Một nhà hiền triết đã mô tả về ý nghĩa của một đời người chỉ trong một
câu ngắn gọn: “Con người sinh ra chỉ để đau khổ và cuối cùng chết đi.”
Nói về sự đau khổ của cuộc đời, ngày nay hẳn không còn ai phải hoài nghi
hay tranh cãi. Người ta thường chỉ không đồng ý với nhau trong việc nhận
định về những đau khổ đó và nên đối phó với chúng như thế nào mà thôi.
Cách đây hơn 25 thế kỷ, người đầu tiên đã nhận thức và mô tả hết sức cụ
thể về những đau khổ của đời người là một người Ấn Độ. Ngài đã chỉ rõ
mọi nguyên nhân cội nguồn của đau khổ và vạch ra con đường thoát khổ,
được hàng triệu triệu người trên khắp thế giới noi theo từ đó đến nay và
mỗi người đều đạt được những sự lợi ích tinh thần nhất định, từ những
phút giây thanh thản trong đời sống thường nhật cho đến những trạng thái
giải thoát toàn diện thoát khỏi mọi khổ đau.
Lịch sử ghi nhận sự kiện đản sinh của bậc vĩ nhân đó với tên gọi Thái Tử
Sĩ Đạt Ta, và về sau được tôn xưng là Đức Phật, với ý nghĩa là bậc Toàn
Giác.
Phụ vương của Sĩ Đạt Ta là một vị vua có thế lực lớn ở miền Bắc Ấn Độ
thời đó. Người quyết định truyền ngôi cho thái tử nên đã giữ chặt thái
tử trong cung, không cho thái tử nhìn thấy những cảnh lầm than, đau khổ
của người đời.
Thái Tử sống từ nhỏ trong cung cấm. Đến lúc trưởng thành, vua cha cưới
cho thái tử một vị công chúa nhan sắc tuyệt trần. Từ nhỏ đến lớn, thái
tử chưa hề bước chân ra khỏi bốn vách thành bao bọc quanh hoàng cung.
Khi thái tử có được một hoàng nam, người thấy nhàm chán cảnh cung điện
và muốn biết có những gì ở cuộc sống bên ngoài cung điện. Người mới xin
phép vua cha xuất thành du ngoạn. Lần đầu tiên thái tử được nhìn thấy
cảnh thành phố tấp nập, dân cư đông đảo và đời sống thực tế bên ngoài
cung điện.
Sau khi du ngoạn bên ngoài bốn cửa thành, thái tử nhìn thấy những cảnh
tượng làm cho người chú ý. Đó là cảnh một người già, một người bệnh tật
và một xác chết. Thái tử lần đầu tiên thấy được những cảnh này, vô cùng
xúc động, bèn hỏi tên đánh xe đi theo ngài: “Tại sao lại có những cảnh
đau khổ như thế?”
Khi được biết rằng đó là những điều vẫn xảy ra với tất cả mọi người,
không ai tránh khỏi, Thái tử vô cùng buồn bực, đến nỗi Ngài không còn
ham thích gì cuộc sống xa hoa.
Khi trở về cung, ngài bắt đầu nuôi ý định xuất ly, từ bỏ tất cả mọi sản
nghiệp, gia đình vợ con để xuất gia tầm đạo, tìm một phương cách để cứu
vớt nhân loại và chúng sinh thoát khỏi sự lầm than đau khổ.
Ý nguyện của ngài không được sự chuẩn thuận của vua cha. Vì thế, ngài đã
phải đang đêm vượt thành để ra đi tầm đạo. Sau nhiều năm khổ công tìm
kiếm và tu tập, tham thiền quán tưởng, ngài đạt được trạng thái giác
ngộ, trở thành một bậc toàn trí toàn giác, xứng đáng với danh hiệu
Phật-đà, nghĩa là Bậc tỉnh giác. Sau đó ngài mới truyền dạy đạo giải
thoát cho thế gian, chỉ cho tất cả mọi người thấy được con đường thoát
khổ.
