Những người tàn tật, đui què, câm điếc, những người bị các chứng bệnh
nan y, đó là những thí dụ rõ rệt nhất về sự đau khổ của người đời. Đứng
trước những cảnh đau khổ đó, chúng ta cảm thấy khơi dậy một lòng trắc ẩn
sâu xa và thấm thía. Khi một trong những cảnh khổ đó xảy đến cho ta,
hoặc khi chúng ta gặp phải những cảnh ngộ đắng cay, trái ý, chúng ta
thường đâm ra hoài nghi về ý nghĩa thực sự của cuộc đời. Chúng ta thường
tự hỏi:
– Tại sao tôi phải chịu sự đau khổ này? Tại sao những cảnh khổ này lại
xảy đến cho tôi?
Anh Dennis là một người hiền lành và đức hạnh hơn người. Anh đã bị mất
hết gia tài sản nghiệp và tất cả những đứa con anh cũng đều chết cả. Anh
chịu đựng những cảnh khổ đó một cách kiên nhẫn và không hề phàn nàn rên
siết. Nhưng khi anh bị một chứng bệnh kỳ quái làm cho toàn thân nổi lên
những mụt nhọt lở loét, ghê tởm, thì anh bắt đầu nguyền rủa Thượng Đế và
lần đầu tiên anh kêu thét lên trong cơn tuyệt vọng vì không biết được
nguyên do những sự đau khổ đã xảy đến cho mình:
– Ai có thể nói cho tôi biết những nguyên nhân ấy, rồi tôi sẽ im lặng và
an phận. Tôi đã gây nên những tội lỗi gì?
Khi nói rằng nguyên nhân sự đau khổ là do những hành động sai lầm, tội
lỗi đã gây ra trước đây thì người thời nay thường cho đó là một điều dị
đoan, di sản của những tôn giáo cổ xưa đã lỗi thời. Ít người chịu suy
nghĩ và nhìn nhận điều đó.
Tuy vậy, theo những cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì tội lỗi và đau khổ
đi liền với nhau như bóng với hình, và giữa nhân với quả vốn có một sự
liên quan chặt chẽ.
Để hiểu rõ quan niệm trên, vốn là nền tảng cho những cuộc soi kiếp của
ông Cayce, ta cần tìm hiểu ý nghĩa của danh từ karma, là danh từ duy
nhất giải thích ý nghĩa vấn đề nhân quả. Karma là một danh từ Phạn ngữ,
có nghĩa là hành động. Nhưng theo ý nghĩa triết học, thì nó được định
nghĩa là nghiệp, hay nghiệp quả, và được hiểu như là luật nhân quả, là
một định luật có tác dụng chi phối mọi sự việc xảy ra trong vũ trụ.
Ông Emerson là người đã từng hấp thụ và tin tưởng nền triết học Ấn Độ,
đã gọi đó là luật thừa trừ. Đấng Christ cũng đã nói về luật ấy một cách
gọn gàng giản dị trong câu:
– Ngươi sẽ gặt những gì ngươi đã gieo.
Định lý khoa học của Newton nói rằng:
– Mỗi hành động đều gây nên một phản ứng tương đương và ngược chiều, áp
dụng trên cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce làm cho người ta thích thú say mê vì
nó khám phá ra tận nguồn gốc của những bệnh tật đau khổ trong kiếp hiện
tại, truy nguyên ra từ những hành động trong những kiếp quá khứ, và làm
sáng tỏ một cách rõ ràng cái quan niệm trừu tượng về nhân quả. Một sự
nghiên cứu tỉ mỉ về những trường hợp đã quan sát cho biết rằng có nhiều
loại quả báo khác nhau.
Một trong những loại đó có thể gọi là quả báo tương tác, nghĩa là một
hành động gây tổn thương cho kẻ khác, kết quả cũng sẽ tác động ngược lại
đối với người thực hiện một cách tương ứng.
