Một trong những người bạn của tôi, anh Santosh, là con trai của một bác
sĩ thú y, ông Chunder Roy.
Chunder Roy là một kiểu người trí thức nửa mùa, hiểu biết thì nông cạn
nhưng lòng tự cao tự đại thì rất lớn. Ông chưa từng có thái độ tin tưởng
vào bất cứ điều gì khác hơn là những điều ông đã học được ở trường lớp.
Santosh là một người giàu lòng tin, và chính anh đã khẩn khoản nhờ tôi
nói với sư phụ Śrỵ Yukteswar để người giúp đỡ trong việc cải hóa con
người của cha anh.
Chúng tôi thành công trong việc thuyết phục ông Roy đến viếng thăm đạo
viện một lần. Tuy nhận lời nhưng ông nói với giọng rất trịch thượng:
– Tôi đã nghe lắm người ca ngợi ông đạo này, nên cũng muốn đến thăm một
lần xem sao.
Cuộc gặp gỡ hết sức tẻ nhạt với vài ba câu chào hỏi xã giao và những
khoảng im lặng kéo dài. Sư phụ tôi có vẻ như không muốn chủ động đưa ra
vấn đề gì cả.
Khi ông bác sĩ đã ra về, sư phụ hỏi tôi:
– Con đưa một người sắp chết đến đây làm gì?
Tôi lấy làm ngạc nhiên về câu hỏi ấy:
– Bạch thầy, nhưng ông ta là một người đang khỏe mạnh.
– Người ấy sắp chết đến nơi rồi.
Tôi thật sự bàng hoàng, vì tôi biết sư phụ không nói đùa và càng không
nói sai sự thật:
– Bạch thầy, con trai ông ấy vẫn nuôi hy vọng là thời gian sẽ giúp cải
hóa ông ta. Nhưng nếu như thế thì quả là tuyệt vọng. Cầu xin thầy hãy
cứu vớt ông ta.
Sư phụ đáp:
– Điều quan trọng vẫn là những quyết định cải hối từ phía ông ta. Nhưng
theo lời khẩn cầu của con và tấm lòng thành của người con trai, ta sẽ
tạo cho ông ấy thêm một số cơ hội.
Dừng một lát, sư phụ nói tiếp:
– Tuy ông ta là bác sĩ thú y, nhưng ông đã không tự biết được là ông
đang bị chứng tiểu đường rất nặng. Khoảng một tuần nữa ông ta sẽ bắt đầu
nằm liệt giường. Các y sĩ sẽ bó tay, và ông ta sẽ chết trong vòng 5 tuần
lễ kể từ hôm nay. Với sự giúp sức của ta, nếu ông ấy chịu đeo một món
linh phù đã được chú nguyện, ông sẽ khỏi bệnh cũng vào ngày mà lẽ ra ông
phải chết. Ta biết là ông sẽ phản đối dữ dội trước khi chịu đeo món linh
phù vào người.
Sư phụ lại im lặng. Một lát, người đưa cho tôi món linh phù nhỏ bé và
nói tiếp:
– Sau khi khỏi bệnh, con hãy khuyên ông ta ăn chay, không được ăn thịt.
Nếu ông ta không nghe lời khuyên đó, ông ta sẽ chết trong vòng sáu tháng
sau, đúng vào ngày mà ông ta nghĩ rằng mình đã hoàn toàn khỏi bệnh.
Ngày hôm sau, tôi mang món linh phù đến tìm Santosh và chúng tôi cùng
thuyết phục bác sĩ Roy đeo nó vào người. Ông ta phản ứng dữ dội bằng
những lời nặng nề và xúc phạm:
– Đừng hù dọa ta với những lời tiên tri này nọ. Ta đang rất khỏe và sẽ
không bệnh hoạn gì cả. Hãy dẹp những món linh phù vớ vẩn ấy đi.
Nhưng một tuần sau thì Santosh lại đến tìm tôi và thông báo là cha anh
đã đồng ý đeo món linh phù. Ông ta đang trong tâm trạng hốt hoảng vì quả
thật ông đã ngã bệnh và bác sĩ điều trị xác định đúng là bệnh tiểu đường
như lời thầy tôi nói. Hơn thế nữa, bác sĩ còn tuyên bố bệnh của ông đã
đến giai đoạn mà y học lúc ấy hoàn toàn bó tay và chỉ còn chờ ngày chết.
