Tấm lòng ngưỡng mộ của tôi đối với đức thầy Lahiri Mahsaya ở Bénarès đã
khiến cho tôi vô cùng khao khát được tìm biết thêm về ngài. Tôi biết là
một bậc tôn sư chân chính thường rất hạn chế ít khi phô trương những
kinh nghiệm tâm linh mầu nhiệm của mình, trừ khi có những lý do chính
đáng. Vì thế, cách tốt nhất để tìm biết về thầy là phải tìm gặp được
những người đã từng thân cận gần gũi với thầy lúc sinh tiền.
Với ý tưởng ấy, một ngày kia tôi đi Bénarès và tìm đến sư mẫu Kashi
Moni, bậc hiền phụ của đức thầy Lahiri Mahsaya trước đây.
Mặc dù đã rất lớn tuổi nhưng sư mẫu Kashi Moni vẫn giữ được một phong
thái rất ung dung, dịu dàng. Khuôn mặt bà hồng hào tươi tỉnh, có vẻ như
luôn ẩn giấu tiềm tàng một nụ cười tươi mà bà sẵn sàng nở ra bất cứ lúc
nào. Đôi mắt to và trong sáng, không có vẻ gì là đã mệt mỏi với thời
gian. Bà đón tôi nơi cổng và nói thật dịu dàng:
– Chúc mọi điều tốt lành cho con. Con hãy vào nhà đi.
Khi tôi đã tự giới thiệu mình và mối quan hệ với đức thầy Lahiri
Mahsaya, sư mẫu vui vẻ đưa tôi vào phòng khách và tiếp tôi rất thân mật.
Sau một lúc chuyện trò cởi mở, sư mẫu đưa tôi đi thăm viếng gian tịnh
thất mà đức thầy Lahiri Mahsaya đã sử dụng khi còn sinh tiền. Đây là một
gian nhà nhỏ nhưng thoáng mát, được bài trí rất đơn sơ nhưng có đủ những
điều kiện lý tưởng cho việc ngồi thiền, vì nằm sâu trong hoa viên rộng
rãi nên rất yên vắng và mát mẻ.
Bà cũng kể cho tôi nghe rất nhiều về cuộc đời đức thầy và mối quan hệ
với một số các vị cao đồ mà bà được biết. Qua đó tôi được biết trước khi
trở thành một bậc tôn sư đạo hạnh cao thâm, người cũng đã từng là một
người chồng mẫu mực, một người cha đáng kính với hai con trai mà ngày
nay cũng đang nối tiếp bước chân người.
Sư mẫu nói với tôi:
– Ông ấy sống rất giản dị. Những ai mới gặp ông lần đầu tiên không thể
nào ngờ được ông là người đỡ đầu và dẫn dắt về mặt tâm linh cho cả hàng
ngàn đệ tử.
Qua sư mẫu, tôi được biết thêm là cho dù các đệ tử của thầy Lahiri
Mahsaya có nhiều người giữ những cương vị rất quan trọng trong xã hội
cũng như nhiều người rất giàu có, nhưng tự thân người sống một cuộc sống
rất thanh bần mà không chấp nhận bất cứ một sự hỗ trợ vật chất nào từ
các đệ tử.
Hôm sau, tôi trở lại thăm sư mẫu và được dịp tiếp xúc với hai người con
trai của người và đức thầy Lahiri Mahsaya là Tincuri và Ducuri. Tôi phải
thành thật thừa nhận là cả hai đều có kiến thức uyên bác và một sự khiêm
tốn lạ thường.
Sư mẫu bảo tôi:
– Thật ra quan hệ vợ chồng của chúng tôi đã chấm dứt từ sau khi tôi sinh
đứa con trai thứ hai. Từ đó về sau ông ấy là một bậc tôn sư hướng dẫn
tôi tu học chứ không còn là một người chồng theo nghĩa thông thường nữa.
Tôi có thể hiểu được điều này. Việc lập gia đình của một vị tôn sư không
hề nhắm đến những mục đích phàm tục như kẻ khác. Đối với họ thì đó cũng
là một trong các nhiệm vụ phải làm ở thế gian này, và bao giờ họ cũng
biết dừng lại đúng lúc.
Với một quan điểm cởi mở trong việc thu nhận đệ tử, thầy Lahiri Mahsaya
đã tiếp nhận rất đông môn đồ, không phân biệt giới tính hay đẳng cấp xã
hội. Chính mẹ tôi cũng là một trong số những nữ đồ đệ của người.