Trong những tập hồ sơ của ông Cayce, có nhiều thí dụ về loại quả báo
này. Có một trường hợp được ghi chép lại như sau:
Một vị giáo sư dạy nhạc, lúc mới sinh ra đã bị mù, có nghe nói về ông
Cayce trong một chương trình phát thanh “Những sự mầu nhiệm”. Ông ta bèn
đến nhờ ông Cayce khám bệnh, và sau một thời gian chạy chữa theo sự chỉ
dẫn của ông Cayce, ông ta cảm thấy khá nhiều. Ba tháng sau, ông ta đã
thuyên giảm được mười phần trăm về con mắt bên trái, mà các nhà chuyên
môn về bệnh đau mắt cho là đã hoàn toàn hỏng.
Kế đó, một cuộc soi kiếp cho thấy rõ ràng tất cả bốn tiền kiếp của ông
ta: Kiếp thứ nhất ở Bắc Mỹ hồi vào thời kỳ cuộc nội chiến ly khai
(Secession); kiếp thứ nhì ở Pháp hồi thời kỳ Thánh chiến (Croisades);
kiếp thứ ba ở Ba Tư vào khoảng một ngàn năm trước Tây lịch; và kiếp thứ
tư ở châu Atlantide trước khi xảy ra cuộc Đại hồng thủy. Chính trong
kiếp thứ ba ở Ba Tư, ông ta đã gây nên cái nhân xấu ác giờ được báo ứng
bằng sự mù mắt của ông ta trong kiếp này. Hồi đó, ông ta là thành viên
của một bộ lạc dã man có tục lấy dùi sắt nhọn nung đỏ chọc vào mắt những
tù binh, và chính ông ta là đao phủ trực tiếp xử tội các tù nhân bằng
cách đó!
Một thí dụ thứ hai đáng được ghi nhớ là trường hợp của một thiếu nữ làm
nghề sửa móng tay, bị chứng liệt bại cả hai chân từ khi mới lên một
tuổi. Cô này không thể đi đứng gì được nếu không dùng nạng chống và
những dụng cụ nối xương nhân tạo. Một cuộc soi kiếp tiết lộ rằng nguyên
nhân của bệnh trạng cô bây giờ là do một tiền kiếp ở châu Atlantide.
Trong kiếp đó, cô đã dùng những phép thuật tà đạo để làm cho kẻ khác bị
yếu mềm cả tay chân, trở nên bất lực và chịu để cho cô sai khiến. Bởi
vậy trong kiếp này cô phải chịu quả báo về sự tổn thương mà cô đã gây ra
cho kẻ khác.
Một thí dụ thứ ba về loại quả báo tương tác được ghi lại như sau:
Một người phụ nữ bốn mươi tuổi từ nhỏ đã bị một chứng bệnh kỳ lạ. Mỗi
khi cô ăn một vài thức ăn như bánh mì, hoặc chất ngũ cốc, thì nhảy mũi
dữ dội như bị chứng sổ mũi hoặc cảm cúm. Khi cô dùng đến một vài thứ vật
dụng, nhất là đồ bằng da hay bằng nhựa dẻo (plastique) thì lại cảm thấy
đau nhói dữ dội ở hông bên trái.
Cô đã đi khám bệnh với nhiều bác sĩ, nhưng không có kết quả, và cho biết
rằng cô chỉ thấy giảm bớt trong những cuộc chữa bệnh bằng thôi miên lúc
hai mươi lăm tuổi. Sự thuyên giảm đó kéo dài được sáu năm, nhưng rồi
triệu chứng cũ lại tái phát.
Cô đến nhờ ông Cayce chữa bệnh. Cuộc soi kiếp cho cô tiết lộ rằng trong
một tiền kiếp cô đã từng làm nghề bào chế thuốc, đã dùng nhiều chất hóa
học để gây tổn thương cho kẻ khác. Bởi đó cô phải chịu sự đau đớn thể
xác bởi những chất hóa học trong kiếp này. Cô cũng đã từng dùng một chất
độc để làm cho kẻ khác bị nghẹt thở, và do đó mà ngày nay cô thường bị
nhiễm độc bởi một vài chất kim khí, chất nhựa dẻo và những đồ da thuộc
bằng chất hóa học...
