà kiếp trước cô đã có tạo nghiệp duyên vào thời kỳ văn minh
cổ Ai Cập. Dầu sao, sự chọn lựa là ở nơi cô. Thật ra, cô có một món nợ
nghiệp duyên với F.S. cần phải trả dứt, nhưng việc kết hôn với anh ta là
giải pháp kém nhất!
Khi ông Cayce ngăn cản một cuộc hôn nhân, dù là xét thấy giữa hai người
có duyên nghiệp với nhau, ta có thể hiểu điều đó bằng nhiều cách. Trước
hết, có thể rằng ông nhận thấy giữa những người ấy có những vấn đề khác
còn quan trọng hơn sự liên hệ giữa vợ chồng. Hoặc cũng có thể ông thấy
rằng một trong hai người, hoặc cả hai, chưa chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc
sống hôn nhân.
Những cuộc soi kiếp thường không nói rõ lý do vì sao trong mỗi trường
hợp đương sự nên hay không nên đi đến hôn nhân. Dẫu cho trong những
trường hợp mà hôn nhân được coi như một giải pháp tốt đẹp, ông Cayce
cũng để cho đương sự tự quyết định lấy. Ông ít khi nào đưa ra một quyết
định thay cho người trong cuộc. Thái độ căn bản đó thể hiện rõ ràng
trong trường hợp dưới đây của một cặp uyên ương đến hỏi ý kiến ông về
việc họ có nên kết hôn với nhau hay chăng?
Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce cho biết rằng họ đã trải qua hai lần kinh
nghiệm kết hôn với nhau, một lần ở Ba Tư và một lần nữa ở Ai Cập. Đó là
lý do của sự hấp dẫn mãnh liệt hiện nay thu hút hai người lại đến với
nhau.
Về cuộc hôn nhân của họ, ông Cayce không nói một cách dứt khoát mà chỉ
cho biết rằng:
– Nếu giữa hai người có một sự hòa hợp về lý tưởng và mục đích thì hôn
nhân có thể là một kinh nghiệm tốt đẹp.
Người thiếu nữ liền hỏi ông câu này:
– Mỗi người trong chúng tôi có thể kết hôn với một người nào khác mà có
được hạnh phúc hơn là trường hợp chúng tôi kết hôn với nhau hay chăng?
Ông Cayce đáp:
– Nếu cô hỏi như thế, tôi có thể trả lời bằng cách đưa ra cho cô danh
sách của hai mươi lăm hay ba mươi người khác. Còn đi đến hôn nhân hay
không, thì đó là vấn đề mà cô hãy tự quyết định lấy!
Trong vài trường hợp, lời khuyên được đưa ra một cách dứt khoát như sau:
Hỏi: Tôi có nên lập gia đình với người đàn ông đã đính hôn với tôi
chăng?
Đáp: Không nên!
Tuy nhiên, trong phần nhiều trường hợp, cuộc soi kiếp vẫn để cho đương
sự được hoàn toàn tự do chọn lựa. Nhưng đồng thời, ông Cayce cũng đưa ra
những tiêu chuẩn để dẫn dắt đương sự trong sự chọn lựa đó. Một người đàn
ông hỏi:
– Cô M. L. có thể là người vợ hiền và thích hợp với tôi chăng?
Ông Cayce đáp:
– Điều đó phải tự ông quyết định chứ không phải tôi! Ngoài sự thích hợp
với nhau về phần trí não tri thức và thể chất, còn phải xem giữa hai
người có sự hòa hợp về khía cạnh tâm linh hay không? Hai người có cùng
chung một lý tưởng, một mục đích hay không? Nếu không thì phải cẩn thận
đấy!
Trong thí dụ sau đây, một người đàn bà hỏi rằng, trong bốn người đàn ông
muốn thành hôn với cô, cô nên chọn lựa người nào? Trong cuộc soi kiếp,
ông Cayce cho biết:
– Điều đó tùy nơi lý tưởng mà cô đang theo đuổi. Mỗi người trong số bốn
người đó đều đã có liên hệ với cô trong quá khứ, có người thì giúp đỡ
nhưng có người lại làm chướng ngại cho cô. Nếu tôi khuyên cô nên tránh
người nọ hoặc nên chọn người kia thì sẽ đặt cô vào một vị trí sai lầm,
và cũng đặt cả những người kia vào vị trí sai lầm. Chính cô phải tự chọn
lựa, và tiêu chuẩn chọn lựa phải là hướng về một cuộc đời phụng sự. Cô
hãy nhớ rằng, tất cả mọi người đều có quyền tự do chọn lựa.
Căn cứ vào những tài liệu kể trên, người ta có thể suy diễn ra nguyên
tắc chọn lựa người bạn trăm năm của mình. Người ta có thể nói rằng phần
nhiều những cuộc hôn nhân đều căn cứ trên sắc đẹp và sự hấp dẫn của thể
xác. Theo quan điểm đưa ra trong những cuộc soi kiếp của ông Cayce thì
sự hấp dẫn của thể xác phải đi đôi với sự hấp dẫn về phần tri thức và sự
hòa hợp tinh thần. Một cuộc hôn nhân có hạnh phúc phải căn cứ trên nền
tảng bao gồm đủ ba khía cạnh đó, cũng như ba cái chân vạc vững chắc. Nếu
một trong ba khía cạnh đó bị thiếu sót thì cuộc hôn nhân ấy sẽ có nguy
cơ không đứng vững!
Lý tưởng của một người phải tương xứng, hoặc ít nhất cũng là thuận chiều
với lý tưởng của người bạn trăm năm, trên mỗi phần của ba phương diện
nói trên; nếu không thì nguy cơ tan vỡ và thất bại chua cay là khó tránh
khỏi.
Việc kết hôn một cách vội vàng cẩu thả, không suy nghĩ chín chắn về
những điều quan trọng kể trên tức là tự chuốc lấy tai họa và mọi sự khó
khăn trắc trở. Khi chúng ta cảm thấy một sự hấp dẫn mãnh liệt đối với
một người khác phái, chúng ta hãy cẩn thận đề phòng. Cẩn thận tức là
phải nhìn thấy xa để khỏi lầm tưởng rằng một sự hấp dẫn của thể chất và
dục tình sẽ trở nên một cuộc hôn nhân hạnh phúc, và không vô tình châm
lửa vào cái ngòi thuốc súng của một tình trạng quả báo sắp nổ bùng!