Người ta có thể học được rất nhiều điều qua việc đối mặt và giải quyết 
		những vấn đề khó khăn. Sự giải quyết nhiều vấn đề lý thú thường căn cứ 
		trên một nguyên tắc quan trọng là sự suy luận hợp lý hay suy gẫm sâu 
		sắc. Vấn đề quan trọng nhất trong mọi vấn đề bí ẩn của cuộc đời là bí ẩn 
		về con người: Con người thật ra là ai? Từ đâu đến và sẽ đi về đâu? 
		Để giải đáp vấn đề này, chúng ta có thể áp dụng một phương pháp khoa học 
		giản dị như sau: Chúng ta đưa cho một người sáu que diêm và bảo anh ta 
		hãy sắp thành bốn hình tam giác đều. Người ấy sẽ lần mò sắp xếp các que 
		diêm theo đủ cách khác nhau, và trải qua một hồi lâu, anh ta cuối cùng 
		cũng đành chịu thua và bỏ cuộc vì quả thật là không có cách nào để thực 
		hiện yêu cầu đó được. 
		Bài toán bí hiểm này chỉ có thể được giải quyết nếu người ấy bỏ cái đi 
		cái định kiến sẵn có là chỉ xếp các que diêm trên một mặt phẳng, mà thật 
		ra là người đưa ra bài toán không hề yêu cầu. Khi chuyển sang sắp xếp 
		các que diêm theo hình khối trong không gian, ta sẽ có đủ bốn hình tam 
		giác đều theo đúng yêu cầu một cách dễ dàng. 
		Những vấn đề bí ẩn của đời người lại cũng có phần tương tự như cái mẹo 
		vặt trong bài toán nói trên. Vì chúng ta luôn bị trói buộc vào những 
		định kiến do chính ta đặt ra, bằng những khái niệm và quy tắc, nên ta 
		không thể nào nhận thức thực tại một cách đúng thật như nó đang hiện 
		hữu. Chúng ta tự mình giới hạn sự sống trong những giới hạn tồn tại của 
		vật chất, trong khi sự tồn tại của vật chất thật ra chỉ là một phần 
		trong cái toàn thể là sự sống. Thật ra, nếu suy xét một cách khách quan, 
		ta sẽ thấy rằng sự tồn tại của vật chất tự nó không thể tạo thành sự 
		sống. Giữa một người vừa tắt thở và một người còn đang sống, về cơ bản 
		không khác nhau mấy về thành phần cấu trúc vật chất. Nhưng đó là hai 
		thực thể hoàn toàn khác nhau. Vậy người sống khác với xác chết ở điểm 
		nào? Trả lời được câu hỏi ấy là ta đã bắt đầu hé mở được cánh cửa khép 
		chặt những bí ẩn của cuộc đời.
		Người ta thường cho rằng đời người chỉ là cái kiếp sống của thể xác, nên 
		sự sống của một người đương nhiên phải bị giới hạn kể từ khi bắt đầu 
		sinh ra cho đến khi chết là hết. Nhưng nếu xét kỹ ta sẽ nhận ra được 
		rằng con người không phải chỉ là cái thể xác vật chất này, mà cần có một 
		yếu tố khác nữa mới có thể tạo thành sự sống. Yếu tố đó, một số người 
		gọi là linh hồn, một số người khác gọi là tâm thức, nhưng dù gọi tên nó 
		là gì thì cũng phải thừa nhận rằng nó là phần vô hình và chỉ có thể nhận 
		biết bằng trực giác hay suy luận mà thôi. 
		Những người cố chấp vào kiến thức khoa học hiện đại dường như vẫn chưa 
		chịu chấp nhận sự tồn tại của yếu tố vô hình này, mà cố gán ghép nó cho 
		những hoạt động của bộ não, với những xung điện và hệ thần kinh điều 
		khiển cơ thể, vì họ cho rằng hoạt động này cũng vô hình. Thật ra, những 
		hoạt động của não bộ tuy là vô hình đối với mắt thường, nhưng vẫn hoàn 
		toàn có thể nhận biết được bằng những công cụ khoa học, nên không hề 
		đồng nhất với yếu tố tinh thần mà chúng ta đang đề cập. Hơn nữa, khi thử 
		tạo ra những hoạt động tương tự như của não bộ, người ta vẫn không thể 
		tạo thành cái gọi là sự sống.