Chúng ta là những người trần gian phàm tục, không ai có thể làm giống
như đức Phật Thích Ca, nghĩa là nhất thời dứt bỏ tất cả sự giàu sang,
quyền thế, danh vọng, tình yêu và hạnh phúc gia đình để theo đuổi một
mục đích quá cao xa như việc đi tìm chân lý và tìm hiểu ý nghĩa chân
thật nhất của cuộc đời! Tuy nhiên, mỗi người trong chúng ta đều phải
trải qua những hình thức khổ đau nhất định trong cuộc đời mình và hẳn đã
có lúc phải tự hỏi:
– Tại sao con người phải chịu đau khổ? Và ta có thể làm gì để thoát khổ?
Cách giải thích về những “tội lỗi bẩm sinh” mà con người phải nhận lấy
ngay từ lúc sinh ra dường như không thuyết phục đối với nhiều người. Họ
thấy không có lý do gì để người ta phải chịu đựng khổ đau chỉ vì những
điều mà họ hoàn toàn không tự mình thực hiện! Nhưng nếu cho rằng có
những điều chính ta đã thực hiện trong quá khứ để dẫn đến sự khổ hiện
nay nhưng ta hoàn toàn không nhớ biết chỉ vì si mê thì nhiều người cũng
không tin nhận được, vì họ cho rằng không có sự chứng minh cụ thể nào
cả!
Những nhà văn có óc không tưởng đã phác họa về một thời kỳ trong tương
lai mà bốn nỗi khổ của đức Phật nêu ra sẽ có hai điều không còn nữa, đó
là bệnh tật và già yếu. Nhưng mặc dầu khoa học hiện đại đã có rất nhiều
những phát minh đột phá, người ta vẫn chưa bao giờ chạm tới ngưỡng cửa
của sự chấm dứt hoàn toàn bệnh tật hoặc làm cho con người không còn chịu
tiến trình lão hóa. Cứ mỗi khi tìm được phương pháp điều trị cho một căn
bệnh nan y nào đó, thì dường như là ngay lập tức sẽ thấy xuất hiện một
căn bệnh mới, còn bất trị hơn cả căn bệnh trước đó! Và như thế lúc nào
con người cũng phải luôn đứng trước những thách thức không thể vượt qua
của bệnh tật. Còn nói đến tiến trình già yếu thì càng không thấy có
triển vọng gì tốt đẹp! May mắn lắm thì người ta cũng chỉ hy vọng tìm ra
một phương thuốc nào đó làm cho con người có thể trẻ hóa được chừng năm
mười năm tuổi cũng đã là phi thường lắm rồi, đừng nói chi đến việc “cải
lão hoàn đồng”!
Nhưng cho dù có vượt qua được sự bệnh tật và già yếu, con người hầu như
cũng không thể tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề mà con người vẫn xem
là kẻ thù lớn nhất: Đó là sự chết! Ranh giới giữa sống và chết bao giờ
cũng hết sức mong manh, và con người chưa hiểu biết được bao nhiêu về
vấn đề này nên có thể nói là hoàn toàn bất lực trong việc tác động vào
nó. Cho dù người ta có thể làm ra những cỗ máy khổng lồ đủ sức san bằng
cả một hòn núi nhỏ, thì họ cũng không thấy có chút hy vọng gì có thể làm
cho một con chuột nhắt bé tí đã chết có thể sống lại dù chỉ trong chốc
lát!