Hết sức kinh ngạc trước những dự báo chính xác của thầy tôi, ông lập tức
bảo Santosh đến tìm tôi để xin được đeo món linh phù như một tia hy vọng
cuối cùng.
Khi chúng tôi đến chỗ ông thì bác sĩ điều trị cũng vừa bước ra. Ông nói
nhỏ với Santosh:
– Bệnh của cha em đã nguy kịch đến mức không sao cứu chữa được nữa rồi.
Tôi nhìn ông ta, lắc đầu và nói:
– Không, sư phụ tôi đã nói là ông ta sẽ khỏi bệnh. Căn bệnh của ông ta
chỉ kéo dài một tháng thôi.
Ông bác sĩ trố mắt nhìn tôi như nhìn một người mất trí, rồi không buồn
cãi lại, ông xếp y cụ ra về.
Một tháng sau, ông ta tình cờ gặp tôi trên đường phố và đón tôi lại, nói
với vẻ hết sức kinh ngạc:
– Này em, tôi không biết sư phụ của em là ai, nhưng chắc chắn ông ta là
một nhà tiên tri hoặc một người chữa bệnh thần bí. Ông Roy đã hoàn toàn
bình phục một cách rất đột ngột. Trong đời thầy thuốc của tôi, tôi chưa
gặp một trường hợp nào tương tự như vậy trước đây cả.
Tôi liền ghé qua thăm ông Roy và nói cho ông biết là ông nên ăn chay nếu
như muốn giữ gìn được sức khỏe và sinh mạng của mình. Ông ta im lặng
lắng nghe nhưng không có vẻ gì là tin nhận.
Sáu tháng sau, tôi lại tình cờ gặp ông tại một cửa hiệu bán tạp hóa. Ông
chào tôi và nói:
– Em hãy chuyển lời tôi đến với sư phụ em rằng tôi đã hồi phục sức khỏe
rất nhanh nhờ ăn nhiều thịt. Lời khuyên phản lại khoa học dinh dưỡng của
ông ta không gạt gẫm được tôi đâu.
Tôi nhìn ông ta, quả thật ông rất mập mạnh và không còn chút dấu hiệu
nào của bệnh tật.
Nhưng sáng hôm sau, Santosh hốt hoảng chạy đến đạo viện tìm tôi và thông
báo:
– Cha tôi đã bất ngờ qua đời hồi sáng nay mà không có dấu hiệu gì báo
trước cả.
Tôi lặng thinh. Lời cảnh báo của sư phụ là hoàn toàn chính xác. Tiếc
thay, ông ta đã không có đủ phước duyên để nghe theo!
° ° °
Một trong những đặc ân mà sư phụ dành cho tôi là được quyền đưa bạn bè
của tôi về đạo viện để hội kiến cùng sư phụ. Rất nhiều người trong số đó
đã được sư phụ dắt dẫn vào con đường tín ngưỡng.
Anh bạn Sasi của tôi cũng là một người trong số đó. Từ khi được quen
biết sư phụ tôi, anh thường xuyên đến đây vào những ngày cuối tuần, lắng
nghe những buổi giảng của sư phụ một cách rất thích thú. Sư phụ tôi cũng
tỏ ra rất mến anh.
Nhưng Sasi là một thanh niên phóng đãng, ăn chơi vô độ. Một hôm sư phụ
nhìn thẳng vào anh và nói rất nghiêm nghị:
– Sasi, nếu con không thay đổi cách sống, con sẽ mắc bệnh nặng, và đừng
trách ta là đã không khuyên can con trước.
Sasi cười và nói:
– Bạch thầy, con tin lời thầy, nhưng có lẽ chỉ biết nhờ thầy cầu nguyện
cho mà thôi. Con không đủ ý chí để thay đổi lối sống từ lâu nay.