Một nữ đệ tử của thầy Lahiri Mahsaya tên là Kussa, hiện vẫn thường xuyên
đến thăm sư mẫu Kashi Moni và đã tình cờ gặp tôi trong dịp này. Bà kể:
– Thầy Lahiri Mahsaya có cho tôi một bức chân dung khi tôi thỉnh cầu
ngài. Thầy nói: “Tấm ảnh này chỉ có giá trị đối với những ai thật sự có
lòng sùng tín.” Hai năm sau khi được thầy ban cho bức chân dung ấy, tôi
mới có dịp chứng kiến sự linh diệu của nó. Đó là lần một cơn bão tràn
qua làng tôi ở vào một đêm kia cùng với mưa to và giông sét. Nhà chỉ có
tôi và một cháu gái nhỏ. Tôi không nghĩ đến gì khác hơn ngoài bức chân
dung của thầy, thế là tôi ôm chầm lấy bức chân dung vì sợ mưa bão sẽ làm
hư hại đi mất. Không ngờ đến sáng ra mới biết, cả làng đều bị thiệt hại
nặng nề, nhà cửa sụp đổ, cây cối ngả nghiêng... nhưng căn nhà nhỏ bé của
tôi vẫn nguyên vẹn không một chút tổn hại.
Câu chuyện của bà làm tôi nhớ lại bức chân dung của thầy Lahiri Mahsaya
ban cho mẹ tôi đã có lần cứu tôi thoát chết khỏi căn bệnh hiểm nghèo một
cách vô cùng mầu nhiệm. Bà Kussa cũng kể cho tôi nghe câu chuyện của bà
Abhoya, một bạn thân của bà và cũng là đệ tử của thầy Lahiri Mahsaya, đã
được thầy cứu giúp như thế nào.
Bà Abhoya vốn đã lớn tuổi mà chưa có con. Bà là một trong những trường
hợp khá kỳ lạ: bà đã sinh đến 8 người con nhưng tất cả đều chết sau khi
sinh ra. Bà đã thành tâm cầu nguyện và khẩn cầu thầy Lahiri Mahsaya chú
nguyện giúp bà. Khi bà sắp hạ sinh đứa con thứ chín, thầy dặn:
– Con sẽ sinh một đứa con gái, vào khoảng đầu hôm. Bằng mọi cách con
phải giữ cho cây đèn dầu trong phòng con không được tắt trước khi trời
sáng. Như thế, đứa bé sẽ được sống sót.
Quả thật, ít lâu sau thì bà Abhoya sinh một đứa con gái. Bà đã dặn kỹ
người giúp việc của mình và suốt đêm ấy cây đèn dầu được canh chừng cho
đến gần sáng... Bỗng nhiên bà Abhoya nghe có một tiếng động lạ khiến bà
giật mình mở mắt ra. Bà nhìn thấy thầy Lahiri Mahsaya đang đứng ở giữa
căn phòng, tay chỉ về cây đèn dầu đang leo lét sắp tắt vì cạn dầu. Hốt
hoảng, bà gọi người giúp việc, lúc đó vừa thiếp ngủ sau một đêm thức
trắng. Như thế là cây đèn được châm dầu vừa đúng lúc và đã cháy được cho
đến sáng. Khi bà nhìn lại cánh cửa phòng thì vẫn còn khóa chặt và không
còn thấy bóng dáng của thầy Lahiri Mahsaya đâu nữa cả.
Đứa con thứ chín của bà thật sự đã sống được cho đến trưởng thành. Vào
năm 1935 tôi có dịp tình cờ gặp người con gái này trong một chuyến đi
thuyết pháp.
° ° °
Theo lời giới thiệu của sư mẫu Kashi Moni, hôm sau tôi tìm đến viếng
thăm một môn đồ khác của thầy Lahiri Mahsaya là Kli Kumar Roy, một người
đã có may mắn được sống bên thầy rất lâu.
Sau một lúc trò chuyện, hiểu được mục đích chuyến viếng thăm của tôi,
Roy tỏ ra rất vui vẻ:
– Vâng, tôi rất sẵn lòng. Hơn nữa, những gì tôi biết về tôn sư chính là
những gì đã xảy ra cho chính tôi nên cũng chẳng có gì khó khăn để nhớ
lại.
Dừng một chút để mời tôi chén trà, rồi ông tiếp:
– Nếu không có thầy Lahiri Mahsaya thì tôi chẳng bao giờ dám nghĩ rằng
mình cũng có thể có được cuộc sống phúc lạc như bao nhiêu người khác.
