Lòng ngưỡng mộ đã nung nấu trong tôi một ước mơ đến thăm viếng ngài 
		Gandhi, người được hàng trăm triệu dân Ấn Độ thành kính suy tôn là bậc 
		thánh ngay trong khi ngài vẫn còn đang sống.
		Năm 1925, thánh Gandhi có đến thăm Thiếu Sinh Học Đường của tôi ở 
		Ranchi, và có ghi mấy dòng cảm nhận trong quyển sổ lưu niệm của nhà 
		trường dành cho khách tham quan. Tuy nhiên, chúng tôi đã không có mấy 
		thời gian để trao đổi vào lúc đó.
		Chuyến viếng thăm thánh Gandhi lần này của tôi được thực hiện khá bất 
		ngờ bằng đường xe lửa vào một ngày tháng 8 năm 1935. Tuy được thông báo 
		rất trễ, nhưng thánh Gandhi cũng đã kịp bố trí người đến đón tôi tại nhà 
		ga Wardha từ sáng sớm. Đó là ông Mahadev Desai, thư ký riêng của ngài. 
		Cùng đi với ông còn có ba người khác nữa. Họ đưa chúng tôi về đạo viện 
		Maganvadi, nơi cư trú của thánh Gandhi, bằng một chiếc xe hơi không mui 
		chẳng lấy gì làm sang trọng lắm. 
		Xe chạy qua những con đường ngoằn ngoèo lầy lội của vùng quê, qua một 
		lúc lâu thì chúng tôi đến nơi.
		Ông Mahadev Desai đưa chúng tôi vào văn phòng. Hôm đó là thứ Hai trong 
		tuần, và thánh Gandhi đang thực hiện ngày tịnh khẩu hằng tuần. Điều này 
		có nghĩa là chúng tôi sẽ không được nghe giọng nói của ngài.
		Khi chúng tôi bước vào phòng, thánh Gandhi đang ngồi trên một chiếc 
		chiếu rất đơn sơ được trải trực tiếp trên nền đất. Tay trái ngài cầm một 
		tập giấy và tay kia cầm cây bút. Nhìn thấy chúng tôi, ngài viết trên tập 
		giấy hai chữ “Kính chào” bằng tiếng Hindi, rồi đứng dậy đưa cho chúng 
		tôi với một nụ cười tươi trên môi.
		Nhìn dáng vẻ ngài hơi gầy nhưng thật rắn chắc. Đôi mắt sáng tinh anh với 
		những cử chỉ rất linh hoạt, nhanh nhẹn, làm bộc lộ rõ một tinh thần tích 
		cực, mạnh mẽ và một sức khỏe tiềm tàng. Mắt ngài màu nâu, nhìn vào có 
		cảm giác như tỏa ra từ đó một sự dịu dàng mà quả quyết, cùng với sự 
		thông minh và chân thật.
		Chưa có một nhà lãnh đạo nào đã từng thu phục được trái tim của hàng 
		triệu người dân Ấn Độ như thánh Gandhi đã làm được. Danh xưng “Mahatma” 
		mà họ dành cho ngài, với ý nghĩa là một bậc “đại thánh, đại hiền giả”, 
		là một sự tự nguyện chân thành, không hề xuất phát từ một sự tô vẻ chính 
		trị như nhiều nhà lãnh đạo khác vẫn thường làm. Chính trang phục của 
		ngài cũng nói lên sự quan tâm chân thật đến quảng đại quần chúng, những 
		người nghèo khổ: quanh năm ngài chỉ mặc có mỗi một cái khố ngắn trên 
		người.
		Sau một vài lễ nghi chào hỏi và trao đổi hạn chế qua giấy viết, thánh 
		Gandhi đưa cho chúng tôi một mẩu giấy, trên đó ngài viết: “Những nhân 
		viên của chúng tôi sẽ hết lòng phục vụ Đại đức, xin ngài hãy tự nhiên 
		trong thời gian lưu lại đây.” Và chúng tôi theo ông Desai rời khỏi văn 
		phòng đơn sơ này để đến nhà khách, cũng trong khuôn viên đạo viện.
		Đường đi băng qua mấy khu vườn cây trái và cả những đồng ruộng xanh tốt. 
		Nhà khách dùng để tiếp đón chúng tôi là một ngôi nhà thoáng mát lợp ngói 
		đỏ. Trước sân thấy có một giếng nước, gần đó đặt một cối đá loại dùng để 
		xay lúa. Trong nhà được ngăn ra thành nhiều phòng ngủ với diện tích tối 
		thiểu cho mỗi phòng, chỉ vừa đủ đặt một chiếc giường vải bố dệt bằng 
		tay, vừa đủ một người nằm. Phía sau là một nhà bếp quét vôi trắng. Nói 
		là nhà bếp, nhưng đó chỉ là một căn phòng rất đơn sơ, với một bếp lò 
		thiết kế theo kiểu đào sâu xuống đất dùng để nấu nướng, ngoài ra chẳng 
		còn có tiện nghi gì khác ngoài một vòi nước máy ở góc đối diện với bếp 
		lò.
		Từ phía sau nhà, chúng tôi có thể nghe được tiếng chim hót trong khu 
		vườn bao quanh, tiếng bò rống trên đồng ruộng, và nhiều thứ âm thanh 
		thôn dã khác.