Sau đó tôi đã nhiều lần gặp riêng Sasi để cố gắng thuyết phục anh thay
đổi, vì tôi hiểu rất rõ tầm quan trọng trong lời cảnh báo của sư phụ.
Nhưng anh ta nói:
– Không phải tôi nghi ngờ lời nói của thầy, nhưng quả thật tôi không thể
nào thay đổi được cuộc sống hiện nay.
Ít lâu sau Sasi không còn ở gần chúng tôi nữa. Anh đến Bénarès và ở lại
đó khá lâu.
Hơn một năm sau, một hôm tôi đang cùng sư phụ uống trà thì sư huynh trực
nhật vào báo là có khách. Sư phụ nhìn tôi và nói:
– Sasi đến đấy. Nó đã không nghe lời ta. Con hãy ra nói là ta không muốn
gặp nó nữa.
Tôi bước ra sân đón khách và thấy quả đúng là Sasi, vóc dáng hết sức
tiều tụy. Tôi liền nói với anh rằng sư phụ đã biết anh đến và người
không muốn gặp anh. Sasi ứa nước mắt nói:
– Mukunda, tôi không chỉ đến đây để viếng thăm. Tôi cần gặp người để cầu
xin người cứu mạng tôi.
Vừa nói, anh vừa đẩy tôi ra để đi thẳng vào phòng sư phụ. Khi tôi theo
vào đến nơi, tôi nghe anh đang nói với thầy qua tiếng khóc:
– Bạch thầy, bác sĩ điều trị bảo rằng con đã mắc bệnh lao đến thời kỳ
bất trị. Họ nói rằng con chỉ sống được không quá ba tháng nữa. Con biết
chỉ có thầy mới cứu được con vào lúc này mà thôi. Con khẩn cầu thầy hãy
từ bi cứu vớt lại cuộc sống cho con.
Sư phụ nhìn anh lắc đầu:
– Đã quá muộn rồi con ạ. Ta đã thấy trước ngày này từ lâu nhưng tiếc là
con đã không nghe lời ta.
Sư phụ nói rồi yên lặng nhắm mắt lại chìm sâu vào thiền định.
Sasi kiên nhẫn quỳ trước mặt người như vậy trong khoảng hai giờ đồng hồ.
Quả nhiên, cuối cùng người cũng mở mắt ra. Tôi biết sư phụ chỉ muốn thử
thách niềm tin của Sasi mà thôi. Người nói:
– Thôi con hãy về đi. Trong hai tuần nữa con sẽ khỏi bệnh. Và sau đó thì
con hãy liệu mà cân nhắc lối sống của mình.
Sasi mừng rỡ lộ ra nét mặt:
– Bạch thầy, con có cần phải uống thuốc không?
– Tùy con. Dù uống hay không cũng chẳng có vấn đề gì. Dù sao thì con
cũng sẽ không chết vì bệnh lao đâu.
Tôi hơi băn khoăn vì câu nói có vẻ hơi bí ẩn của sư phụ. Nhưng Sasi
không hoài nghi gì. Sư phụ bỗng nói thêm với giọng nghiêm nghị:
– Con về đi, đừng để có khi ta lại đổi ý đấy.
Sasi hối hả từ biệt về ngay.
Tôi lấy làm quan tâm đến trường hợp của anh và vì thế thường ghé thăm
anh trong những ngày sau đó. Và tôi thật thất vọng khi thấy bệnh tình
của anh ngày càng nguy kịch, không có vẻ thuyên giảm chút nào. Vào ngày
cuối cùng của tuần lễ thứ hai theo lời dự báo của sư phụ, tôi đến thăm
anh và anh không còn nói được nữa, chỉ nằm yên trên giường đưa mắt nhìn
tôi. Ánh mắt của anh như khẩn cầu tôi hãy thay anh mà van xin cùng sư
phụ. Ông bác sĩ điều trị nói với tôi:
– Anh ta không thể qua khỏi đêm nay.
Tôi tức tốc trở về đạo viện, tìm lên phòng sư phụ. Người nhìn tôi với
ánh mắt lạnh lùng mà tôi chưa thấy trước đó bao giờ:
– Sao con lại cuống lên như thế? Ta chẳng đã nói là Sasi sẽ khỏi bệnh
hay sao?