Trong khi chờ đợi một cách vô vọng những tiến bộ của con người theo
hướng này, và trong khi sự cải tạo thế giới trên một bình diện hợp lý
hơn vẫn còn chưa đem đến cho nhân loại sức khỏe, sự anh ổn và hạnh phúc,
thì chúng ta vẫn luôn phải đương đầu với muôn ngàn sự bấp bênh trong đời
sống, những mối nguy cơ, tai họa và đau khổ luôn rập rình đe dọa sự hạnh
phúc và bình an trong tâm hồn chúng ta! Những tai họa thiên nhiên như
hỏa hoạn, bão lụt, dịch bệnh, động đất... kèm theo với những cuộc chiến
tranh do chính con người gây ra luôn sẵn sàng cướp đi đời sống an ổn của
bất cứ ai trong chúng ta. Đó chỉ là mới kể qua một vài sự tác động xấu
từ bên ngoài, còn nói về những yếu tố bên trong, tức là phần nội tâm,
thì con người lại luôn sẵn có vô số những sự yếu đuối, bất toàn, như
lòng ích kỷ, ganh ghét, tham lam, thù hận, si mê .v..v... đều là những
nguồn gốc sinh ra sự đau khổ cho chính bản thân mỗi người và cho những
người chung quanh.
Trong những giây phút vui tươi ít ỏi của cuộc đời, khi chúng ta cảm thấy
trong lòng vui vẻ hân hoan vì tiếng nhạc réo rắt du dương, hay khi nhìn
thấy cảnh sắc muôn màu của lúc bình minh, chúng ta thường cảm thấy rằng
trong vũ trụ tự nhiên hẳn luôn sẵn có sự an vui và ẩn giấu một ý nghĩa
sâu xa thâm trầm nào đó, khác hơn là những nỗi khổ đau mà ta phải thường
xuyên gánh chịu. Tuy nhiên, khi chúng ta quay trở về cõi đời thực tế với
những sự va chạm phũ phàng, những thất vọng não nề cay đắng, thì chúng
ta không khỏi nêu ra nhiều câu hỏi như là:
– Ý nghĩa và mục đích của cuộc đời này là gì?
– Ta là ai?
– Tại sao ta sinh ra ở đây?
– Rồi ta sẽ đi về đâu?
– Tại sao ta phải chịu đau khổ?
– Có những mối quan hệ gì giữa ta và những người khác quanh ta?
– Giữa con người với cái sức mạnh vô hình huyền bí trong cõi thiên nhiên
bao phủ cuộc đời chúng ta có mối liên hệ như thế nào chăng?
Những câu hỏi căn bản đó, nhân loại đã từng nêu ra từ những thời đại quá
khứ xa xăm. Nhưng ngày nào người ta vẫn chưa tìm ra được câu giải đáp
thì tất cả những giải pháp tạm thời để làm dịu bớt sự đau khổ, dầu là
những phương tiện vật chất hay tinh thần, đều chỉ có ý nghĩa vô cùng hạn
chế và không thể giúp cho ta có được hạnh phúc thực sự. Ngày nào mà vấn
đề đau khổ của nhân loại về cơ bản vẫn chưa được giải quyết, thì có thể
nói là những nỗ lực của con vẫn chưa giải quyết được gì cả, vì tất cả
mọi thành tựu vật chất hay tinh thần xét cho cùng cũng không có ý nghĩa
gì khi mà người ta phải luôn oằn vai dưới gánh nặng khổ đau. Ngày nào mà
trên thế gian còn có một sinh vật nhỏ mọn tầm thường nhất đang quằn quại
trong đau khổ mà người ta chưa giải thích được nguyên nhân, thì xem như
người ta chưa thực sự giải thích được điều gì cả, và quan niệm triết lý
của nhân loại về cuộc đời vẫn còn là thiếu sót, bất toàn.
Từ những thời đại cổ xưa nhất, loài người đã từng nêu ra những câu hỏi
trên. Và càng suy ngẫm thì họ càng cảm thấy rằng những sự tranh đấu vất
vả và đau khổ của con người không hẳn là vô ích và vô nghĩa như người ta
có thể lầm tưởng. Bởi vì, trong khi những ý nghĩa vật chất nhìn thấy
được là hoàn toàn không có giá trị chân thật, thì sự đào luyện và tiến
hóa về tinh thần nhờ trải qua những kinh nghiệm khổ đau vẫn luôn là một
điều có thật. Từ đó, người ta cảm thấy nhất định phải một sự liên quan
giữa con người với thế giới tâm linh hay phần tinh thần phi vật thể.