		Như vậy, liệu phần tinh thần của chúng ta có tồn tại trước khi sinh ra 
		và sẽ tiếp tục tồn tại sau khi ta chết đi hay chăng? Về mặt tôn giáo, 
		hầu như người ta đã mặc nhiên thừa nhận điều này từ rất xa xưa, được 
		nhận biết bằng vào kinh nghiệm trực tiếp của những người đã khai mở được 
		trí tuệ giác ngộ. Nhưng vì là kinh nghiệm trực tiếp của từng cá nhân, 
		nên người ta không có cách gì chứng minh điều đó với mọi người khác, mà 
		chỉ có thể chỉ ra con đường để giúp người khác cũng đạt đến sự nhận biết 
		tương tự như mình. Điều này cũng giống như một người ăn quả ớt và biết 
		được vị cay của nó, nhưng không thể truyền đạt cái kinh nghiệm đó cho 
		những ai chưa từng ăn quả ớt. Cách duy nhất để có được kinh nghiệm này 
		là phải tự mình ăn quả ớt mà thôi. Và khi mỗi chúng ta chưa có điều kiện 
		để tự mình ăn ớt, thì điều tất nhiên là ta không khỏi phân vân trước sự 
		chọn lựa tin hay không tin vào sự mô tả của những người đã từng ăn nó.
		Chính vì vậy mà về mặt khoa học người ta vẫn không khỏi hoài nghi về sự 
		tồn tại của cái gọi là linh hồn hay tâm thức. Nếu có thể tìm ra một cách 
		nào đó để chứng minh sự tồn tại này một cách khoa học, thì có lẽ điều đó 
		sẽ làm đảo lộn tất cả mọi quan niệm của khoa học hiện nay.
		Tuy nhiên, khoa học vẫn phải thừa nhận một yếu tố phi vật chất luôn hiện 
		hữu trong tất cả mọi con người, dù rằng họ không biết được là nó có tiếp 
		tục sẽ tồn tại sau khi chết hay không. Yếu tố đó là phần tâm lý khác 
		biệt của mỗi con người, và được nghiên cứu rất kỹ trong khoa tâm lý học 
		hiện nay. 
		Trong thời gian gần đây, các nhà tâm lý học đã có nhiều thành tựu trong 
		việc nghiên cứu về cá tính con người, và nhờ những kết quả nghiên cứu 
		công phu đó, người ta đã có nhiều sự vận dụng thực tế vào các vấn đề lao 
		động, hướng nghiệp, công tác xã hội v.v... Tuy thế những cuộc nghiên cứu 
		đó cũng chỉ cho biết một cách rất nông cạn về con người. Chung quy cũng 
		giống như việc loay hoay sắp xếp sáu que diêm trên một mặt phẳng để cố 
		tạo ra bốn hình tam giác. 
		Nếu người ta chịu buông bỏ những định kiến về giới hạn của đời người, 
		chấp nhận rằng thuyết luân hồi là có thật, rằng con người không phải sau 
		khi chết đi là chấm dứt tất cả, thì điều đó sẽ mở ra một khả năng mới để 
		thăm dò và nhận hiểu về những vấn đề bí ẩn của cuộc đời. Nhờ đó, người 
		ta có thể nhận thấy rằng những tánh tình, cử chỉ, thái độ, đức tánh, 
		hoặc những sự kiện xảy đến cho một con người không chỉ đơn giản là do 
		những điều kiện trong hiện tại quy định. Điều này sẽ giải thích những 
		khác biệt lớn lao của những con người khác nhau ngay từ khi sinh ra, cho 
		dù họ có thể ra đời trong cùng một gia đình, lớn lên trong cùng một hoàn 
		cảnh tương tự như nhau. Điều gì khiến cho một người sinh ra đã sẵn có 
		lòng nhân hậu, và một người khác luôn nóng nảy, cộc cằn? Điều gì khiến 
		cho một người lớn lên dễ dàng trở thành một thiên tài toán học, trong 
		khi một người khác dù nỗ lực cố gắng bao nhiêu năm mà vẫn không vượt qua 
		được ngưỡng cửa Trung học? 
		Những người cố chấp vào kiến thức khoa học có thể sẽ phản đối và đặt câu 
		hỏi: “Chúng ta đều là những người đang sống, làm sao có thể khẳng định 
		rằng sự sống vẫn tiếp tục sau khi chết?” Tuy nhiên, với cùng một thái độ 
		khách quan, nghiêm túc và cũng không kém phần khoa học, ta vẫn có thể 
		đặt câu hỏi ngược lại rằng: “Chúng ta đều là những người đang sống, làm 
		sao có thể khẳng định rằng sự sống sẽ không tiếp tục sau khi chết?”
		
		Trong cả hai trường hợp, có thể nói là khả năng quyết đoán đều như nhau, 
		và chỉ có thể kết luận rằng những điều đó chỉ là giả thuyết. Nhưng trong 
		trường hợp của giả thuyết thứ hai, nghĩa là sự sống vẫn còn tiếp tục sau 
		khi chết, chúng ta sẽ nhận được những biện giải hợp lý hơn cho nhiều 
		hiện tượng bí ẩn vẫn luôn diễn ra trước mắt ta trong cuộc đời.