		Ông Desai dành thêm mấy phút lưu lại để trò chuyện với chúng tôi. Và 
		cũng nhân dịp trò chuyện ngắn ngủi này, ông liền tranh thủ trình bày với 
		chúng tôi về 11 nguyên tắc của phong trào bất bạo động mà thánh Gandhi 
		đã đề ra và được hàng triệu người Ấn Độ hưởng ứng làm theo. Các nguyên 
		tắc ấy là:
		1. Tự nguyện không sử dụng đến bạo lực, dù trong bất cứ hoàn cảnh, tình 
		huống nào.
		2. Tự nguyện sống chân thật, ngay thẳng không dối trá.
		3. Không lấy bất cứ vật gì của người khác khi không được họ tự nguyện 
		đưa cho.
		4. Tự nguyện sống cuộc sống thuần khiết, xa lánh mọi tội lỗi.
		5. Tự nguyện sống cuộc sống nghèo túng nhưng trong sạch.
		6. Tự nguyện hết sức chuyên cần, tích cực trong lao động, sản xuất.
		7. Tự nguyện sống cuộc sống tiết chế, có điều độ trong mọi sinh hoạt 
		cũng như sự thọ dụng.
		8. Không khiếp sợ trước bất cứ tình huống nào.
		9. Tự nguyện tha thứ cho những lỗi lầm, sai phạm của người khác đã thực 
		hiện đối với mình.
		10. Tự nguyện tiêu dùng hàng hóa được sản xuất trong nước.
		11. Chống phân biệt giai cấp.
		Ngày hôm sau, đích thân thánh Gandhi đã ghi vào cuốn sổ lưu niệm của 
		chúng tôi những điều này và ký tên vào, đề ngày 27 tháng 8 năm 1935.
		Chúng tôi được mời dùng cơm trưa khoảng hai tiếng đồng hồ sau khi đặt 
		chân đến đạo viện. Buổi cơm thân mật có mặt thánh Gandhi và 25 người 
		khác, đều là các tín hữu của ông.
		Chúng tôi dùng cơm trong một căn phòng trống, không bàn ghế. Mỗi người 
		có một tấm chiếu vuông nhỏ trải trên sàn để ngồi xếp bằng trên đó. Thức 
		ăn được đựng trong những chén đĩa bằng thau sạch bóng, bày ngay trước 
		mặt mỗi người. Chúng tôi cùng tham gia những giây phút cầu nguyện tập 
		thể trước khi bắt đầu bữa ăn. Thức ăn rất đơn giản nhưng không kém phần 
		ngon miệng và giàu dinh dưỡng: có bánh nướng chapati làm bằng bột mì có 
		phết bơ, các món rau đậu xào, cùng với mứt trái cây và cam.
		Khẩu phần của thánh Gandhi còn có thêm một món rau luộc được quết nhuyễn 
		thành cục. Không phải là một sự ưu tiên hơn những người khác, nhưng mục 
		đích ngài dùng món rau này với tác dụng như một loại thuốc lọc máu, và 
		nó có vị đắng cực kỳ đến nỗi chẳng ai muốn dùng kèm theo trong khẩu phần 
		của mình. Thật tế nhị, ngài dùng muỗng sớt một ít món rau đắng này vào 
		đĩa của tôi. Tôi đã không thể kiềm chế được mà phải nhăn mặt cố gắng mới 
		nuốt trôi được phần chia ấy. Nhưng thánh Gandhi thản nhiên ăn từng ít 
		một không biểu lộ sự khó chịu gì.
		Chỉ một chi tiết nhỏ này cũng đủ để tôi thấy được năng lực khống chế các 
		giác quan của vị thánh. Tôi còn nhớ cách đây mấy năm có đọc bài tường 
		thuật trên báo về việc mổ ruột thừa của ngài. Thánh Gandhi đã từ chối 
		không cho các bác sĩ dùng đến thuốc mê, và ngài vẫn thản nhiên trò 
		chuyện với những người đến viếng thăm trong suốt thời gian phẫu thuật, 
		như thể không hề bị tác động chút nào bởi sự đau đớn!
		Sau bữa ăn trưa, tôi có dịp tiếp xúc với một nữ đệ tử người Anh của 
		thánh Gandhi. Cô tên là Madeleine Slade, con gái của một vị Đô đốc hải 
		quân Hoàng gia Anh. Hiện nay cô lấy tên Ấn Độ là Mirabai. Cô nói chuyện 
		với tôi bằng tiếng Hindi rất thông thạo. Trong buổi trò chuyện, cô đã kể 
		cho tôi nghe về những công việc hằng ngày của cô với một khuôn mặt rạng 
		rỡ nhiệt tình, và cũng thể hiện những nét điềm tĩnh, cương nghị của một 
		người rất chín chắn. Cô nói:
		– Công việc của chúng tôi gắn bó chặt chẽ với đời sống nông thôn. Mỗi 
		ngày, chúng tôi thức dậy từ lúc 5 giờ sáng và đi đến các làng mạc phụ 
		cận quanh đây để dạy cho người dân quê ý thức được về những kiến thức vệ 
		sinh thường thức trong cuộc sống hằng ngày. Chúng tôi không chỉ giảng 
		giải, mà thường phải bắt tay vào làm việc nữa. Chúng tôi giúp họ dọn dẹp 
		nhà cửa theo cách để cho họ biết thế nào là hợp vệ sinh. Thậm chí, có 
		khi chúng tôi còn lau dọn nhà vệ sinh cho họ nữa. Chỉ như vậy mới có thể 
		làm thay đổi được nhận thức của những người vốn xưa nay chưa từng được 
		học hành gì cả.