Chính từ những cảm nhận mơ hồ đầu tiên này mà người ta bắt đầu tin vào
sự hiện diện vô hình của những đấng thần minh trong những khu rừng thẳm
hoặc trên đồi cao, nơi gốc đa đầu làng hoặc giữa đồng hoang vắng vẻ...
Cũng từ đó, người ta tin rằng mỗi sinh vật, từ con người cho đến loài
cầm thú, đều có một linh hồn, và rằng linh hồn đó tuy phải chịu những
đau khổ cùng với thể xác, nhưng vẫn sẽ tồn tại sau khi chết trong một
hình thức phi vật chất và tiếp tục có một đời sống riêng của nó. Mặc dù
những niềm tin như thế hầu hết đều là vô căn cứ, nhưng nó lại thực sự
xuất phát từ những cảm nhận rất thật của con người trong suốt quá trình
chiêm nghiệm về đời sống. Vì thế, những niềm tin này hầu như đã đồng
thời xuất hiện ở khắp nơi trên trái đất, bất chấp mọi sự khác biệt về
chủng tộc, địa lý...
Khi sự suy nghiệm của con người về vấn đề này đã trải qua được những
quãng thời gian rất dài thì những lý thuyết khác nhau dần dần được phát
sinh. Hoặc có người cho rằng ngoài cõi trần gian đau khổ này mà loài
người đang sống trong sự hỗn tạp pha lẫn cả điều lành và điều dữ, điều
thiện và điều ác, hẳn phải còn có một cảnh giới vô hình nào đó để là nơi
thưởng phạt công minh đối với những hành động thiện ác của con người ở
thế gian. Và xuất phát từ niềm tin đó mà người ta đã tin rằng có những
cảnh thiên đàng hay địa ngục. Tùy theo sự tưởng tượng, hình dung khác
nhau ở từng nơi mà người ta dựng nên những đấng cầm cân nảy mực khác
nhau, hoặc miêu tả những cảnh thiên đàng và địa ngục khác nhau, nhưng
tựu trung vẫn giống nhau ở điểm là khuyến thiện trừ ác và sự công bằng
tuyệt đối của sự phán xét vô hình đó.
Những điều tin tưởng và giải thích như trên đã từng được nêu ra rất
nhiều. Có những cách giải thích hãy còn giản dị thô sơ, chất phác, nhưng
cũng có những cách giải thích tinh tế, sâu sắc hơn, và cũng có những
cách giải thích được mọi người cho là hợp lý, thuyết phục. Và chính nhờ
sự tin tưởng vào những giải thích được chấp nhận đó mà con người vẫn có
thể tiếp tục sống và đương đầu với những nỗi khó khăn, đau khổ giữa cuộc
đời, vì sự thật là nếu không có những niềm tin đó thì cho dù con người
có can đảm đến đâu cũng không thể nào vượt qua được những cơn khủng
hoảng. Có người tin tưởng ở Đức Mahomet, có người tin tưởng ở Đức Phật,
hoặc Chúa Jesus, hay Đức Krishna, hoặc một hình tượng tôn giáo nào khác
nữa...
Có nhiều người tin rằng đời người có thể giải thích bằng một lý do duy
nhất, đó là ý nghĩa của sự sống. Một số người khác không cần bận tâm tìm
biết lý do gì cả, mà chỉ tận hưởng sự vui sướng, khoái lạc trong hiện
tại. Đối với những người sinh trưởng trong nền giáo dục và tín ngưỡng
đạo Gia Tô, thì sự giải thích về đời người và những sự đau khổ của cuộc
đời thường là như thế này:
– Con người có một linh hồn và linh hồn vốn bất diệt; sự đau khổ là một
thử thách đưa đến cho chúng ta, thiên đàng hay địa ngục là những điều
thưởng phạt tùy theo cách hành động và cư xử của chúng ta trên thế gian.