Một loại quả báo thứ nhì thuộc phạm vi vật chất có thể gọi là quả báo về
thể xác, theo đó thì sự lạm dụng thân thể trong một kiếp sẽ gây nên quả
báo tương ứng trong một kiếp về sau. Đây là một thí dụ:
Một người đàn ông ba mươi lăm tuổi, từ thuở nhỏ đã bị chứng đau ruột và
bộ máy tiêu hóa. Ông ta phải ăn uống kiêng cữ gắt gao và chỉ dùng được
một vài loại thức ăn giản dị mà thôi. Và mặc dầu như thế, ông ta cũng
tiêu hóa các bữa ăn một cách rất khó khăn, sau nhiều giờ vất vả và mệt
nhọc.
Chứng bệnh này gây cho ông ta rất nhiều điều bất tiện, và gây trở ngại
không ít trong đời sống xã hội. Cuộc soi kiếp của ông Cayce tiết lộ cho
biết nguyên nhân của bệnh trạng này là trong một tiền kiếp dưới triều
vua Louis XIII bên Pháp, ông ta từng làm hầu cận của nhà vua. Ông thừa
hành công việc một cách tận tâm và chu đáo, nhưng lại có tật tham ăn và
ăn uống quá độ. Trong một kiếp trước nữa, khi ông ta làm y sĩ dưới triều
vua nước Ba Tư, ông cũng thường xuyên ăn uống không có tiết độ. Như thế
trong hai kiếp, ông đã phạm lỗi về tâm lý là lạm dụng sự ăn uống để tìm
khoái lạc cho cơ thể. Điều này làm đảo lộn sự quân bình trong trạng thái
tâm lý của ông ta, và gây ra quả báo tương ứng trong kiếp hiện tại. Quả
báo về xác thân làm cho ông ta bị đau yếu bộ máy tiêu hóa, và bắt buộc
ông ta phải hạn chế sự ăn uống trong kiếp này.
Một loại quả báo thứ ba về xác thân mà người ta thường thấy trong những
cuộc soi kiếp của ông Cayce có thể gọi là quả báo tượng trưng. Đây là
một loại quả báo rất lạ kỳ và thú vị nhất trong các loại quả báo về thể
xác. Một trường hợp thuộc loại quả báo này được kể ra như sau:
Ông Cayce có soi kiếp cho một người thanh niên bị bệnh thiếu máu từ thuở
nhỏ. Anh ta là con của một vị bác sĩ, vì thế đã được săn sóc thuốc thang
và chạy chữa đủ cách, nhưng vẫn vô hiệu quả. Một chứng bệnh nan y như
thế hẳn là phải có một nguyên nhân rất sâu xa.
Một cuộc soi kiếp cho biết rằng trong một tiền kiếp ở xứ Peru, đã năm
kiếp về trước, người này là một vị tướng đem quân chiếm đoạt xứ ấy một
cách bạo tàn. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói:
– Cuộc chiến tranh đó đã làm cho bao nhiêu đầu rơi máu chảy, gây nên một
thảm họa lưu huyết rất lớn. Bởi đó, trong kiếp hiện tại này, anh ta phải
bị bệnh mất máu, không sao chạy chữa.
Chúng ta sẽ hiểu rõ ý nghĩa của sự việc này hơn nếu so sánh với trường
hợp quả báo về thể xác, vì tội lỗi của người này không phải do sự lạm
dụng một bộ phận nào trong cơ thể của anh ta. Đây cũng không phải là một
trường hợp quả báo tương tác, vì nếu như thế thì người thanh niên này có
lẽ đã là nạn nhân của một cuộc tàn sát hung bạo. Trái lại, ở đây chúng
ta thấy nghiệp quả báo ứng vào chính thể xác của y: nó trở thành một
công cụ cho y dùng để nhận lãnh quả báo. Bệnh mất máu làm cho cơ thể anh
ta phải yếu đuối suy nhược kéo dài suốt một đời, chính là một cách trả
nợ nặng nề đau đớn hơn và có một ý nghĩa sâu sắc hơn là một cái chết tức
thời vì đao kiếm trên bãi chiến trường. Người này đã làm đổ máu cả một
dân tộc để thỏa mãn tham vọng chinh phục đất đai. Trong kiếp này, sự yếu
đuối bất lực do bệnh thiếu máu gây nên làm cho anh ta phải chịu quả báo
một cách tượng trưng, nhưng vẫn là tương ứng với hành vi trước đây của
anh ta.