		Sự buông bỏ những định kiến giới hạn sẽ giúp chúng ta nhận thức về cuộc 
		đời một cách thông thoáng hơn, tương tự như người sắp xếp những que diêm 
		kia chịu chấp nhận sử dụng đến kích thước không gian thay vì chỉ giới 
		hạn trên một mặt phẳng. Chưa có một kết luận khoa học nào có thể khẳng 
		định chắc chắn rằng sự sống không tiếp tục sau khi chết, cũng như chưa 
		có một kết luận khoa học nào khẳng định rằng không có sự sống ở các hành 
		tinh khác trong vũ trụ. Khoa học vẫn còn đang trên bước đường tìm kiếm, 
		và chúng ta không thể vì những điều chưa biết mà tự giới hạn mình.
		Chúng ta có thể thử dùng một hình ảnh so sánh khác. Như một khối băng 
		khổng lồ trôi trên mặt biển, bao giờ cũng chìm dưới nước đến chín phần 
		và chỉ nổi ở phía trên có một phần thôi. Chúng ta không thể vì việc chỉ 
		nhìn thấy được một phần bên trên mà phủ nhận sự tồn tại của chín phần 
		không nhìn thấy bên dưới nước. Tuy không nhìn thấy, nhưng ta có thể nhận 
		biết sự tồn tại của nó thông qua việc nhìn thấy phần nổi bên trên. Tương 
		tự, tuy chúng ta không nhìn thấy được những tiền kiếp hay sự tiếp nối 
		của đời sống sau khi thể xác chết đi, nhưng có rất nhiều bằng chứng cho 
		thấy mối liên hệ giữa những kiếp sống đã qua và những gì xảy ra trong 
		hiện tại. Nếu không có những mối liên hệ này, ta sẽ không sao giải thích 
		được những sự kiện kỳ lạ vẫn đang xảy ra ngay trong thế kỷ này. Chẳng 
		hạn như sự tái sinh của các vị Lạt-ma Tây Tạng, hay những người có khả 
		năng nhớ lại đời sống trước đây và nhận biết, gọi tên những người mà 
		trong kiếp sống trước họ đã từng quen biết...
		Vì thế, sự chấp nhận thuyết luân hồi sẽ hé mở cho ta thấy được chín phần 
		khối băng chìm sâu dưới nước, còn khoa tâm lý học hiện nay dù đã nghiên 
		cứu một cách vất vả mệt nhọc nhưng chỉ giới hạn trong một phần nhỏ bé 
		nổi lên phía trên, mà họ có thể nhìn thấy! 
		Những tập hồ sơ của ông Cayce còn đưa ra nhiều trường hợp về mối liên hệ 
		vượt thời gian như vừa nói trên, qua đó giải thích về cá tính hiện nay 
		của một người. 
		Trong một cuộc soi kiếp, ông Cayce nói về một người lính Gaulois bị 
		tướng La Mã Annibal bắt làm tù binh và sai làm nô lệ chèo thuyền ở giữa 
		biển. Người tù binh này bị các tên lính da đen ngược đãi và sau cùng anh 
		ta bị một tên da đen đánh chết. Việc này xảy ra đã từ ba kiếp về trước, 
		nhưng lòng thù hận về hành động tàn ác này đã ăn sâu vào tiềm thức của 
		anh ta trải qua hai mươi hai thế kỷ. Trong kiếp này, anh ta làm một nông 
		dân chuyên việc trồng tỉa ở tiểu bang Alabama, Hoa Kỳ. Suốt đời anh ta 
		luôn có một thái độ thù ghét sâu đậm đối với những người da đen, nhưng 
		khi được hỏi thì chính anh ta cũng không sao giải thích được thái độ đó.
		
		Đó là một thí dụ cho thấy người ta chịu ảnh hưởng của những kiếp sống 
		trước đây trong việc thể hiện cá tính của mình. Người ta có thể tìm thấy 
		rất nhiều trường hợp tương tự như thế trong các tập hồ sơ của ông Cayce.
		
		Một nhà báo kia biểu lộ trong nhiều năm một tinh thần chống Do Thái mãnh 
		liệt. Một cuộc soi kiếp cho biết rằng thái độ ấy bắt nguồn từ một kiếp 
		trước ở xứ Palestine, khi anh ta thuộc về giáo phái Samaritain, thường 
		có những cuộc xung đột dữ dội với người Do Thái ở nước láng giềng. 
		Một người đàn bà ba mươi tám tuổi, độc thân, đã có nhiều mối tình duyên 
		trong đời, nhưng không chịu kết hôn với một người nào vì luôn có một 
		thái độ nghi kỵ đối với đàn ông. Sự dè dặt và nghi kỵ này xuất phát từ 
		một kiếp trước khi bà ta đã từng đau khổ vì bị người chồng bỏ rơi một 
		cách tàn nhẫn. 