Những người chấp nhận sự giải thích đó không hề nói rằng họ có đủ bằng
chứng; vì đó chỉ là sự giải thích mà họ được hấp thụ từ cha mẹ và từ các
giáo sĩ; và chính những vị này cũng đã hấp thụ từ những bậc phụ huynh và
các giáo sĩ trong thế hệ của họ, rồi cứ như thế đi ngược dòng thời gian
cho đến khi người ta tìm thấy nguyên ủy mọi sự nằm trong một quyển sách
gọi là Kinh Thánh (Bible), và một người đã thiết lập, củng cố niềm tin
ấy tên là Jesus.
Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng bộ sách này thật là hay tuyệt, và Đức
Jesus, cho dù là một con người hay thực sự là con của Chúa Trời, vẫn
phải xem là một nhân vật phi thường. Tuy nhiên, kể từ thời kỳ Phục Hưng
(Renaissance) cho đến nay, người Tây phương ngày càng trở nên hoài nghi
đối với những tín điều dựa trên niềm tin không được xác tín, dẫu cho đó
là tin vào một quyển sách hay một con người. Bất cứ tín điều nào không
thể chứng minh được bằng các phương tiện khoa học đều gây ra một sự hoài
nghi mỗi lúc một tăng thêm.
Nhà thiên văn học Ptolemy (Ptolémée)
[1] nói rằng
mặt trời xoay quanh trái đất; và đó là điều mà Hội Thánh Gia Tô đã chấp
nhận và truyền dạy. Tuy nhiên, nhà Thiên văn Copernic
[2]
đã phát minh ra những khí cụ thiên văn học để chứng minh điều ngược lại,
rằng chính trái đất xoay chung quanh mặt trời!
Triết gia Aristote nói rằng nếu người ta làm rơi cùng lúc hai vật có
trọng lượng khác nhau từ trên cao, vật nặng hơn sẽ rơi xuống đất trước,
và Hội Thánh đã hoàn toàn chấp nhận nền triết học cùng sự phát minh khoa
học của Aristote. Tuy thế, với một cuộc thí nghiệm giản dị từ trên đài
nghiêng ở thành phố Pise, Galileo
[3] đã chứng minh
rằng hai vật có trọng lượng khác nhau vẫn có thể rơi xuống đất cùng lúc
nếu chúng có thể tích khác biệt tương ứng.
Trong Kinh Thánh có nhiều đoạn cho rằng trái đất vốn là một mặt phẳng
rộng; tuy nhiên Christophe Colomb và Magellan cùng nhiều nhà thám hiểm
khác nữa của thế kỷ XV đã làm đảo ngược giả thuyết trên đây bằng những
chuyến du hành trên mặt biển, khởi hành từ một điểm và đi thẳng theo
hướng đông nhưng cuối cùng lại đến được điểm khởi đầu, chứng tỏ rằng họ
đã đi theo một đường tròn.
Những sự chứng minh trên đây cùng nhiều chứng minh khác nữa đã dần dần
chứng tỏ rằng những giả thuyết dựa trên niềm tin vô căn cứ từ thời xưa
không chắc gì là đúng. Do đó đã nảy sinh quan niệm khoa học và óc hoài
nghi phán đoán của người thời nay.
Tuy nhiên, có một thực tế là trong sự tranh đấu để sống còn con người
không thể tránh khỏi sự đau khổ. Sự đau khổ này, dường như người ta
không tìm ra lý do nào để giải thích ngoài việc phải thừa nhận là nó
không có mục đích gì cả! Lẽ nào người ta lại không thể có một cuộc sống
không phải chịu đau khổ? Và những gì ta biết về sự chết cho đến nay vẫn
chỉ là “một sự tan rã của những phân tử hóa học vật chất”, ngoài ra ta
không còn biết gì hơn nữa.