Không đợi tôi nói ra lấy một lời, sư phụ đã bảo tôi như thế. Tôi không
còn cách nào khác hơn là cúi chào và lui ra.
Không ngủ được khi nghĩ đến bạn mình đang hấp hối trên giường bệnh, tôi
rời đạo viện và tìm đến nhà Sasi ngay trong đêm.
Khi đến nơi, tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy Sasi đang ngồi uống
sữa trên giường. Nhìn thấy tôi, anh tươi cười nói:
– Mukunda! Thật là kỳ diệu! Chỉ cách đây không đầy nửa giờ, tôi đột
nhiên nhìn thấy sư phụ Śrỵ Yukteswar hiện ra trong phòng này. Người đứng
nơi cửa phòng nhìn tôi không nói gì, nhưng ánh mắt ngài như có sức nóng
truyền đến chỗ tôi. Kể từ lúc đó tôi thấy cơn đau và sự mệt mỏi như tan
biến dần. Chỉ một lúc sau thì sư phụ không còn ở đó nữa. Tôi cảm thấy
đói bụng cồn cào, liền ngồi dậy đòi uống sữa.
Tôi không còn biết nói gì, chỉ lặp lại lời khuyên Sasi là sau khi hết
bệnh hãy liệu mà tu tỉnh cuộc sống.
Chỉ hai tuần sau thì Sasi hồi sức và lên cân rất nhanh trước sự kinh
ngạc của bác sĩ điều trị cho anh. Ông tuyên bố đây là một trường hợp
chưa từng có và không thể nào giải thích được bằng những kiến thức y học
mà ông hiện có.
Nhưng tiếc thay đoạn kết của câu chuyện này lại thật đáng buồn. Sasi vẫn
chứng nào tật nấy, thậm chí còn tránh né không lui tới nơi đạo viện như
trước nữa. Có lần anh bảo tôi là vì anh cảm thấy xấu hổ khi gặp mặt sư
phụ.
Chỉ sáu tháng sau thì anh ngã bệnh trở lại. Và lần này tôi đã vĩnh viễn
mất anh.
° ° °
Một bạn học cùng lớp của tôi, Dijen Babu, là người đang đứng giữa ngã ba
đường về mặt tâm linh. Tôi nói thế, vì anh ta một mặt muốn đặt niềm tin
vào tín ngưỡng tôn giáo, một mặt lại cũng hoài nghi về những giáo lý đôi
khi rất trừu tượng và không dễ gì chứng minh được bằng toán học.
Và vì thế, một ngày kia tôi mời anh đến thăm đạo viện của chúng tôi.
Dijen theo tôi đến viếng thăm đạo viện vào một buổi chiều và được tiếp
chuyện cùng sư phụ Śrỵ Yukteswar. Sau lần đó, anh thực sự quan tâm đến
tín ngưỡng và thường xuyên lui tới đạo viện ngày càng nhiều hơn. Tuy
nhiên, những kiến thức khoa học của trường đại học dường như đã làm cho
anh không sao dứt sạch mối nghi ngờ về những đạo lý trừu tượng mà người
ta đòi hỏi anh phải tin nhận thay vì là lý luận và chứng minh. Chẳng
hạn, có lần anh thú nhận với tôi là vẫn không tin được vì sao một điều
tệ hại xảy ra cho chúng ta hôm nay lại dứt khoát phải là hậu quả của một
hành vi xấu trong quá khứ, khi mà chẳng ai có thể chỉ ra được mối liên
hệ đó cả!
Tôi thầm mong có một dịp nào đó để Dijen hiểu ra rằng không phải mọi sự
thật trong cuộc đời này đều có thể được chứng minh bằng toán học.
Một ngày kia, sư phụ có việc phải đi Calcutta trong mấy hôm. Sư phụ để
lại một mảnh giấy, bảo tôi và Dijen hãy ra ga đón người trở về vào sáng
thứ Tư, chuyến xe lửa 9 giờ sáng.