Điều này có vẻ như hoang đường nếu chúng ta không quen với những quan
niệm tương tự cùng loại, qua sự phát minh gần đây về những sự tương quan
giữa tinh thần và thể xác theo khoa Tâm bệnh học (Psychosomatique).
Trước đây không lâu, người ta vẫn tưởng rằng tất cả mọi chứng bệnh đều
do những nguyên nhân về sinh lý. Những sự tiến bộ của khoa chữa bệnh
bằng tinh thần (Psychiatrie) đã chỉ rằng ít nhất có một số bệnh trạng mà
nguyên nhân là do những xáo trộn tinh thần hoặc xúc động tình cảm gây
nên. Từ sự khám phá này, mới nảy sinh ra một ngành y học mới gọi là khoa
Tâm bệnh học (Psychosomatique, do hai danh từ Hy Lạp: psyche là tinh
thần và soma là thể xác). Khoa học này cũng đã đạt được những kết quả
hiển nhiên không thể chối cãi về sự liên quan giữa thể xác và tinh thần.
Khoa Tâm bệnh học đã chứng minh rằng những sự căng thẳng về tình cảm nếu
không biểu lộ được bằng lời nói hay hành động, thường sẽ tự biểu lộ nơi
thể xác một cách tượng trưng bởi một loại “tiếng nói của cơ thể”. Thí
dụ, nếu người bệnh không nuốt được một cách trôi chảy trong bữa ăn mà
người ta không tìm thấy có một nguyên nhân nào thuộc về cơ thể, thì đó
có thể là do có một sự kiện tâm lý trong đời của bệnh nhân mà y “không
thể nuốt được”. Sự buồn nôn, nếu không phải là do bệnh tật của cơ thể
sinh ra, có nghĩa là người bệnh còn mang trong lòng một mối hận nào đó
trong đời sống tình cảm của anh ta mà lúc nào cũng muốn “nôn mửa ra”.
Dường như có một sự tương quan chặt chẽ giữa “tiếng nói của cơ thể” theo
khoa Tâm bệnh học với điều mà ta vừa gọi là “quả báo tượng trưng”. Trong
các trường hợp sau này, dường như đương sự có một ý thức sâu xa thâm
trầm về sự tội lỗi của mình, và ý thức đó biểu lộ ra nơi một bộ phận
trong cơ thể. Sự chọn lựa một bộ phận nào sẽ tùy nơi cái ý nghĩa tượng
trưng của bộ phận ấy. Dưới đây là một vài thí dụ điển hình trong số rất
nhiều trường hợp quả báo tượng trưng mà người ta tìm thấy trong các tập
hồ sơ của ông Cayce.
Một người bị chứng bệnh suyễn kinh niên, trong lúc soi kiếp được nghe
ông Cayce nói rằng:
– Anh đã từng đè nén, áp bức kẻ khác, lẽ tự nhiên, nhân quả báo ứng, có
lúc anh phải cảm thấy nghẹn ngào khó thở, cũng như chính anh bị kẻ khác
đè nén và áp bức vậy.
Một người điếc nhận được lời cảnh cáo rằng:
– Anh đừng bịt tai làm ngơ trước sự đau khổ của những người cầu xin anh
giúp đỡ.
Cuộc soi kiếp cho biết người điếc này là một người dòng dõi quí tộc dưới
thời Cách mạng Pháp, nhưng thường ngoảnh mặt làm ngơ trước những tiếng
rên siết và những cảnh lầm than khốn khổ của người đương thời.
Một người bị chứng bệnh lao tủy sống, được cho biết rằng:
– Ông đã từng gây nhiều chướng ngại khó khăn cho kẻ khác. Nên bây giờ
ông phải chịu những khó khăn chướng ngại đó trong thân thể của chính
mình.