Như vậy, với khuynh hướng khoa học, người ta đã thay thế niềm tin vào
Kinh Thánh hay các vị giáo chủ bằng niềm tin vào năm giác quan và các
thiết bị khoa học!
Với những ống kính hiển vi, viễn vọng kính, quang tuyến X, máy radar và
những phát minh tối tân khác, khoa học đã nới rộng tầm hoạt động của năm
giác quan đến mức vượt xa trước đây, nhưng người ta vẫn dựa vào sự nhận
xét bằng năm giác quan, tức thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác và
xúc giác như là nền tảng của mọi lý luận khoa học.
Tuy nhiên, trải qua vài chục năm gần đây, người ta đã trở nên phức tạp
hơn và hoài nghi hơn đối với những điều họ hiểu biết hoặc tưởng rằng
mình đã hiểu biết. Những khí cụ khoa học mà người ta phát minh ra đã chỉ
cho họ thấy một cách mỉa mai rằng những giác quan của con người thật vô
cùng thiếu sót, bất toàn và không thể giúp chúng ta hiểu biết vũ trụ một
cách thật sự đầy đủ, chính xác. Những luồng sóng Hertz,
[4]
chất phóng quang, nguyên tử lực... đó là chỉ mới kể có một vài hiện
tượng khoa học của thời buổi hiện đại, đã chứng minh một cách rõ ràng
rằng chung quanh chúng ta có những luồng âm ba rung động và những mãnh
lực vô hình; và những phân tử nhỏ bé nhất của vật chất đều là những kho
chứa đựng năng lực, hàm súc tiềm tàng một sức mạnh kinh khủng mà con
người trước đây không thể tưởng tượng nổi.
Chúng ta biết rằng những giác quan như tai, mắt... mà chúng ta dùng để
tiếp xúc với ngoại giới, cũng ví như những cửa sổ nhỏ hẹp của căn nhà bé
nhỏ là xác thân của chúng ta. Sự nhạy cảm của con mắt chúng ta đối với
ánh sáng giúp chúng ta tiếp nhận chỉ có một phần nhỏ những luồng âm ba
rung động của ánh sáng. Sự thụ cảm của lỗ tai ta đối với âm thanh chỉ
giúp ta tiếp nhận một biên độ vô cùng nhỏ hẹp trong biển âm thanh rộng
lớn của vũ trụ. Nhiều loại thú cầm, chim muông, côn trùng, sâu bọ có
những thị giác, thính giác và khứu giác khác hẳn loài người; bởi đó vũ
trụ của chúng bao hàm nhiều sự vật mà chúng ta từ lâu không nhận biết
hoặc không thể nhận xét rõ. Thật đáng ngạc nhiên khi con người vốn tự
hào về trí thông minh đứng đầu trong muôn loài nhưng lại thua kém một số
loài cầm thú, chim muông và sâu bọ về năng lực của giác quan để biết về
vũ trụ bên ngoài. Hơn nữa, vì phải phụ thuộc vào những công cụ, phương
tiện khoa học mà chính trí óc siêu việt thông minh của họ đã phát minh,
nên con người không thể tự mình nhận biết và quan sát mọi sự vật trong
vũ trụ mênh mông rộng lớn.
Hãy tưởng tượng rằng chúng ta có thể nới rộng tầm hoạt động và nhận biết
của giác quan đến mức nhạy cảm hơn đối với ánh sáng và âm thanh, dẫu
rằng chỉ hơn mức bình thường một phần nào thôi. Phải chăng khi ấy ta sẽ
nhận biết được nhiều sự vật mà trước kia ta không hề nghe, không hề
thấy?
Hoặc nếu có một người nào đó bẩm sinh đã có được những giác quan phi
thường, với một tầm nhận biết rộng lớn hơn, phải chăng điều tất nhiên là
người này sẽ có thể nghe thấy, nhận biết những sự vật mà chúng ta không
thấy, không nghe? Với một mức độ khác biệt nào đó, phải chăng người ấy
có thể nghe, thấy và nhận biết vượt qua cả những khoảng không gian xa
xôi, tương tự như máy vô tuyến truyền thanh hoặc truyền hình?
