Từ lâu tôi vẫn nuôi hoài bão gầy dựng một sự nghiệp giáo dục cho lớp
thanh thiếu niên trẻ tuổi. Cơ sở của hoài bão này chính là vì tôi đã
nhận ra sự khiếm khuyết của nền giáo dục vào thời bấy giờ. Ngoài những
kiến thức khoa học, xã hội, nền tảng đạo đức tâm linh của con người đã
không hề được đề cập đến trong suốt những năm học tập của các em.
Việc thực hiện một hoài bão như thế là quá sức to lớn đối với một tu sĩ
như tôi. Tuy nhiên, tôi có một dự cảm là bằng cách này hay cách khác,
rồi cũng có lúc tôi sẽ thực hiện thành công điều đó. Mặc dù vậy, tôi
không chấp nhận việc chờ đợi một cách thụ động, mà luôn nôn nóng bắt tay
thực hiện ước mơ của mình.
Với sự đồng ý của sư phụ Śrỵ Yukteswar, tôi thành lập một lớp học nhỏ ở
Dihika, một thành phố nhỏ thuộc tỉnh Bengale. Lớp học ban đầu vỏn vẹn
chỉ có 7 thiếu niên theo học, nhưng tôi đã bỏ công nghiên cứu, tự đề ra
và khởi sự áp dụng một chương trình giáo dục mà tôi thấy là có thể mang
lại cho các em những kiến thức toàn diện nhất.
Ngay trong năm sau, thật bất ngờ khi Quốc vương Kasimbazar thân hành đến
viếng thăm tôi, nghe tôi trình bày ý tưởng của mình, và phát tâm hỗ trợ
cho tôi trong việc thực hiện những ý tưởng ấy.
Nhờ sự hỗ trợ tích cực đó, tôi đã có thể đưa lớp học của mình về tại
Ranchi, một thành phố thuộc tỉnh Bihar, cách Calcutta chừng 200 dặm.
Đây là một thành phố có khí hậu rất tốt lành, được xem là dễ chịu nhất
trên toàn cõi Ấn Độ. Lớp học được phát triển thành một trường học với
quy mô tương đối lớn mà tôi đặt tên là Thiếu Sinh Học Đường. Mọi phí tổn
đều do Quốc vương Kasimbazar đài thọ.
Trường dạy đầy đủ các môn học phổ thông, nhưng kèm theo đó học sinh được
học thêm về thiền định và một môn thể dục hỗ trợ cho phương pháp tu
thiền gọi là Yogada, do chính tôi nghĩ ra vào hồi năm 1916.
Trường có khả năng chứa được khoảng 100 học sinh nội trú, nhưng qua một
năm học, số học sinh đăng ký đã vượt quá xa con số đó. Vì thế, chúng tôi
buộc phải mở thêm rất nhiều lớp ngoại trú.
Do quy mô của trường phát triển, tôi không thể dành thời gian trực tiếp
giảng dạy mà chỉ phụ trách việc tổ chức. Tuy vậy, tôi vẫn đích thân lo
việc chăm sóc cho các em học sinh nội trú.
Vì là một lãnh vực hoàn toàn mới mẻ, nên trong thời gian đầu tôi đã vấp
phải không ít những khó khăn. Một mặt là những vấn đề về tổ chức, mặt
khác là những tư tưởng đối nghịch khác trong xã hội. Bởi vì mọi người
không phải ai ai cũng đều dễ dàng chấp nhận tin vào những lý tưởng bất
vụ lợi của chúng tôi.
Tuy nhiên, tôi nhận được sự ủng hộ rất lớn từ sư phụ Śrỵ Yukteswar và
cha tôi.
Sư phụ Śrỵ Yukteswar đã tiên liệu trước được mọi việc nên người có nói
với tôi rằng:
– Khi con từ bỏ cuộc sống riêng tư để phụng sự những lý tưởng cao quý
chung cho toàn xã hội, đó chính là từ bỏ những lo âu phiền lụy của một
đời sống gia đình để nhận lấy phần trách nhiệm còn lớn lao to tát hơn
nhiều. Đó là trách nhiệm đối với tất cả mọi người. Như vậy, con sẽ không
sao tránh khỏi được sự hiểu lầm và đố kỵ của những kẻ nhỏ nhen. Nhưng bù
lại, con sẽ nhận được phần thưởng cao quý nhất là một sự an lạc, hạnh
phúc trong tâm hồn.