		Một người phụ nữ nọ có một tinh thần tôn giáo rất rộng rãi khoan dung. 
		Khi soi kiếp, ông Cayce cho biết rằng cô có đức tính này là nhờ trong 
		một kiếp trước cô đã từng sống chung với những người thuộc các tôn giáo 
		khác. Trong khi tiếp xúc, cô đã nhận thức được rằng những người “ngoại 
		đạo” cũng biểu lộ nhiều đức tính tốt như can đảm, nhân từ, khoan dung độ 
		lượng... Điều này đem đến cho cô một ấn tượng mạnh mẽ sâu xa đến nỗi nó 
		đã làm cho cô có một ý thức rõ rệt và bền bỉ về đức tính khoan dung đối 
		với người thuộc những tôn giáo khác hơn mình. 
		Trái lại, một người làm nghề quảng cáo có óc hoài nghi và không có tín 
		ngưỡng tôn giáo, được biết là kiếp trước đã từng tiếp xúc với nhiều giáo 
		sĩ và nhận thấy có sự khác biệt mâu thuẫn giữa những điều họ thuyết 
		giảng và với hành động của họ. Điều này đã làm anh ta hết sức thất vọng, 
		đến nỗi trong kiếp này anh ta vẫn còn giữ một sự nghi ngờ rất lớn đối 
		với những sự biểu lộ tôn giáo về hình thức bên ngoài. 
		Những thí dụ kể trên bao gồm ba thái độ khác nhau: thái độ về vấn đề 
		chủng tộc, đối với người khác phái và đối với vấn đề tôn giáo, mà nguyên 
		nhân đều xuất phát từ một kiếp trước. 
		Các nhà tâm lý học hiện đại đều thừa nhận rằng những thái độ tinh thần 
		của con người vốn được hình thành từ trong tiềm thức rồi mới biểu lộ ra 
		ngoài. Nhưng họ hiểu về tiềm thức chỉ trong giới hạn của kiếp sống này, 
		nghĩa là những ký ức mờ nhạt về thời thơ ấu chẳng hạn. Thuyết luân hồi 
		chỉ nới rộng giới hạn của tiềm thức bao gồm cả những kinh nghiệm đã trải 
		qua từ những kiếp trước, và như thế về nguyên tắc cũng không phải là mâu 
		thuẫn với khoa tâm lý học. 
		Ngay cả những sở thích khác nhau của mc người cũng có thể có nguyên nhân 
		bắt nguồn từ một trong những tiền kiếp xa xôi. Thí dụ, trong một gia 
		đình có hai người con, nhưng một người yêu thích âm nhạc, một người lại 
		yêu thích những vấn đề liên quan đến máy móc, cơ khí. Sự giải thích 
		thông thường của khoa tâm lý học trong những trường hợp này thường gặp 
		bế tắc vì họ chỉ dừng lại ở những khác biệt trong môi trường sống và 
		những kinh nghiệm trong kiếp sống hiện tại, và điều đó thường không thể 
		dẫn đến những khác biệt quá lớn lao hoặc thậm chí là trái ngược. 
		Những tập hồ sơ của ông Cayce chứa đựng những thí dụ dưới đây về những 
		khuynh hướng đặc biệt của một số người được truy nguyên ra từ nhiều kiếp 
		trước. 
		Một vị nha sĩ sinh trưởng ở thành phố New York, mặc dầu rất hài lòng về 
		công việc và đời sống ở thành thị, nhưng thỉnh thoảng lại thấy muốn sống 
		ở đồng ruộng hoặc trên bờ sông với một khẩu súng đi săn và một cần câu; 
		và cắm trại một mình với một chiếc lều dựng lên giữa bãi sa mạc. Sự 
		thích thú sống gần với thiên nhiên này vốn không phù hợp với tâm tính 
		của một người quen sống ở thị thành, nhất là khi gia đình ông ta đã từng 
		sống ở thành thị trải qua nhiều thế kỷ. Điều này chỉ có thể giải thích 
		được bằng thuyết luân hồi. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng 
		trong một tiền kiếp, người này là một người Đan Mạch di cư sang Bắc Mỹ 
		trong thời kỳ khai thác thuộc địa. Ông ta sống ở New Jersey, trong một 
		vùng có nhiều đầm lầy, hồ ao, sông rạch; từng sống với nghề săn bắn, bẫy 
		thú rừng, và buôn bán các loại da thú. Cuộc đời hoạt động giữa chốn rừng 
		rậm, đầm lạch, sông ngòi, đã đem đến cho anh ta một sự thích thú đặc 
		biệt vẫn còn tồn tại đến ngày nay, tuy rằng điều ấy còn phải lệ thuộc 
		vào đời sống hành nghề nha sĩ trong kiếp này. 