Đứng trước thế giới mênh mông vô tận với biết bao điều còn bí ẩn mà
những khí cụ khoa học tối tân của thế kỷ hai mươi đã hé mở cho chúng ta
nhận biết phần nào, thì người ta buộc phải nhìn nhận khả năng xảy ra
những điều nói trên. Và nếu nhìn ngược dòng lịch sử loài người, chúng ta
sẽ thấy đã từng có nhiều trường hợp đặc biệt được ghi chép về những khả
năng nhận biết phi thường của một số người. Một trong số những người đó
là ông Swedenborg,
[5] nhà bác học trứ danh của thế
kỷ 18. Ông này có được một năng lực nhận biết rất phi thường. Người ta
đều biết rõ một chuyện về năng lực phi thường của ông, vì chuyện này
được rất nhiều người chứng kiến, trong số đó có cả nhà triết học
Emmanuel Kant.
Một buổi chiều vào khoảng sáu giờ, ông Swedenborg đang ngồi dùng cơm với
vài người bạn ở thành phố Gothenburg, bỗng nhiên ông giật mình và nói
rằng một cơn hỏa hoạn lớn đang xảy ra ở Stockholm là chỗ ông ở, cách đó
độ năm trăm cây số. Sau đó một lát, ông tuyên bố rằng ngọn lửa đã thiêu
hủy ngôi nhà của một người láng giềng và hăm dọa cháy lan đến ngôi nhà
của ông. Đến tám giờ, cũng chiều hôm đó, ông cho biết, với một giọng nói
đã trấn tĩnh, rằng ngọn lửa đã được dập tắt ở khoảng cách nhà ông độ vài
ba gian nhà khác.
Hai ngày sau, những lời của ông Swedenborg đã được xác nhận bằng những
bài tường thuật về cuộc hỏa hoạn bộc phát đúng vào lúc ông giật mình và
có cảm giác đầu tiên về cơn tai biến này!
Đây không phải là trường hợp duy nhất, tiểu sử của nhiều nhân vật tên
tuổi cũng ghi chép hàng trăm trường hợp tương tự, trong số đó có những
người nổi tiếng như Mark Twain, Abraham Lincoln, St. Saens.v.v... Trong
vài trường hợp, chính những người thân quyến của họ đã có lúc nhìn thấy
thình lình những hình ảnh lạ lùng về những sự việc xảy ra ở cách rất xa,
hoặc sẽ xảy ra trong nhiều tháng hay nhiều năm về sau, với đầy đủ chi
tiết.
Nói về trường hợp ông Swedenborg thì năng khiếu thần nhãn của ông từ đó
trở nên một thứ giác quan mạnh mẽ phi thường và liên tục. Nhưng trong
phần nhiều những trường hợp khác, năng khiếu đó dường như chỉ biểu lộ
trong một lúc nhất định khi đương sự tạm thời rơi vào một trạng thái
xuất thần.
Người Tây phương thường có khuynh hướng đón nhận những sự việc kể trên
với một thái độ hoài nghi và thậm chí với ít nhiều cử chỉ khinh thường.
Tuy nhiên, nay đã đến lúc mà người ta không thể nhìn vào những hiện
tượng đó một cách khinh rẻ như thế được nữa. Đối với những người có một
tinh thần cởi mở, sẵn sàng tìm hiểu những hiện tượng lạ lùng, đối với
những người thông hiểu các trào lưu khoa học và những nhu cầu của thế
hệ, thì bất cứ sự việc gì có liên hệ đến những khả năng lạ lùng huyền bí
của con người đều có tánh cách lý thú và có một tầm quan trọng nhất
định.