		Nói xong, cô cất tiếng cười thật giòn giã để bày tỏ sự hài lòng với công 
		việc của mình.
		Quả thật, tôi không giấu nổi sự thán phục khi được biết về người phụ nữ 
		Anh quốc xuất thân quyền quý này. Với một đức khiêm tốn ít ai có được, 
		cô đã hạ mình làm cả những công việc được xem là chỉ dành cho những kẻ 
		cùng đinh hạ tiện ở xứ này, và điều đó được cô thực hiện chỉ vì đã xác 
		định được một lý tưởng theo đuổi cho cuộc đời mình. Cô nói rõ hơn về 
		điều này:
		– Tôi đến Ấn Độ năm 1925. Với lý tưởng phụng sự, tôi đã xem nơi đây là 
		quê hương mình và không còn muốn trở về với cuộc sống trước kia ở Anh 
		quốc nữa.
		Sau mấy phút trò chuyện với tôi, cô Mirabai lại quay về ngay với công 
		việc của mình. Cô ngồi xuống trước các bánh xe quay chỉ và bắt đầu làm 
		việc thật bận rộn. Những bánh xe quay chỉ này đã được khôi phục lại ở 
		khắp nơi trên toàn cõi Ấn Độ nhờ vào những cố gắng kêu gọi của thánh 
		Gandhi.
		Thánh Gandhi không chủ trương tẩy chay nền công nghiệp mới với những 
		phát minh tối tân, hiện đại, nhưng ngài có những lý do chính đáng để kêu 
		gọi việc phục hồi trên xứ sở mình các ngành thủ công và tiểu thủ công 
		nghệ. Dù vậy, những tiến bộ kỹ thuật mới, máy móc cơ khí... cũng đều 
		được ngài tận dụng trong công cuộc phục vụ đất nước. 
		Cuộc đời hoạt động kéo dài hơn nửa thế kỷ, trải qua những giai đoạn tù 
		đày và va chạm thường xuyên trên trường chính trị đã mang lại cho ngài 
		một cái nhìn sắc bén và thiết thực trong việc đưa ra các chủ trương đúng 
		đắn để lèo lái đất nước.
		Đến 8 giờ tối thì thánh Gandhi chấm dứt thời gian tịnh khẩu. Chúng tôi 
		được biết là ngài sử dụng thời gian hầu như tuyệt đối chính xác đến từng 
		phút từng giây theo thời biểu.
		Khi chúng tôi vào phòng làm việc của ngài, thánh Gandhi vui vẻ đứng dậy 
		tiếp chúng tôi với lời chào trân trọng:
		– Kính chào Đại đức!
		Căn phòng rất đơn sơ, chỉ có một cái bàn thấp chất đầy giấy tờ và sách 
		vở, với hai cây bút mực loại thường và một cái đồng hồ treo trên vách. 
		Ngoài ra không còn một tiện nghi nào khác. Ngài tiếp khách ngay trên nền 
		nhà với những tấm chiếu vuông nhỏ trải ra thay cho ghế ngồi. Sau khi mời 
		chúng tôi ngồi xuống, ngài nói thay cho một lời giải thích:
		– Cách đây mấy năm, tôi bắt đầu tịnh khẩu mỗi tuần một ngày, chỉ là nhằm 
		để có thời gian cho việc trả lời thư tín và giải quyết công việc. Nhưng 
		giờ đây thì việc tịnh khẩu đã trở thành một nhu cầu thiết yếu không thể 
		thiếu được trong đời sống tâm linh của tôi. Điều đó không còn là một kỷ 
		luật khắt khe phải tuân theo, mà là một ân huệ được cuộc sống ban cho.
		Sau buổi chuyện trò thân mật, khi từ biệt để về nhà khách, tôi chúc ngài 
		ngủ ngon. Thánh Gandhi thân mật trao cho tôi một chai dầu xả chống muỗi 
		và cười nói:
		– Xin Đại đức cẩn thận cho, loài muỗi ở đây không hưởng ứng phong trào 
		bất bạo động của chúng tôi.
		Cuộc thăm viếng đã làm cho tôi phải hết sức ngạc nhiên vì sự đơn sơ giản 
		dị của một cơ quan đầu não lãnh đạo hàng triệu người dân Ấn Độ. Thánh 
		Gandhi đã để dấu ấn của ngài ở khắp mọi nơi bằng việc tự mình thực hiện 
		một cuộc sống thanh bần. Ngài đã từ bỏ nghề luật sư với mức thu nhập hơn 
		20.000 đô-la mỗi năm, mặc dù đã được đào tạo và tốt nghiệp chính quy tại 
		Anh quốc và cũng đã được chính thức gia nhập Luật sư đoàn, một tiền đồ 
		vô cùng rực rỡ cho sự nghiệp bản thân.