		Có nhiều người cảm thấy yêu mến nồng nàn một xứ sở hay một địa phương xa 
		lạ. Những cuộc soi kiếp truy nguyên ra sự hấp dẫn này ở một kiếp trước 
		của đương sự, trong kiếp đó họ đã từng trải qua một thời kỳ sung sướng 
		và hạnh phúc ở xứ sở ấy. Thí dụ như một người phụ nữ kinh doanh buôn bán 
		lớn ở vùng bờ biển phía đông Hoa Kỳ nhưng luôn có ý muốn di cư xuống ở 
		miền Tây Nam. Sau cùng bà ta di cư thật và hiện nay làm chủ một khách 
		sạn lớn ở tại New Mexico. Cuộc soi kiếp cho biết bà đã từng sống trong 
		hai tiền kiếp ở vùng này, và lòng trìu mến của bà đối với xứ ấy vẫn còn 
		tồn tại. 
		Có bốn người kia, một người cảm thấy yêu mến những vùng hải đảo miền Nam 
		Thái Bình Dương, một người muốn sống ở tiểu bang New Orleans, một người 
		yêu mến xứ Ấn Độ và một người lại thích ở xứ Trung Hoa. Những cuộc soi 
		kiếp cho biết rằng trong kiếp trước, họ đã từng sống ở các xứ ấy, và đó 
		là lý do của sự hấp dẫn nói trên. 
		Sự thích thú một bộ môn nghệ thuật hay một nghề nghiệp nào cũng có thể 
		là do ở những kinh nghiệm trong các tiền kiếp. Một thiếu phụ kia yêu 
		thích đến say mê môn khiêu vũ và kịch nghệ Hy Lạp, được biết rằng đó là 
		do kinh nghiệm trong một kiếp trước của bà ở Hy Lạp, trong thời kỳ những 
		môn nghệ thuật này phát triển đến cực điểm. Sự thích thú của một thanh 
		niên nọ về hiện tượng thần giao cách cảm được truy nguyên ra từ một kiếp 
		trước ở châu Atlantide, trong kiếp đó anh ta đã dạy môn tâm lý học và 
		chuyển di tư tưởng. Cũng do một kinh nghiệm cũ về nghề hoa tiêu và giám 
		đốc ngành vận chuyển ở châu Atlantide mà một thiếu nữ nọ cảm thấy rất 
		thích thú nghề phi công và bộ môn kỹ thuật hàng không trong kiếp này.
		
		Một người đàn bà nọ ham thích làm việc công tác xã hội phụng sự các trẻ 
		em tật nguyền khốn khổ, được cho biết rằng kiếp trước y đã từng sống ở 
		xứ Palestine, chịu ảnh hưởng giáo lý của đức chúa Jesus và bắt đầu hiến 
		dâng cuộc đời để săn sóc cứu chữa những kẻ tàn tật, bệnh hoạn. 
		Một vị kỹ sư nọ đảm nhiệm một cơ quan nghiên cứu, và đã từng làm việc 
		nhiều năm trong phong trào phát triển ngành kỹ thuật, kiếp trước vốn là 
		một người Atlante chuyên về ngành quản trị khoa học. 
		Sự tái diễn những kinh nghiệm và khả năng đặc biệt từ những tiền kiếp 
		dường như càng biểu lộ rõ rệt trong cuộc đời của những nhân vật tên 
		tuổi. Chúng tôi không căn cứ điều này trên những cuộc soi kiếp của ông 
		Cayce, mà căn cứ trên tiểu sử của những nhân vật ấy. Thí dụ như trường 
		hợp của ông Heinrich Schliemann,
[8] nhà khảo cổ Đức 
		đã khám phá di tích cổ của thành Troie bị chôn sâu trong lòng đất, và 
		nhờ đó đã xác nhận tính cách lịch sử của thiên anh hùng ca “Iliade” của 
		Homère. 
		Ông là con của một vị mục sư nghèo, giảng đạo tại một làng ở miền bắc 
		nước Đức nhưng trong lúc thiếu thời ông đã say mê Iliade; ông nhất định 
		học tiếng Hy Lạp và truy tầm nơi diễn tả sự tích của thiên anh hùng ca 
		bất hủ này. Trong ba mươi lăm năm, ông Schliemann cố gắng dành dụm một 
		số tiền để giúp ông thực hiện công trình khảo cổ này. Ông trở nên một 
		nhà sinh ngữ học ưu tú, nhưng ông lại thích nhất môn sinh ngữ Hy Lạp và 
		tất cả những gì thuộc về xứ sở ngàn năm văn vật này. Về sau, ông dùng 
		những cách hành văn Hy Lạp trong khi nói chuyện và nhà chép tiểu sử của 
		ông thuật lại rằng trong dịp làm lễ rửa tội cho con trai ông, ông đặt 
		quyển anh hùng ca của Homère trên đầu con ông và ngâm vang lên những câu 
		thơ bất hủ trong đó trước khi giao nó cho vị linh mục làm phép rửa tội! 