Một người bị chứng bệnh rút gân, làm cho hai chân bị teo bắp thịt, càng
ngày càng nhỏ dần, được cho biết rằng:
– Đây không chỉ là bệnh rút gân và teo bắp thịt mà thôi; đó là hậu quả
của những gì mà anh đã làm cho kẻ khác trong những kiếp trước.
Trường hợp lạ lùng nhất về quả báo tượng trưng trong các tập hồ sơ Cayce
là trường hợp của một đứa trẻ mười một tuổi, có tật đái dầm từ khi lên
hai tuổi. Trường hợp này được kể ra một cách đầy đủ chi tiết hơn, vì
tính cách đặc biệt của sự điều trị cho em bé ấy.
Người thiếu niên này thuở nhỏ rất hiền lành, được cha mẹ nuôi nấng dễ
dàng cho đến khi người mẹ sinh thêm một đứa em gái. Từ khi đó, nó bắt
đầu đái dầm trên giường trong giấc ngủ. Nó đái dầm như vậy mỗi đêm. Cha
mẹ nghĩ rằng có lẽ nó cảm thấy sắp sửa bị bỏ rơi khi người mẹ sinh thêm
một em nhỏ nữa, nên tiềm thức của nó khiến cho nó tái diễn những thói
quen của tuổi sơ sinh để làm cho cha mẹ phải chú ý và săn sóc nó như
thuở trước. Cha mẹ y bèn hết sức cố gắng để bày tỏ cho nó biết rằng tình
thương của cha mẹ vẫn không thay đổi vì đứa em gái nhỏ mới sinh, và nó
vẫn được thương yêu săn sóc như trước, nhưng vẫn không kết quả.
Khi đứa trẻ lên ba tuổi, cha mẹ nó bèn nhờ một vị bác sĩ chuyên môn về
bệnh thần kinh chạy chữa. Sau một năm thuốc thang điều trị, nó vẫn không
thuyên giảm chút nào, và cha mẹ nó đành phải chịu vậy. Suốt năm năm
trường, nó vẫn tiếp tục đái dầm mỗi đêm. Cha mẹ nó chạy đủ thầy và thử
đủ mọi cách điều trị nhưng bệnh vẫn không sao chữa khỏi. Đứa trẻ vẫn đái
dầm như vậy cho đến năm tám tuổi. Một lần nữa cha mẹ em lại chạy chữa
với một bác sĩ khác, và cuộc điều trị kéo dài suốt hai năm, nhưng vẫn
không hiệu quả.
Khi đứa trẻ lên mười tuổi, thấy rằng việc điều trị vẫn không có kết quả
gì, cha mẹ em mới thôi và đành chịu bỏ cuộc.
Khi đứa trẻ lên mười một tuổi tuổi, cha mẹ em nghe nói về khả năng chữa
bệnh của ông Cayce. Người cha bèn đến nhờ ông Cayce khám bệnh về trường
hợp lạ kỳ của đứa con trai mình.
Ông Cayce bèn dùng thần nhãn để soi kiếp cho đứa trẻ thì thấy rằng trong
kiếp trước nó là một giáo sĩ đạo Gia Tô trong thời xử án những kẻ theo
tà giáo. Công việc của người này là trị tội những mụ đồng bóng, phù thủy
bằng cách trói họ trên những chiếc ghế đẩu, rồi cầm chân ghế chổng ngược
đầu để nhận chìm họ xuống ao nước lạnh.
Sau khi đã tìm ra cái lý do nhân quả nói trên, cuộc soi kiếp cho biết
bệnh ấy có hy vọng chữa khỏi. Cha mẹ đứa trẻ được cho biết là hãy áp
dụng phương pháp ám thị cho y trong giấc ngủ, và sự ám thị này phải
thuộc về tinh thần chứ không phải về xác thể.
Vài hôm sau, khi về đến nhà, ban đêm người mẹ bèn đến ngồi bên cạnh
giường con trai bà. Đợi đến lúc em đã ngủ mê, bà mới bắt đầu nói bằng
một giọng trầm trầm và chậm rãi những lời này:
– Con là một người hiền lành tốt bụng. Con sẽ làm cho nhiều người được
sung sướng. Con sẽ giúp đỡ tất cả những người con gặp trên đường đời của
con. Con rất hiền lương và tốt bụng.