		Nói về sự hy sinh hoặc từ bỏ một đời sống thế tục, chúng ta không thể 
		không nghiêng mình kính phục gương sáng của thánh Gandhi. Một số người 
		thất bại trong sự nghiệp, hoặc hạnh phúc gia đình bị sụp đổ... Họ buồn 
		chán và tuyên bố từ bỏ tất cả để đi theo đời sống xuất gia. Thật ra họ 
		chẳng có gì để từ bỏ! Chính là của cải vật chất và hạnh phúc tình yêu đã 
		từ bỏ họ ra đi, và họ đang trốn chạy bản thân mình bằng cách tìm đến với 
		tôn giáo. Nhưng những trường hợp như thánh Gandhi là trái lại. Ngài 
		không chỉ từ bỏ tiền đồ xán lạn, mà còn mang tất cả những của cải tài 
		sản hiện có của mình ra để phân phát hết cho dân nghèo!
		Người vợ của ngài, bà Kasturabai, cũng là một người vợ hiền đáng kính. 
		Bà vui vẻ tán trợ chồng mà không một biểu hiện phản đối nào lúc ngài 
		mang tất cả tài sản của gia đình ra phân phát bố thí. Thậm chí, ngài đã 
		không dành lại một phần nào cho chính gia đình, vợ con của mình.
		Sau khi sinh được 4 người con, cả hai vợ chồng đã đồng ý sẽ sống cuộc 
		sống thuần khiết và chấm dứt quan hệ tình dục thể xác.
		Bà Gandhi được thừa nhận là một bậc nữ lưu hào kiệt khi bà âm thầm chia 
		sẻ gánh nặng với chồng ở mọi lúc, mọi nơi. Bà đã theo chồng vào tù ngục, 
		cùng tham gia những cuộc tuyệt thực kéo dài đến cả ba tuần lễ, và cùng 
		chia sẻ trách nhiệm lớn lao với chồng trong mọi hoàn cảnh.
		Trong nhiều năm dài, bà Kasturabai đảm nhận chức vụ thủ quỹ, quản lý tốt 
		một ngân khoản lên đến nhiều triệu đồng được quyên góp để dùng vào các 
		hoạt động xã hội. Người ta vẫn truyền miệng với nhau rằng các ông chồng 
		trong những gia đình giàu có ở Ấn Độ rất lấy làm lo sợ mỗi khi quý bà đi 
		dự các buổi nói chuyện của thánh Gandhi. Bởi vì tài hùng biện của ngài 
		như có ma thuật khiến cho quý bà vui vẻ đóng góp vào các quỹ từ thiện xã 
		hội do ngài kêu gọi bằng ngay cả những món nữ trang đắt giá mang theo 
		trên mình.
		Người ta kể với tôi rằng, có một lần, bà Kasturabai kết toán sổ sách và 
		thấy chênh lệch 4 đồng ru-bi, bà không thể nhớ ra là đã chi tiêu vào 
		chuyện gì. Sau đó, thánh Gandhi liền vô tư công bố trước tập thể là bà 
		Kasturabai đã sơ sót khi chi tiêu mất 4 ru-bi mà không ghi vào sổ sách.
		Về sau, tôi thường kể lại chuyện này cho các học trò người Mỹ của tôi 
		nghe. Một nữ đệ tử đứng tuổi đã phát biểu rằng:
		– Con thật không hiểu nổi vì sao chỉ một khoản tiền vụn vặt như thế mà 
		thánh Gandhi có thể đưa ra để làm xấu vợ mình trước tập thể. Có lẽ bản 
		thân con sẽ không thể nào chịu đựng được cách đối xử của một người chồng 
		như vậy.
		Tôi đã cười và giải thích:
		– Vấn đề không phải là 4 ru-bi, mà là sự tin cậy của tập thể giao phó 
		cho một người. Nếu người ấy có sơ sót, dù là sơ sót rất nhỏ, vẫn phải 
		nhận lỗi trước tập thể. Hơn thế nữa, thánh Gandhi đã không tuyên bố điều 
		đó với tư cách một người chồng, mà là một người lãnh đạo, một bậc thầy 
		dẫn dắt đời sống cho hàng triệu người, trong đó có bà ta. Chính vì thế, 
		bà đã vui vẻ nhận lỗi mà không hề phản đối.
		Chỉ ít lâu sau lần ấy, thánh Gandhi phải vào tù vì một bản án chính trị. 
		Bà Kasturabai đã tự nguyện vào sống trong tù để chăm sóc cho chồng. Bà 
		đã qua đời trong nhà tù tại Poona vào năm 1944. Đây là một trong những 
		lần rất hiếm hoi mà thánh Gandhi đã bật khóc thành tiếng, mặc dù thường 
		ngày ngài bao giờ cũng giữ được sự bình thản trước mọi biến cố. Cái chết 
		của người vợ hiền cao cả này có ý nghĩa hơn tất cả mọi biến cố khác đối 
		với ngài, ngay cả đối với hàng triệu người dân Ấn. Một cuộc quyên góp đã 
		tự động phát sinh và được hưởng ứng nhiệt liệt trên toàn xứ Ấn, mang lại 
		12,5 triệu ru-bi nhằm mục đích xây một đài tưởng niệm cho bà. Nhưng 
		thánh Gandhi bác bỏ mục đích này và quyết định dùng tiền ấy vào những 
		chương trình tài trợ cho nông thôn, nhằm nâng cao mức sống cho phụ nữ và 
		trẻ con.
		Trong dịp viếng thăm ấy, tôi có đặt một câu hỏi với thánh Gandhi rằng:
		– Ngài nghĩ sao về ý nghĩa của đức tính “bất hại”.