		Điều này chỉ là một trong những cử chỉ biểu lộ rõ nét một lòng hâm mộ và 
		say mê nồng nhiệt nền văn hóa cổ xưa của xứ Hy Lạp. Một sự say mê nồng 
		nhiệt như thế chỉ có thể hiểu được nếu chúng ta thấy rằng đó là do ký ức 
		của ông muốn nhắc nhở và sống lại thời kỳ hạnh phúc đã qua trong dĩ 
		vãng. 
		Một thí dụ khác cũng rất lý thú là trường hợp của nhà văn Lafcadio 
		Hearn.
[9] Ông sinh ra trên một hòn đảo Hy Lạp, cha 
		ông là người Ái Nhĩ Lan, mẹ ông là người Hy Lạp. Ông đi phiêu lưu giang 
		hồ từ Hy Lạp sang Anh quốc, Mỹ quốc, đảo Guadeloupe, Martinique, và sau 
		cùng ông đã tìm thấy “quê hương tinh thần” của ông ở xứ Phù Tang (Nhật 
		Bản). Tại đây ông cưới vợ Nhật, đổi tên Nhật, và dạy học ở một trường 
		Nhật. Sự hiểu biết sâu xa về tâm hồn của người Nhật, tài năng lạ lùng 
		của ông trong sự diễn đạt cái tinh hoa của nước Nhật cho thế giới Âu Tây 
		và diễn đạt tư tưởng Âu Tây cho người Nhật, chỉ có thể không làm cho ta 
		ngạc nhiên nếu thừa nhận rằng đó là do những kinh nghiệm cũ của ông 
		trong một tiền kiếp ở Nhật Bản. Bằng không, đó sẽ là một điều vô cùng 
		khó hiểu! 
		Trường hợp của ông T. E. Lawrence
[10] là một thí 
		dụ khác nữa. Ông ta đặc biệt tỏ ra khôn khéo trong việc tiếp xúc với 
		người Ả Rập và đã sống chung với họ như một người Ả Rập. Ông không hề 
		cảm thấy thoải mái dễ chịu ở tại quê hương xứ sở hay trong gia đình ông 
		ở Anh quốc. Ông chán nản mọi sự học ở nhà trường, trừ ra một vài buổi 
		học lịch sử liên quan đến Ả Rập và việc nghiên cứu các tòa lâu đài cùng 
		thành lũy thời Trung Cổ. 
		Sự thành công đặc biệt của ông trong vai trò chỉ huy quân đội Ả Rập có 
		thể hiểu được như là kết quả của một kiếp trước vào thời Trung Cổ, khi 
		ông là người Ả Rập và là một chiến thuật gia, nhưng không đạt được mục 
		đích trước khi từ trần. 
		Những khuynh hướng đặc biệt như trên không phải chỉ có ở những nhân vật 
		tên tuổi của lịch sử mà thôi; mỗi người đều có thể nhận thấy ít nhiều 
		khuynh hướng đó ở chính những bạn bè thân quyến của mình. Những nét 
		riêng hay đặc điểm về cá tính, cũng như những sở thích và thái độ đặc 
		biệt của một người là những yếu tố quan trọng trong việc phân tích tâm 
		lý, và những tập hồ sơ Cayce đã nêu ra những trường hợp vô cùng lý thú 
		về sự truy tìm nguyên nhân ở những kiếp trước. 
		Bà vợ của một nhà triệu phú ở miền Tây Hoa Kỳ có một cá tính rất độc tài 
		và chuyên chế. Cuộc soi kiếp cho biết nguyên nhân là vì kiếp trước bà đã 
		từng làm giáo sư ở tiểu bang Ohio, và trong những kiếp trước nữa đã từng 
		nắm giữ những chức vụ cao ở Palestine và ở Ấn Độ. 
		Một thanh niên từ thuở nhỏ đã tỏ ra rất thích những cuộc tranh luận đôi 
		co, và có khả năng biện luận một cách rất hùng hồn và xác đáng. Nguyên 
		nhân là trong một kiếp trước anh ta đã từng làm một luật gia và một kiếp 
		trước nữa đã làm quan tòa ở xứ Ba Tư. 
		Một người đàn bà có khuynh hướng trầm lặng và thần bí. Trong kiếp trước, 
		bà ấy đã từng đứng đầu một tu viện kín vào hồi đầu thế kỷ 19. 