Cha tôi cũng đã đích thân đến thăm tôi tại trường học. Trong một buổi đi
dã ngoại với các học sinh của tôi, người nhìn thấy tôi vui vẻ giữa những
thiếu nhi vây quanh và đã nói:
– Tuy cha chỉ có 8 người con, nhưng cha có thể hiểu được những gì con
phải trải qua lúc này để lo cho bọn trẻ.
Trường học phát triển trên một khu đất rộng chừng 26 mẫu, với những cây
cổ thụ che bóng mát và khung cảnh thiên nhiên rất thoáng đãng, xinh đẹp.
Dựa vào ưu điểm đó, tôi đã tổ chức cho hầu hết các lớp học đều được học
tập ngoài trời, ngay trong bầu không khí gần gũi với thiên nhiên rất thú
vị.
Mỗi ngày, các em được hướng dẫn có những giờ ngồi thiền nhất định với sự
chỉ dẫn cặn kẽ và kiểm tra thường xuyên. Ngoài ra, tôi cũng mời nhiều vị
tu sĩ đáng kính đến tiếp xúc với các em như một phương thức để các em
được trực tiếp học hỏi.
Một trong các tu sĩ ấy là Pranab, người ngày xưa đã từng thực hiện phép
phân thân ở Bénarès. Tôi còn nhớ, khi ấy ông đã có dự báo về một cuộc
gặp gỡ giữa ông với cha tôi và tôi. Không ngờ là cuộc gặp gỡ ấy lại diễn
ra tại Thiếu Sinh Học Đường.
Nhìn thấy các lớp học đã được tổ chức đi vào nề nếp, Pranab nói với cha
tôi:
– Thật không ngờ rằng lý tưởng giáo dục của đức Lahiri Mahsaya ngày nay
lại được thực hiện thành công bởi người con trai này của anh.
Cha tôi có vẻ lấy làm tự hào về lời khen tặng ấy.
Nhưng chuyến viếng thăm của Pranab có ý nghĩa nhiều hơn là một chuyến
viếng thăm thông thường, bởi vì sau đó ít lâu thì chúng tôi được biết là
sẽ vĩnh viễn không bao giờ còn được nhìn thấy vị tu sĩ này nữa!
Mang theo một số hạt giống và các dụng cụ cần thiết, Pranab đi lên một
vùng hẻo lánh gần chân núi Hy Mã Lạp Sơn và thành lập một đạo viện với
những môn đồ tình nguyện đi theo ông. Một thời gian ngắn sau khi đã tổ
chức xong đạo viện, ông thản nhiên từ bỏ cõi đời trong một tình trạng
sức khỏe rất tốt, bất chấp việc ông đã khá lớn tuổi.
Người đệ tử lớn của ông là Sanandan thông báo việc ông ra đi cho tôi
biết trong vài tháng sau đó. Anh đã kể lại trường hợp viên tịch của
Pranab như tấm gương chói sáng của một bậc chân tu đã đạt đến sự giác
ngộ hoàn toàn trong tu tập.
° ° °
Trong khuôn viên trường, có một hồ nước mát. Một hôm, tôi dẫn các em
thiếu nhi đến đó chơi và dặn các em:
– Các em không được phép lội xuống nước. Nếu muốn tắm, các em hãy dùng
gáo múc nước lên trên bờ để tắm.
Sau một lúc đùa nghịch, có một vài em đã quên mất lời dặn của tôi và
nhảy xuống nước tắm. Tuy các em bơi rất giỏi, nhưng vấn đề là dưới hồ có
rất nhiều rắn nước. Khi phát hiện ra điều này, các em đã hốt hoảng nhảy
vọt lên bờ và lấy làm ân hận đã không nghe lời dặn trước của tôi.