[12]
		
		 Ngài trả lời một cách giản dị:
		– Đó chính là nền tảng của chủ trương “bất bạo động”. Người theo chủ 
		trương này sẽ không làm tổn hại đến bất cứ một sinh vật nào, cho dù là 
		bằng tư tưởng hay hành động.
		Tôi hỏi tiếp:
		– Nhưng trong trường hợp để tự vệ, hoặc để bảo vệ một người khác? Chẳng 
		hạn khi tôi gặp phải một con rắn độc.
		Thánh Gandhi nở một nụ cười:
		– Nếu tôi giết con rắn, tôi sẽ phạm vào hai điều chứ không phải một. Một 
		là phạm vào việc sát hại, và hai là sự sợ hãi. Vì nếu không xuất phát từ 
		sự sợ hãi thì tôi sẽ không nghĩ đến việc giết con rắn.
		Tôi kinh ngạc xiết bao vì sự tương đồng giữa ý tưởng này với lời dạy của 
		sư phụ Śrỵ Yukteswar.
		Thánh Gandhi ôn tồn giải thích tiếp:
		– Trong trường hợp đó, tôi sẽ cố gắng cảm hóa bằng tình thương. Mọi sinh 
		vật đều có bản năng cảm nhận được tình thương. Vấn đề là tôi có thể thực 
		hành ở mức độ đủ để cảm hóa hay chưa. Hơn thế nữa, trong bất cứ tình 
		huống nào, tôi cũng không thể từ bỏ lý tưởng tâm linh đang theo đuổi chỉ 
		vì để bảo vệ cho lợi ích của riêng mình.
		Và ngài pha trò với một nụ cười hóm hỉnh:
		– Tuy nhiên, tôi cũng thú thật với ngài là nếu ngay bây giờ xuất hiện 
		trước mặt chúng ta một con rắn hổ mang, chắc tôi sẽ không thể bình tĩnh 
		tiếp tục cuộc nói chuyện này được nữa.
		Chúng tôi cùng bật cười vui vẻ với câu pha trò ấy.
		Buổi sáng hôm sau, tôi thức dậy vào khoảng 5 giờ. Trời vẫn còn tối đen 
		như mực, nhưng cuộc sống thôn quê đã bắt đầu trỗi dậy nhộn nhịp. Tôi 
		nghe thấy tiếng xe bò lăn bánh trên đường đi ngang qua đạo viện. Rồi 
		tiếng bước chân nặng nề của những người nông dân gánh hàng đi qua. 
		Người ta nói là thánh Gandhi đã thức dậy từ lúc 4 giờ sáng. Tôi đến chào 
		ngài để ra về. Thánh Gandhi nói:
		– Xin kính chào Đại đức. Chúng tôi rất buồn phải từ biệt ngài.
		Tôi quỳ xuống và cúi đầu trước chân ngài để biểu hiện sự tôn kính. Tôi 
		nói với lòng chân thành:
		– Cả đất nước Ấn Độ này thật may mắn có được sự dắt dẫn của ngài. Chúng 
		ta sẽ đạt đến mọi sự tốt lành.
		Và chúng tôi chia tay nhau.
		° ° °
		Nhiều năm trôi qua sau cuộc viếng thăm thánh Gandhi của tôi tại Wardha. 
		Rồi thế chiến thứ II bùng nổ. Người chết ở khắp nơi, trên không trung, 
		mặt đất và cả trên mặt biển. Thánh Gandhi là nhà lãnh đạo duy nhất trên 
		thế giới đã trung thành theo đuổi đường lối bất bạo động để chống lại 
		những thế lực cường bạo trang bị vũ khí tối tân. Ngài giải thích:
		– Tôi luôn nhận thấy sự sống vẫn tồn tại ngay cả trong những sự tàn phá 
		khủng khiếp nhất. Bởi vậy, tôi tin là sự sống có giá trị cao cả hơn 
		nhiều so với những tham vọng tầm thường đã dẫn người ta đến chỗ giết 
		chóc và phá hoại. Chỉ khi nào giá trị cao cả đó được tất cả mọi người 
		công nhận và tôn trọng thì nhân loại mới có được những xã hội trật tự, 
		và cuộc đời này mới thật sự có ý nghĩa.
		Ngài còn nói thêm:
		– Không chỉ trong những cuộc chiến tranh, đối đầu hoặc xung đột lớn, mà 
		ngay trong đời sống hằng ngày chúng ta cũng cần phải hiểu rõ chủ thuyết 
		bất bạo động có giá trị như thế nào. Khi chúng ta buộc lòng phải đối đầu 
		với một địch thủ, hãy chinh phục kẻ ấy bằng tình thương chân thật. Rồi 
		chúng ta sẽ thấy sức mạnh của tình thương có thể làm nên những điều kỳ 
		diệu mà sự phá hoại không thể nào làm được. Bạo lực chỉ có thể làm người 
		ta khiếp sợ khi thất thế, nhưng tình thương làm người ta khuất phục 
		trong mọi tình huống.