		Một thanh niên con nhà giàu có nhưng lại có tật chè chén say sưa quá độ 
		đến nỗi gây sự thất vọng và đau khổ cho gia đình. Thói say sưa này được 
		truy nguyên ra do sự chơi bời phóng túng trong kiếp trước, vào thời kỳ 
		thiên hạ đổ xô nhau đi tìm vàng ở California. 
		Người ta còn thấy hằng trăm trường hợp khác tương tự trong những cuộc 
		soi kiếp của ông Cayce. Khoa tâm lý học hiện đại cho rằng sự khác biệt 
		về cá tính giữa hai con người được quyết định trước hết do sự di truyền 
		và sau đó do ảnh hưởng của môi trường chung quanh. Tuy nhiên, nếu nhìn 
		từ góc độ của thuyết nhân quả thì chính sự di truyền và ảnh hưởng của 
		môi trường cũng chính là những kết quả báo ứng của những nguyên nhân đã 
		gây ra từ những kiếp trước. 
		Đức Phật có dạy: “Tư tưởng làm chủ mọi hành vi. Những gì chúng ta làm 
		đều là kết quả của những điều ta đã suy nghĩ.” (Kinh Pháp cú, kệ số 1)
		
		Có nhiều người tuy chấp nhận luật nhân quả nhưng lại hiểu sai về luật 
		này như một công cụ chỉ dùng để trừng phạt và gây đau khổ. Ta nên nhớ 
		rằng danh từ karma chỉ có nghĩa là hành động, hay nghiệp, và đó là một 
		danh từ không hàm ý tốt hay xấu. Nghiệp quả không phải bao giờ cũng chỉ 
		cho những quả báo xấu, khiến người ta phải đau đớn, khổ sở khi chịu 
		đựng. Bởi vì mỗi một hành động có thể là tốt hay xấu, ích kỷ hay vị 
		tha... Và nếu cách hành động cư xử của một người là tốt thì điều tất 
		nhiên là người ấy sẽ nhận được những quả báo tốt lành, được hưởng một 
		cuộc sống có nhiều niềm vui và sức khỏe chẳng hạn. Không có gì ngăn trở 
		tất cả chúng ta đều làm những việc tốt đẹp, hiền thiện để nhận được 
		những nghiệp quả tốt lành; và nếu mọi người đều có thể làm được như thế 
		thì có lẽ cuộc sống trần gian đã ngay lập tức có thể biến thành một cõi 
		thiên đàng, không cần ta phải chờ đợi hay tìm kiếm ở đâu xa.
		Chính ở điểm này mà ta có thể nhận ra khá nhiều điều thú vị. Một người 
		do sự tham lam hoặc sân hận đã phạm vào tội lỗi xấu ác, điều tất yếu là 
		anh ta phải nhận lấy những nghiệp quả xấu và trở thành người ngu dốt, 
		thấp hèn hoặc mang nhiều tính xấu... Nhưng chính vì sinh ra làm một 
		người thấp kém hèn hạ hoặc có nhiều tính xấu mà anh ta lại dễ dàng tiếp 
		tục thực hiện thêm nhiều việc xấu ác, để rồi những kiếp sống tương lai 
		chờ đón anh ta lại càng u ám, xấu xa hơn nữa. Ngược lại, nếu một người 
		biết quên mình vì người khác hoặc làm được những việc tốt đẹp, hiền 
		thiện, cứu giúp nhiều người, anh ta sẽ nhận được những quả báo tốt đẹp, 
		sẽ sinh ra làm một người thông minh, giàu có, luôn được sống trong những 
		môi trường thuận lợi, tốt đẹp... và do đó anh ta lại có đủ điều kiện để 
		tiếp tục thực hiện những điều tốt lành, hiền thiện, và tiếp tục tạo dựng 
		được những kiếp sống tương lai ngày càng tươi sáng hơn.
		Có gì là bất công trong khuynh hướng tự nhiên này chăng? Có vẻ như người 
		tốt sẽ ngày càng thêm tốt hơn mà không phải nỗ lực nhiều, vì mọi thứ đều 
		thuận lợi chung quanh anh ta; ngược lại, kẻ xấu ngày càng thêm xấu vì 
		hoàn cảnh chung quanh luôn xô đẩy, lôi cuốn anh ta ngày càng chìm sâu 
		vào tội lỗi, cho dù có một đôi lúc hồi tâm chuyển ý thì dường như cũng 
		khó lòng cưỡng lại được sự sa đọa.
		Sự thật thì điều này không có gì là sai trái hay bất công cả. Mỗi người 
		đều có một quyền tự do tuyệt đối trong sự quyết định những hành vi của 
		mình. Điều quan trọng là chúng ta phải có quyết tâm khởi sự làm điều 
		thiện, và việc đó không bao giờ là quá muộn. Sự khởi đầu luôn là bước 
		khó khăn nhất, nhưng chính nó sẽ tạo ra nền tảng cho mọi bước tiến về 
		sau của chúng ta.