Trong số những nhà thông thái có tầm kiến thức rộng rãi và thừa nhận
rằng những hiện tượng thần bí, siêu nhiên đáng được nghiên cứu bằng
phương pháp khoa học, cũng như đã ra công sưu tầm về những hiện tượng
đó, có bác sĩ J. B. Rhine,
[6] giáo sư trường Đại
Học Duke. Từ năm 1930, tiến sĩ Rhine và những người cộng sự đã nghiên
cứu sâu về những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu thần nhãn
trong con người.
Bằng những cuộc thí nghiệm được kiểm soát chặt chẽ và tuân theo một
phương pháp khoa học đặc biệt, tiến sĩ Rhine đã khám phá được một điều
là trong phòng thí nghiệm, có nhiều người đã biểu lộ những khả năng cảm
xúc bằng giác quan một cách phi thường. Người ta có thể tìm thấy những
chi tiết về phương pháp thí nghiệm và những kết quả sưu tầm của tiến sĩ
Rhine trong quyển sách nhan đề “The Reach of the Mind” (Tầm hoạt động
của trí não” do chính ông xuất bản năm 1947 tại Hoa Kỳ.
Những nhà sưu tầm khác như Warcollier ở Pháp, Kotik ở Nga và Tichner ở
Đức, với những phương pháp thí nghiệm tương tự, cũng đã đi đến những kết
luận giống như của tiến sĩ J. B. Rhine.
Những bằng chứng khoa học hiển nhiên đã giải tỏa mọi điều nghi ngờ về
tính chất có thật của những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu
thần nhãn của con người. Tuy thế, cho đến nay khoa học chỉ mới chứng
minh được rằng hiện tượng thần nhãn là một điều có thật, còn việc nó
hoạt động ra sao và phát sinh từ những yếu tố nào thì người ta hoàn toàn
không biết gì cả. Vì thế, người ta vẫn chưa thể vận dụng được năng khiếu
đó trên địa hạt thực tế.
Thử tưởng tượng, nếu con người có thể tạo ra được cái năng khiếu phi
thường đó, thì nó sẽ giúp ta nhìn thấy được những gì xảy ra trong không
gian mà không cần sử dụng đến cặp mắt thường. Khi đó, con người sẽ có
được một phương thức mới cực kỳ hiệu quả để thu hoạch những điều hiểu
biết về vũ trụ.
Trải qua nhiều thế kỷ, con người đã làm được nhiều công trình lớn lao.
Sự khôn ngoan khéo léo đã giúp ta chinh phục một phần nào không gian và
tác động rất nhiều vào thế giới vật chất. Nhưng dù có được sự khôn ngoan
khéo léo đó, xét cho cùng thì chúng ta vẫn là một sinh vật yếu đuối và
bất toàn. Mặc dầu có được những thành công nhất định trên địa hạt vật
chất, con người vẫn còn phải bất lực trên rất nhiều lãnh vực. Mặc dầu đã
thu hoạch được những kết quả nhất định trên các lãnh vực nghệ thuật, văn
hóa và khoa học, con người vẫn chưa tìm ra ý nghĩa và mục đích của sự
đau khổ mà mỗi người đều phải chịu đựng từ khi sinh ra cho đến lúc từ
giã cõi đời.
Trong thời gian qua, con người đã tìm ra những bí mật về năng lượng
nguyên tử, điều đó là một bước đột phá trong việc kiểm soát thế giới vật
chất. Nhưng có lẽ phải nhờ vào chính những sự khám phá gần đây về khả
năng cảm xúc bằng giác quan siêu đẳng của con người và những mối liên
quan lạ kỳ giữa ý thức và tiềm thức, con người mới có thể tiến sâu hơn
nữa vào lãnh vực nội tâm của chính mình.
Sau nhiều thế kỷ dọ dẫm tìm tòi, có lẽ sau cùng người ta sẽ tìm ra những
câu giải đáp thỏa đáng cho những điều bí ẩn quan trọng của đời người,
chẳng hạn như những lý do vì sao con người sinh ra ở thế gian và mục
đích cùng ý nghĩa của sự đau khổ mà con người phải chịu đựng là gì.