		Lịch sử đã chứng minh là thánh Gandhi hoàn toàn đúng, khi Anh quốc buộc 
		phải công nhận nền độc lập của Ấn Độ trong hòa bình vào năm 1947. Lý 
		tưởng mà ngài theo đuổi suốt cuộc đời đã đạt đến một cách hoàn mãn và 
		ghi nên một trang sử vàng chói lọi trong lịch sử nhân loại. Với những 
		thành tựu được mang lại bằng chính cuộc đời ngài, một trong các nhà phê 
		bình của phương Tây, Agnes Hooper Gottlieb, đã xếp ngài vào một trong 10 
		nhân vật quan trọng nhất đã làm thay đổi lịch sử nhân loại trong thiên 
		niên kỷ thứ hai.
		Nhưng có một điều quan trọng cần nêu rõ là, thánh Gandhi không xem chủ 
		thuyết bất bạo động như một phương tiện chính trị để giúp ngài đạt đến 
		mục tiêu đề ra, chẳng hạn như nền độc lập cho Ấn Độ. Trong thực tế, ngài 
		truyền dạy chủ thuyết này cho hàng trăm triệu người dân Ấn như là một lý 
		tưởng sống và cần phải được thực hành ngay trong đời sống hằng ngày. Cho 
		dù thực tế là không phải cả 400 triệu dân Ấn Độ đều tin theo chủ thuyết 
		của ngài, nhưng quả đúng là chưa từng có một chủ thuyết nào được lan 
		truyền rộng rãi và được đông đảo quần chúng ủng hộ đến như vậy.
		Những người trung thành với chủ thuyết bất bạo động đã chấp nhận chỉ 
		phản đối bằng sự bất hợp tác, và sẵn sàng chịu mọi sự ngược đãi, tù đày, 
		hoặc ngay cả đến cái chết, mà không bao giờ cầm vũ khí kháng cự. Thành 
		quả mà cách phản kháng này mang lại cho Ấn Độ, trong thực tế đã lớn lao 
		hơn cả những thành quả mà nhiều quốc gia khác phải đạt đươc bằng vũ lực.
		Thánh Gandhi cũng kêu gọi việc hòa giải tôn giáo trên nền tảng bất bạo 
		động. Hàng triệu người Ấn giáo và Hồi giáo – trừ ra những kẻ cực đoan – 
		đã hưởng ứng lời kêu gọi của ngài và chấm dứt xung đột. Ngài cũng đấu 
		tranh bất bạo động cả cho việc trừ bỏ sự phân biệt giai cấp vốn đã tồn 
		tại từ ngàn đời trên đất Ấn Độ. Bản thân ngài đã từng tuyên bố sẵn sàng 
		tái sinh trong giai cấp hạ tiện để có thể phục vụ con người trong giai 
		cấp này tốt hơn nữa.
		Người dân Ấn Độ đã tự nguyện suy tôn ngài danh hiệu Mahatma,
[13] 
		là một danh từ tiếng Phạn có nghĩa là “một linh hồn vĩ đại”, và sự suy 
		tôn đó là hoàn toàn xứng đáng.
[14] Mọi người dân 
		đều kính trọng ngài như một vị cha lành đã thực sự hết lòng thương yêu, 
		chăm lo cho họ.
		Một trong những điểm nổi bật của thánh Gandhi so với các nhà lãnh đạo 
		chính trị khác là ngài luôn luôn vững tin vào bản chất tốt đẹp nơi mỗi 
		con người, và hoàn toàn cảm thông với những sai lầm, khuyết điểm của bất 
		cứ ai. Ngài cho rằng sự sai lầm là không thể tránh khỏi đối với bất cứ 
		ai, nhưng điều đó không thể làm mất đi bản chất tốt đẹp tự nhiên của mỗi 
		người. Xuất phát từ niềm tin mãnh liệt này, thánh Gandhi đã từng nói:
		– Nếu đối phương lừa dối chúng tôi đến 20 lần, chúng tôi vẫn sẵn lòng 
		tin cậy vào họ ở lần thứ 21. Bởi vì nếu đánh mất đi niềm tin vào con 
		người, chúng ta sẽ chẳng còn mục đích gì để đấu tranh nữa cả.
		Và ngài xem đây là một trong những phương châm của một Satyagrahi, tức 
		là người vững tin và hành động theo chủ thuyết bất bạo động của ngài. 
		Phong trào này được gọi theo tên Ấn Độ là Satyagraha.  
		Người phương Tây thường gọi kiểu tranh đấu này là “passive resistance”, 
		tạm dịch là “phản kháng thụ động”. Tuy nhiên, rõ ràng là thuật ngữ này 
		đã không hoàn toàn chính xác!
		Chính thánh Gandhi đã gọi tên chủ trương của mình theo tiếng Sankrit là 
		satyagraha, có nghĩa là “chân lý và sự quyết tâm”. Nhưng người ta thường 
		được nghe nói nhiều hơn với tên gọi dễ hiểu hơn là “bất bạo động”.
		Trong tôn giáo, quan điểm bất bạo động không phải là một ý tưởng mới mẻ. 
		Hầu hết các tôn giáo đều có đề cập đến ý tưởng này. Và thật ra thì thánh 
		Gandhi đã xây dựng chủ thuyết của mình phần lớn dựa trên nền tảng thuyết 
		ahiṃs của Phật giáo, có nghĩa là “không làm tổn hại”.
[15] 
		Nhưng vận dụng chủ thuyết này để tranh đấu thì thánh Gandhi quả là người 
		đầu tiên.
		Trước hết, để thực hiện việc bất bạo động, người tín hữu của thánh 
		Gandhi
[16] phải đặt nền tảng trên việc tin vào bản 
		chất tốt đẹp của con người.