		Chúng ta hãy thử so sánh với những hoàn cảnh đời sống trong xã hội và sẽ 
		thấy nhiều điểm tương đồng với vấn đề vừa nêu trên. Một người giàu có 
		dường như rất dễ dàng có được mức thu nhập trong một ngày bằng với một 
		tháng lương của những người lao công nghèo khó, mà không phải nỗ lực quá 
		nhiều. Vì thế, họ ngày càng trở nên giàu có hơn nữa. Ngược lại, những 
		người nghèo khó dường như lúc nào cũng chịu nỗi lo đói thiếu, công việc 
		cực nhọc nhưng lại dễ dàng bị mất việc bất cứ lúc nào, cũng như thu nhập 
		hầu như không bao giờ đủ trang trải mọi chi phí sinh hoạt tối thiểu. Sự 
		dư thừa để tích lũy đối với họ chỉ là điều không tưởng.
		Nhưng có phải khuynh hướng này là bất công hay chăng? Không phủ nhận một 
		điều là những người giàu có tốt bụng luôn cố gắng để san sẻ những gì 
		mình có với người nghèo, nhưng không có nghĩa là họ có thể đưa cuộc sống 
		của người nghèo lên ngang bằng với họ. Và nếu sự làm giàu của họ là 
		chính đáng thì không ai có thể chê trách họ bởi sự giàu có đó.
		Còn đối với người nghèo thì sao? Tất nhiên là sự nghèo khó của họ luôn 
		phải có nguyên nhân. Nếu chỉ giới hạn ở những nguyên nhân thấy được 
		trong hiện tại thì đó có thể là do thất học, không có nghề nghiệp hoặc 
		các tật xấu như nghiện ngập, cờ bạc... Tất nhiên là còn có những nguyên 
		nhân khách quan khác, nhưng chúng ta hãy khoan xét đến. Nếu là do thất 
		học, thì một gia đình nghèo khó cần phải vươn lên đổi đời bằng cách chu 
		toàn cho con cái học hành đến nơi đến chốn, cho dù điều đó có thể là cực 
		kỳ khó khăn đối với họ, nhưng đó lại là phương cách duy nhất để họ vươn 
		lên. Tương tự, nếu là do những thói hư tật xấu thì chỉ có chính họ mới 
		tự cứu lấy mình được bằng cách lìa bỏ chúng...
		Cũng vậy, một người đã nhận chịu những quả báo xấu thì ít có điều kiện 
		để làm việc tốt, vì hoàn cảnh, môi trường của họ đã bị xấu đi. Tuy 
		nhiên, dù khó khăn cũng không có nghĩa là không thể làm được. Nếu họ ý 
		thức được rằng những việc thiện đầu tiên bao giờ cũng là khó khăn nhất, 
		họ sẽ có đủ quyết tâm để khởi sự.
		Một khi đã khởi sự làm thiện, chúng ta sẽ nhận được những quả báo tốt 
		lành. Và một khi đã có được những quả báo tốt lành, chúng ta sẽ dễ dàng 
		tiếp tục làm thiện. Xoay chuyển được từ khuynh hướng xấu ác sang khuynh 
		hướng làm thiện là một điều cực kỳ khó khăn, nhưng một khi đã quyết tâm 
		thực hiện đươc thì chúng ta sẽ được tưởng thưởng xứng đáng. Như một 
		người nghèo kia, rất khó khăn mới có thể nuôi người con học qua đại học; 
		nhưng khi người con ấy đã học xong đại học, có việc làm tốt, thu nhập 
		cao, thì anh ta sẽ dễ dàng hơn rất nhiều trong việc tiếp tục cho con 
		mình ăn học thành tài, thậm chí có thể sẽ đạt được những học vị cao hơn 
		nữa. 
		Vì thế, luật nhân quả bao giờ cũng có một tác động khách quan và công 
		bằng tuyệt đối, như ta soi bóng vào trong gương, hoặc nghe tiếng dội lại 
		từ vách tường. Hình ảnh của ta thế nào thì bóng ta trong gương thế ấy; 
		âm thanh phát ra thế nào thì tiếng vang thế ấy; không thể có sự sai 
		lệch. Một việc làm xấu mang lại một quả báo xấu; ngược lại, một việc làm 
		tốt mang đến một quả báo tốt. Điều đó là một luật tự nhiên, không do ai 
		phán đoán hay quyết định. Khi hiểu được như thế, ta sẽ có thể vận dụng 
		luật nhân quả để tạo ra một đời sống tốt đẹp bằng cách nỗ lực khởi sự 
		làm điều thiện. Và sẽ không bao giờ là quá muộn đối với mỗi chúng ta để 
		đưa ra quyết định đúng đắn đó.