Sau khi tắm xong, tôi đưa các em lên dạo chơi trên một ngọn đồi và chúng
tôi cùng ăn cơm trên một bãi cỏ. Sau đó, dưới bóng mát của một cây cổ
thụ, các em đua nhau đặt với tôi rất nhiều câu hỏi. Dưới mắt các em, có
vẻ như tôi là người biết hết tất cả mọi chuyện.
Trong số các em này, có một bé trai chừng 12 tuổi tên là Kashi, khuôn
mặt rất sáng sủa nhưng bản tính rụt rè. Sau khi đứng yên một lúc lâu
nhìn các bạn vây quanh hỏi tôi đủ mọi vấn đề, em mới rón rén lại gần và
hỏi:
– Bạch thầy, về sau này con có thể xuất gia như thầy được chăng?
Một câu hỏi khá chín chắn làm tôi hơi giật mình. Tôi lặng nhìn em một
chút rồi buột miệng nói ra không tự kiềm chế được:
– Tiếc thay, em sẽ phải chết một ngày gần đây thôi.
Vừa nói xong lời tiên tri ấy, tôi đã lấy làm hối hận ngay. Quả thật, câu
nói đã phá hỏng niềm vui của thời gian còn lại trong ngày hôm ấy, vì tất
cả các em đều lấy làm buồn rầu thay cho số phận của người bạn mình.
Khi về trường, Kashi tìm đến phòng tôi. Trước sự ngạc nhiên của tôi, em
có vẻ rất bình tĩnh trước lời tiên tri chẳng lấy gì làm tốt đẹp của tôi:
– Bạch thầy, sau khi con chết, có thể nào con sẽ gặp lại thầy trong một
kiếp sau để tiếp tục được thầy dẫn dắt hay không?
Tôi nhìn em một lúc rồi nói:
– Nếu chúng ta có đủ nhân duyên với nhau, thầy hứa sẽ không bao giờ quên
em.
Sau đó ít lâu, tôi có việc phải đi xa trong một thời gian ngắn. Tôi gọi
Kashi đến và dặn em không được rời khỏi trường trong suốt thời gian tôi
vắng mặt. Tôi có dự cảm rằng nếu em được nằm trong sự che chở của tôi,
rất có thể em sẽ vượt qua được số phận không may sắp tới.
Nhưng ngay sau khi tôi rời khỏi Ranchi, cha của Kashi đến trường tìm em
và thuyết phục em về thăm mẹ ở Calcutta. Kashi đã nhớ lời dặn của tôi và
không muốn đi, nhưng người cha sau đó đã dùng mọi cách cứng rắn để buộc
em phải vâng lời.
Khi trở về Ranchi và nghe nói Kashi đã theo cha về thăm mẹ ở Calcutta,
tôi lập tức đáp xe lửa đi Calcutta và đến tìm em tại nhà. Dự cảm của tôi
đã hoàn toàn chính xác. Cậu bé mắc bệnh thời khí ngay trong ngày thứ hai
khi trở về nhà và đã không qua khỏi được.
Cái chết của Kashi đã ám ảnh tôi trong suốt một thời gian dài. Tôi có
cảm giác em và tôi có những mối quan hệ lâu xa nào đó mà không sao giải
thích được. Dự cảm chính xác về cái chết của em và nỗ lực ngăn cản không
thành công, cùng với lời đề nghị cuối cùng của em trước lúc chết đã làm
tôi suy nghĩ rất nhiều.
Về sau, cũng bằng vào sự dự cảm của mình, quả thật tôi đã gặp lại được
Kashi trong một căn phố nhỏ ở Calcutta. Cậu bé tái sinh này thật trùng
hợp là cũng được cha mẹ đặt cho tên gọi là Kashi và có khuôn mặt không
khác biệt gì lắm so với Kashi trước kia. Khi gặp tôi lần đầu, em đã quấn
lấy tôi một cách lưu luyến lạ kỳ. Và cha mẹ em đã đồng ý cho phép em rời
khỏi gia đình để đi theo học tập dưới sự dẫn dắt của tôi.
Cậu bé Kashi là một trong những trường hợp rất hiếm có và là một kỷ niệm
đẹp của tôi trong những ngày đầu tiên ở Thiếu Sinh Học Đường.