[17] Hơn thế nữa, họ 
		còn tin rằng bản chất đó không bao giờ bị diệt mất, cho dù là ở nơi một 
		con người tàn bạo, nhẫn tâm nhất. Một người đối xử tàn bạo với người 
		khác, trước hết cần có một lý do để biện minh cho hành động của mình. 
		Điều này là vì anh ta cần phải xoa dịu chính lương tâm của mình để không 
		bị dằn vặt vì sự tàn bạo ấy.
		Con người khi thực hiện một việc sai trái, sẽ có hai điều làm họ xấu hổ: 
		một là xấu hổ vì mọi người chung quanh biết được việc làm sai trái của 
		mình, và hai là xấu hổ với chính bản thân mình vì tự ý thức được đó là 
		một hành vi sai trái.
		Quá trình tồn tại của sự ác độc trong một con người là quá trình liên 
		tục phải chống lại với hai điều xấu hổ ấy. Đối với mọi người, anh ta 
		phải ngụy tạo những lý do này khác để biện minh cho hành động của mình, 
		ngay cả dựng lên những điều không có thật. Đối với bản thân, anh ta phải 
		tìm kiếm những lý do tối thiểu nào đó để tự dối gạt mình, để tin rằng 
		hành vi của mình là cần thiết hoặc không thể tránh được.
		Khi quá trình chống đối diễn ra trong tự thân đó bị thất bại, con người 
		buộc phải quay về con đường hiền thiện, bởi anh ta không thể vượt qua 
		được sự phán xử của chính bản thân mình.
		Niềm tin vào bản chất hiền thiện của con người là một niềm tin có cơ sở 
		và có thể được chứng minh rõ ràng trong thực tế. Và chính vì có sự tồn 
		tại của những phẩm chất tốt đẹp trong tất cả mọi con người, nên giá trị 
		cao quý nhất của cuộc sống phải được xem là những phẩm chất ấy, chứ 
		không phải là những dục vọng thấp hèn hay những động cơ ích kỷ, nhỏ mọn. 
		Khi hiểu ra điều này, người ta không bao giờ xem bất cứ con người nào là 
		kẻ thù của mình nữa, và có thể sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho kẻ khác 
		một khi họ đã thật sự cải hối. Đây chính là điều mà các tín hữu 
		Satyagrahi đã đạt đến trong cuộc đấu tranh của mình.
		Về mặt tâm lý, khi một người phản ứng bằng bạo lực với người khác, điều 
		đó xuất phát từ hai lý do. Thứ nhất là bản năng tự vệ. Bản năng này có ở 
		mọi loài sinh vật chứ không riêng con người. Bất cứ con vật nào cũng sẽ 
		trở nên hung dữ và phản kháng khi cảm thấy bị tấn công. Như vậy, đây 
		không phải là một phẩm chất tiêu biểu cho con người mà chỉ là một điều 
		tự nhiên đối với mọi sinh vật. Thứ hai, xuất phát từ sự sợ hãi. Sợ hãi 
		vì cảm thấy cuộc sống hoặc những quyền lợi của cá nhân mình đang bị đe 
		dọa. Khi người ta nhìn thấy một con rắn độc, người ta khởi nên ý tưởng 
		muốn giết nó chính là vì sự sợ hãi. Người ta lo sợ rằng nó sẽ làm hại 
		đến mình vào một lúc nào đó trong tương lai, và sự lo sợ đó làm cho họ 
		không có đủ dũng khí để đứng nhìn con rắn bò đi nơi khác mà không tìm 
		cách giết chết nó. 
		Như vậy, người thực hiện bất bạo động thật ra không hề thụ động, mà 
		ngược lại là vô cùng tích cực, dũng mãnh. Người ấy đã vượt qua cả bản 
		năng động vật để ứng xử theo một phẩm chất tiêu biểu của con người là 
		thương yêu và tha thứ. Người ấy cũng vượt qua sự sợ hãi đối thủ của mình 
		để có thể không làm bất cứ điều gì gây tổn hại đến đối phương. Thực hiện 
		được những điều này không phải là chuyện dễ dàng đối với những ai chưa 
		từng được tôi luyện về mặt tín ngưỡng tâm linh.
		Bản thân thánh Gandhi đã nêu rất rõ ý nghĩa này khi gọi tên chủ thuyết 
		của mình là satyagraha, với ý nghĩa là “chân lý và sự quyết tâm”. Chân 
		lý ở đây chỉ cho niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người và sự tồn 
		tại không thể nào bị đánh mất của những phẩm chất ấy ở tất cả mọi người, 
		cho dù là những con người tàn bạo nhất. Sự quyết tâm ở đây chỉ cho ý chí 
		kiên cường theo đuổi một đường lối duy nhất đã vạch ra – đường lối bất 
		bạo động. Với sự quyết tâm này, một satyagrahi sẽ sẵn lòng chấp nhận mọi 
		sự ngược đãi, đàn áp, giam cầm hoặc thậm chí giết hại... mà không bao 
		giờ đánh mất niềm tin của mình.
		Chính vì những ý nghĩa này, việc thực hiện bất bạo động đã trở thành một 
		lý tưởng sống, một phương châm cần được vận dụng trong cuộc sống hằng 
		ngày.