Nhưng vào khoảng 8 giờ 30 hôm thứ Tư, khi đã sắp sửa cùng Dijen ra ga
đón thầy, tôi bất chợt có linh cảm là thầy đang muốn nhắn gửi tôi điều
gì đó. Tôi liền vào phòng và ngồi xuống tập trung tư tưởng, giữ cho tâm
hồn thật yên tĩnh. Trong trạng thái đó, một lúc sau tôi nghe thấy tiếng
sư phụ như vang lên trong thinh lặng: “Thầy còn một số công việc chưa
giải quyết kịp, nên sẽ không về vào chuyến xe lửa 9 giờ như đã định. Các
con không cần phải đi đón thầy.”
Tôi đi ra cổng, gọi Dijen lại và cho anh biết rằng qua giao cảm tôi đã
được sư phụ cho biết là người sẽ không về kịp như đã định và vì thế
không cần phải đi đón. Dijen nhìn tôi với vẻ hoài nghi và nói:
– Thầy đã dặn lại chúng ta bằng giấy mực hẳn hoi. Còn giờ đây anh chỉ
dựa vào cái linh cảm trừu tượng chẳng ai thấy được của anh để tuyên bố
thay đổi, tôi làm sao có thể tin là anh nói đúng được kia chứ?
Tôi không thể nói thêm gì hơn, chỉ bày tỏ thái độ cương quyết là sẽ
không đi. Dijen có vẻ bực tức, bỏ ra cổng một mình. Anh ta không thể tin
vào thông báo có tính cách đầy bí ẩn của tôi.
Quay trở về phòng, tôi bỗng thấy nhớ sư phụ lạ thường. Chỉ mấy ngày
không gặp mà tôi thấy như đã xa cách người quá lâu, không được nghe
giọng nói ấm áp, không được nhìn dáng đi khoan thai, ánh mắt hiền từ của
người... tôi cảm thấy một sự trống vắng không sao bù đắp được.
Tôi ngồi xuống tọa cụ của mình, bắt đầu thư giãn và tĩnh tọa. Không khí
yên tĩnh và tâm trạng thư thái làm cho tôi thấy nhẹ nhõm đi bao nhiêu ý
tưởng phiền toái. Tôi thấy đầu óc mình trở nên minh mẫn lạ thường và một
cảm giác lâng lâng sảng khoái như chưa từng có được.
Trong trạng thái kỳ lạ đó, bất chợt tôi hình dung thấy sư phụ như đang
hiện ra trước mặt tôi. Không phải ở Serampore, cũng không phải Calcutta,
mà là trên một toa xe lửa, trong bộ y phục màu vàng sậm thường ngày mà
lúc này tôi có thể thấy rõ đến từng nếp gấp... Cùng đi với người là một
tiểu đồng ôm cái bình bằng bạc sáng chói đang ngồi ở phía bên trái. Sư
phụ quay lại nhìn và cười với tôi:
– Chắc con chưa quen lắm với cách giao tiếp như thế này. Nhưng xem ra
cũng tiện lợi đấy chứ.
Rồi thầy chỉ tay về phía chú tiểu đồng:
– Con thấy đấy. Ta vừa thu nhận thêm một đệ tử nhỏ. Và vì việc này mà ta
phải chậm trễ một đôi chút. Nhưng chuyến xe lửa ta đang đi đây sẽ đến ga
vào lúc 10 giờ. Con có thể cùng Dijen đến đón ta cũng vừa kịp đấy.
Những âm thanh, tiếng nói ấy vang lên rõ ràng trong im lặng như thể tôi
không nghe chúng bằng tai mà bằng vào một thứ giác quan khác. Cũng vậy,
những hình ảnh không đi vào trí óc tôi bằng nhãn quan thông thường mà
bằng một khả năng tiếp nhận hoàn toàn khác...
Rồi trạng thái kỳ diệu ấy tan biến dần đi. Tôi trở lại với tâm trạng
bình thường khi nghe có tiếng bước chân vang lên từ phía ngoài sân. Một
cách mơ hồ, tôi biết đó là Dijen đã trở lại từ nhà ga xe lửa.
Khi tôi mở cánh cửa phòng khách để nhìn ra sân thì quả đúng là Dijen.