Bà lặp đi lặp lại câu ấy nhiều lần, và thay đổi với những danh từ khác
nhau, tuy rằng với bấy nhiêu ý tưởng đó trong chừng mười phút trở lại,
trong khi con bà đang ngủ mê.
Đêm đó, lần đầu tiên từ chín năm nay, đứa trẻ không đái dầm như mọi khi.
Trong nhiều tháng, bà mẹ vẫn kiên trì theo đuổi phương pháp ám thị đó và
cũng vẫn dùng bấy nhiêu lời tương tự. Đứa trẻ không đái dầm một lần nào
trong suốt mấy tháng đó.
Dần dần, bà mẹ thấy rằng bà chỉ cần ám thị ba ngày một lần, rồi sau đó
mỗi tuần một lần cũng đủ; và sau cùng, sự ám thị cũng không còn cần
thiết nữa: Con bà đã hoàn toàn khỏi bệnh.
Trường hợp này có nhiều điểm lý thú. Trước hết là cuộc ám thị vừa áp
dụng lần đầu tiên đã làm dứt hẳn một chứng bệnh kinh niên trong chín
năm. Và nếu người mẹ không phải là một người đàn bà có học thức và đức
hạnh, thì có lẽ người ta đã cho rằng đó là chuyện nói thừa; nhưng bà là
một nữ luật sư ở Tòa Án, bà không phải là một người tin nhảm hay dị đoan
mê tín, và không có tâm địa bất lương.
Điểm thứ hai là trong sự ám thị đó, bà mẹ không hề bảo con là đừng đái
dầm. Sự ám thị đó không nhằm vào cái ý thức về thể xác, mà nhắm vào cái
ý thức tâm linh của người thiếu niên. Nói một cách khác, sự ám thị nhắm
vào cái ý thức về sự tội lỗi mà nó đã làm trong kiếp trước, được biểu lộ
một cách tượng trưng trong thể xác của nó do đường tiểu tiện. Trong kiếp
trước, nó đã nhận chìm người khác xuống ao nước lạnh, hoặc chịu trách
nhiệm về hành động tàn ác đó; nên trong kiếp này, nó cảm thấy trong chỗ
kín đáo, u ẩn của tiềm thức, rằng nó phải trả cái nghiệp ác đó, và cái
quả báo đã ứng hiện vào xác thân của nó một cách tượng trưng. Mặc dầu
trong kiếp này nó không làm hại ai, nhưng một lớp kín đáo trong tiềm
thức làm cho nó nghi ngờ về sự tốt lành của mình, vì nó còn mang nặng
trong lòng cái dấu ấn về sự trừng phạt nặng nề đau khổ mà nó đã gây ra
cho kẻ khác trong kiếp trước. Sự ám thị của bà mẹ đã thức động đến cái
lớp kín đáo u ẩn đặc biệt đó, làm cho nó hiểu rằng sự tội lỗi của nó có
thể xóa bỏ được bằng những hành động và cử chỉ hiền lương, tốt lành, và
bởi đó, cái quả báo tượng trưng kia sẽ không còn là cần thiết nữa.
Từ đó người thiếu niên đã bắt đầu sống một cuộc đời mới. Anh ta được mọi
người thương mến, là một người học trò tốt và tỏ ra có khả năng lãnh
đạo. Tâm tình, tính chất của anh ta đã thay đổi. Trong một cuộc giảo
nghiệm về khả năng tại Viện Đào tạo nhân cách Johnson O’Connor, anh ta
đã được xếp vào hàng những người có triển vọng thành công trong sự giao
tế xã hội.
Người mẹ cho rằng sự thay đổi cá tính của anh ta một phần nhờ sự điều
trị thần kinh, và một phần nhờ cuộc khám bệnh bằng thần nhãn của ông
Cayce.