		Việc vận dụng thuyết bất bạo động vào cuộc sống hằng ngày có một ý nghĩa 
		vô cùng to lớn. Bởi vì chỉ có như vậy thì những phẩm chất tốt đẹp, hiền 
		thiện của cuộc sống mới thật sự được thừa nhận và trân trọng. 
		Khi tất cả mọi sự xung đột, tranh chấp trong cuộc sống con người đều 
		được giải quyết thông qua phương thức bất bạo động, con người mới thật 
		sự biểu lộ sự cảm thông và tôn trọng lẫn nhau. Một nền hòa bình thế giới 
		lúc ấy không còn phải phụ thuộc vào những hiệp ước trên giấy tờ, mà sẽ 
		được thực hiện ngay từ nơi mỗi một con người. 
		Tuy nhiên, điều đó rõ ràng là đòi hỏi một sự dũng mãnh và quyết tâm thực 
		hiện của mỗi người. Chúng ta phải vượt qua được những nếp suy nghĩ từ 
		trước đến nay về được và mất, thắng và bại... Và phải biết đặt hạnh phúc 
		chân thật của con người lên trên tất cả những điều khác.
		Khi được hỏi về chính bản thân mình, thánh Gandhi trả lời một cách thành 
		thật:
		– Tôi cũng chỉ là một con người đầy những khiếm khuyết như tất cả mọi 
		con người khác. Nhưng tôi có đủ sự khiêm tốn để tự nhận những sai trái 
		của mình và sửa chữa. Điều đó được tôi thực hiện trên cơ sở đức tin và 
		lòng thương yêu chân thật. Và tôi tin rằng những đức tính ấy bao giờ 
		cũng tiềm tàng, sẵn có nơi mỗi con người.
		Và ngài nói thêm:
		– Tôi không hiểu vì sao con người có thể có rất nhiều tiến bộ văn minh 
		trên lãnh vực vật chất mà lại không chịu quay về khám phá và tu dưỡng 
		ngay chính nội tâm của mình. Tại sao họ lại bắt buộc cứ phải là thú 
		trước khi là người?
		Về mục đích, lý tưởng của ngài, thánh Gandhi nói:
		– Mục đích tranh đấu của chúng tôi không chỉ là cho Ấn Độ, mà là cho cả 
		một nền hòa bình thế giới. Nếu Ấn Độ thành công bằng vào sự đấu tranh 
		bất bạo động, điều đó có ý nghĩa rất to lớn đối với mọi quốc gia khác. 
		Chúng ta sẽ nhận ra một ý nghĩa mới trong lòng yêu nước, và tôi cũng có 
		thể nói với tất cả sự khiêm tốn của mình là, trong cuộc sống tốt đẹp của 
		con người.
		Ngày 30 tháng 1 năm 1948, 5 tháng sau khi nền độc lập của Ấn Độ được Anh 
		quốc thừa nhận, thánh Gandhi bị bắn chết bởi 3 phát đạn từ một kẻ cực 
		đoan tên là Nathuram Godse – mà người Ấn gọi là “một thằng điên”.
		Thủ tướng Jawaharlal Nehru nói trước toàn dân Ấn Độ:
		– Ngài là người cha lành của cả dân tộc. Một thằng điên đã giết chết 
		ngài. Hàng triệu người dân Ấn Độ thương khóc ngài vì ngọn đuốc sáng soi 
		đường cho chúng ta đã tắt. Ánh sáng mà ngài mang đến cho đất nước chúng 
		ta đã chói sáng không chỉ ở Ấn Độ, mà là trên toàn thế giới.
		Khi thánh Gandhi từ từ quỵ ngã vì ba phát đạn bắn vào người, ngài vẫn 
		bình thản chắp hai tay lại để vái chào theo phong tục Ấn Độ, và cử chỉ 
		đó của ngài biểu lộ sự yêu thương tha thứ cho tên sát nhân. 
		Cuộc đời vĩ đại của ngài đã kết thúc bằng một cử chỉ vĩ đại. Ngài đã 
		biểu lộ tình thương và sự tha thứ hoàn toàn đối với chính tên điên cuồng 
		đã nã đạn vào người mình.
		Nhà bác học Albert Einstein đã xúc động viết về ngài:
		– Những thế hệ trong tương lai sẽ không thể ngờ nổi rằng có một con 
		người vĩ đại như thánh Gandhi đã từng xuất hiện bằng xương bằng thịt và 
		bước chân đi trên mặt đất này.
		Tòa thánh La-mã đã gửi điện phân ưu với nội dung như sau:
		– Việc ám sát thánh Gandhi đã gây nên sự xúc động sâu xa tại Tòa thánh. 
		Ngài được tưởng niệm như một bậc sứ đồ đã nêu cao được tinh thần và đức 
		hạnh của Chúa.
		Cái chết của thánh Gandhi là một mất mát to lớn cho nhân dân Ấn Độ, và 
		cũng là nỗi buồn chung cho toàn thế giới. Chủ nghĩa bất bạo động mà ngài 
		khởi xướng đã làm giảm đi đáng kể những đau thương mất mát mà nhân loại 
		phải gánh chịu vì những tham vọng và sự ích kỷ. Cuộc đời thánh thiện và 
		vĩ đại của ngài là bài học chói sáng cho những ai yêu chuộng và mong 
		muốn xây dựng một nền hòa bình thật sự cho nhân loại.