Anh nhìn tôi có vẻ hơi bẽn lẽn vì biết rằng mình đã sai khi không nghe
lời tôi. Tuy vậy, anh không giấu được sự ngạc nhiên về điều ấy:
– Mukunda! Tôi không sao tin nổi là anh nói đúng, nhưng quả thật là vậy.
Sư phụ đã không về trên chuyến xe lửa lúc 9 giờ. Tôi đã chờ đến chuyến 9
giờ 30 và cũng không thấy.
Tôi mỉm cười với anh ta:
– Nhưng thầy sẽ về trên chuyến xe lửa lúc 10 giờ. Vì vậy tôi với anh
phải đi ngay kẻo không kịp.
Dijen mở to mắt nhìn tôi kinh ngạc và cuối cùng cũng miễn cưỡng đi theo
tôi. Chúng tôi đến nhà ga vừa lúc xe lửa đến. Dijen hỏi tôi:
– Anh biết chắc là sư phụ sẽ về trên chuyến xe lửa này?
– Đúng vậy. Tôi đã tiếp chuyện với thầy qua thần giao cách cảm. Tôi biết
sư phụ có đưa về một tiểu đồng, và cậu bé ấy ôm một cái bình bằng bạc đi
cùng sư phụ. Người mặc bộ y phục màu vàng sậm.
Khi tôi vừa nói dứt câu ấy thì cũng vừa lúc Dijen nhìn thấy được sư phụ
từ trong đám đông hành khách vừa xuống tàu. Anh trố mắt nhìn thầy rồi
quay sang nhìn tôi như đang quan sát một hiện tượng kỳ lạ mà bộ óc của
anh không sao lý giải được. Bởi vì quả thật sư phụ mặc bộ y phục màu
vàng sậm và đang cùng đi với một chú bé ôm cái bình bằng bạc sáng chói!
Bản thân tôi cũng bàng hoàng không ít. Lần đầu tiên trong đời tôi đã
nhìn thấy được một cách hoàn toàn chính xác những hình ảnh vượt qua
không gian. Chính những hình ảnh của sư phụ và chú bé ôm bình bạc này đã
được tôi nhìn thấy lúc nãy, khi họ ngồi trên toa xe lửa còn tôi thì đang
ngồi trong phòng. Nhưng giờ đây thì thực tế chứng minh rằng đó không
phải là những ảo giác mà là những hình ảnh hoàn toàn có thật!
Sư phụ đã đi đến chỗ chúng tôi khi mà cả hai đều còn chưa lấy lại được
tâm trạng bình thường. Người hiểu được điều đó và nói với cả hai:
– Các con không phải suy nghĩ quá nhiều về những điều vốn vượt quá tầm
hiểu biết của các con. Cách tốt nhất là hãy thừa nhận những gì là sự
thật, và chính kinh nghiệm bản thân sẽ dần dần giúp các con hiểu rõ.
Trên đường về, tôi kể cho Dijen nghe việc tôi đã nhìn thấy sư phụ khi
người còn trên xe lửa. Lúc này, anh đã hoàn toàn tin lời tôi và quay
sang hỏi:
– Tôi không biết các nhà khoa học sẽ nghĩ sao nếu họ cũng chứng kiến
việc này như tôi và anh.
Tôi mỉm cười:
– Cách đây một thế kỷ, anh cũng có thể đặt ra câu hỏi tương tự nếu có ai
đó đã sử dụng đến vô tuyến điện. Khoa học không phải đã hiểu hết những
năng lực của con người cũng như trong vũ trụ. Nhưng điều đáng mừng là có
vẻ như dần dần rồi người ta cũng hiểu, cho dù việc lý giải sự việc bao
giờ cũng đi sau rất nhiều so với việc tiếp nhận nó bằng trực giác. Biết
đâu chừng trong khoảng một thế kỷ nữa, khoa học cũng có thể làm được
điều tương tự như chúng ta hôm nay nhờ vào một loại thiết bị nào đó.
[1]
Dijen có vẻ trầm ngâm rất nhiều:
– Vâng, có lẽ anh nói đúng. Chỉ có điều giờ đây tôi thấy không còn hứng
thú để tiếp tục theo học ở trường đại học nữa!