Hiện nay, vào năm mười tám tuổi, theo ý kiến của cha mẹ thiếu niên này,
thì người anh ta có một đức tính căn bản là rộng rãi khoan dung đối với
mọi người. Đối với những thói hư tật xấu của người đời, anh ta đều tìm
cách bào chữa và tìm ra một sự giải thích về tâm lý để khoan dung và tha
thứ cho họ. Dường như tánh độc ác, khắc nghiệt của anh ta trong kiếp
trước, mà chứng bệnh đái dầm là một hình phạt tượng trưng, đã được biến
đổi thành một đức tánh khoan dung nhân hậu trong kiếp này. Nhờ đó, cán
cân nhân quả đã lập lại sự thăng bằng, và căn bệnh quả báo của anh ta
cũng dứt tuyệt.
Nếu chúng ta xét lại những trường hợp nhân quả báo ứng kể trên, chúng ta
có thể thấy rõ một vài nguyên tắc tác động chung của luật nhân quả.
Trong những cuộc quan sát và soi kiếp của ông Cayce, ông đã chỉ cho ta
thấy rằng mọi hành động trong quá khứ đều gây nên một nghiệp quả hiển
nhiên và cụ thể trong hiện tại. Nhưng cái nghiệp quả đó không phải lúc
nào cũng báo ứng một cách thật ăn khớp với cái nguyên nhân đã gây ra,
theo kiểu như vay thế nào trả thế ấy.
Thí dụ như trường hợp người nhạc sư bị mù mắt. Kiếp trước ông ta đã dùng
dùi sắt nhọn nướng đỏ chọc vào mắt kẻ tù binh; nhưng kiếp này ông ta
không sinh làm dân của một bộ lạc dã man để rồi bị bắt làm tù binh của
một bộ lạc thù địch tàn bạo, dùng dùi sắt nướng đỏ chọc vào mắt ông ta
giống như vậy. Ông ta sinh ra đã bị mù lòa, và sinh trưởng trong một xã
hội văn minh tân tiến của thế kỷ hai mươi. Những sự việc xảy ra trong
kiếp này của ông ta không hoàn toàn giống hệt như sự việc đã xảy ra
trong kiếp trước.
Thí dụ trên và nhiều thí dụ khác cùng một loại có thể cho phép chúng ta
đi đến kết luận chung rằng: Luật nhân quả là một định luật tâm lý, nó
tác động trước hết là trên địa hạt tâm lý. Những hoàn cảnh vật chất chỉ
là một phương tiện để đạt tới cái mục đích tâm lý đó mà thôi. Vì thế, sự
báo ứng của nghiệp quả trên bình diện vật chất không hẳn phải là đúng
khớp với cái nguyên nhân đã gây ra từ trước, mà chỉ là đúng theo một
cách tượng trưng, dựa vào yếu tố nhận thức tâm lý là chính. Trên bình
diện tâm lý, nghiệp quả báo ứng mới thật là tương ứng và trọn vẹn.
Một nguyên tắc đại cương khác dường như căn cứ trên vấn đề khí cụ của
nghiệp quả. Trong các tập hồ sơ của ông Cayce, người ta không hề thấy có
trường hợp nào mà sự đau khổ trong kiếp hiện tại lại gây ra bởi một nạn
nhân cũ của đương sự trong kiếp trước, và đã gặp lại người ấy trong kiếp
này. Trong trường hợp của vị nhạc sư mù từ lúc mới sinh: Không có điều
gì chỉ rằng cha mẹ ông ta vốn là những nạn nhân cũ trong kiếp trước, nay
đầu thai lại để hành phạt ông ta. Cô thiếu nữ làm nghề sửa móng tay bị
bệnh liệt bại hai chân từ thuở nhỏ không phải là bị trả thù bởi những
nạn nhân cũ của cô trước kia ở châu Atlantide...
Nói tóm lại, quả báo xảy đến thường là không phải do nạn nhân đương sự
gây ra, mà có thể do những người khác, những người này chỉ là những công
cụ của nghiệp quả, cũng như những người tay sai đi đòi nợ, để cho đương
sự thông qua đó mà trả những món nợ cũ. Và những người “tay sai” này
cũng chỉ hành động một cách vô ý thức, chứ không biết gì cả về cái vai
trò “thiên lôi” hay “hung thần” của mình, tức là cái vai trò làm công cụ
của nghiệp quả.