Trầm ngâm giây lát, ông nói tiếp:
– Thật vậy, hồi đó tôi chỉ là một kẻ làm thuê mạt hạng. Khi tôi được
biết thầy Lahiri Mahsaya, tôi thường đến nghe thầy thuyết pháp. Người
chủ thuê tôi vốn là một người không có đức tin. Ông ta lấy làm tức giận
khi nghe biết việc tôi đến với thầy Lahiri Mahsaya. Ông đe dọa sẽ đuổi
việc nếu tôi còn tiếp tục. Tuy vậy, trong lòng ông cũng lấy làm thắc mắc
không hiểu vì sao tôn sư lại có sức cuốn hút đối với quá nhiều người như
vậy. Một hôm, ông bí mật đi theo tôi để tìm đến lúc thầy Lahiri Mahsaya
đang thuyết pháp. Mặc dù lúc đó người nghe thuyết pháp rất đông, nhưng
thầy biết ngay sự hiện diện của ông.
Dừng một chút như để nhớ lại, rồi ông kể tiếp:
– Thầy Lahiri Mahsaya nhìn quanh khắp cử tọa và hỏi: “Các vị có muốn xem
một bức tranh chăng?” Tất cả đều yên lặng tán đồng. Tôn sư liền nói:
“Nếu vậy, xin các vị hãy nhắm mắt lại và đặt hai tay lên đỉnh đầu, tôi
sẽ giúp các vị được nhìn thấy một bức tranh.” Cử tọa đều làm theo và ai
nấy đều thấy hiện ra trước mắt mình một người đàn bà mặc áo lụa thêu chỉ
vàng rất đẹp. Sau đó, tôn sư tiếp tục buổi thuyết pháp như bình thường.
Hầu hết mọi người đều thừa nhận đó là một phép lạ nhưng không ai hiểu
được vì sao người hiển thị phép lạ này. Cuối cùng, sau khi cử tọa đã ra
về, tôi mới ngạc nhiên nhận ra ông chủ của tôi vẫn còn ngồi lại, dáng vẻ
vô cùng lúng túng.
Ông mỉm cười như vẫn còn chưa quên được cảm giác lúc ấy. Sau khi uống
một hớp trà, ông tiếp tục:
– Ông chủ tôi từ từ đứng dậy và tiến đến trước mặt tôn sư. Tôi thật kinh
ngạc khi thấy ông quỳ xuống lạy người một cách chí thành. Sau đó, ông
mới nói: “Bạch thầy, quả thật thầy đã thấu suốt lòng con. Con không còn
có ý dám khinh mạn với thầy nữa.” Hóa ra người đàn bà mà ai nấy đều nhìn
thấy đó là cô đào mà ông chủ tôi đang theo đuổi và đã hao tốn rất nhiều
tiền của. Vì thế, chỉ mỗi một mình ông là nhận ra và hiểu được vì sao
thầy Lahiri Mahsaya hiển hiện hình ảnh cô ta trong buổi ấy. Kinh ngạc
trước phép lạ này, ông thành khẩn xin với tôn sư thu nhận ông làm đệ tử.
Thầy Lahiri Mahsaya nói: “Nếu trong vòng sáu tháng nữa ông giữ được một
cuộc sống ngay thẳng không phạm vào tội lỗi gì, ta sẽ bằng lòng. Bằng
không thì ta dù muốn cũng không thể thu nhận ông.”
Đôi mắt ông Roy bỗng như dõi về một cõi xa xăm khi ông nhớ lại những
điều bi thảm của quá khứ:
– Trong ba tháng sau đó ông chủ tôi đã cố gắng chống lại sự cám dỗ để
không đến với người đàn bà tội lỗi kia. Nhưng cuối cùng ông đã thất bại
vào tháng thứ tư. Và sau đó chỉ khoảng một tháng nữa thì ông qua đời vì
một căn bệnh rất kỳ lạ. Chỉ đến lúc đó tôi mới hiểu được câu nói cuối
cùng của thầy Lahiri Mahsaya với ông ta.
Ông Roy kể tiếp:
– Quyền năng của thầy Lahiri Mahsaya tuy rất kín đáo nhưng quả thật tinh
vi mầu nhiệm không ai có thể hiểu hết. Ngài chịu sự ghen ghét của nhiều
tà sư nhỏ nhen, đã từng thuê người mang thuốc độc lén bỏ vào thức ăn để
hại người. Chính tôi đã từng thấy người ngăn cản các đệ tử không ai được
dùng thức ăn đó, nhưng bản thân người vẫn thản nhiên ăn uống và không
sao cả. Quá khiếp sợ vì tận mắt chứng kiến phép lạ ấy, kẻ đầu độc thầy
đã ra tự thú và trở thành môn đệ của thầy.
Trưa hôm đó, ông Roy mời tôi ở lại dùng cơm chay với ông và đi thăm
viếng một đạo viện gần đó do ông bỏ tiền để giúp đỡ xây dựng, hiện do
một môn đệ khác của thầy Lahiri Mahsaya cai quản. Trên đường đi, ông kể:
– Người đệ tử hiện đang cai quản đạo viện này đã đến với tôn sư trong
một trường hợp khá hài hước. Ông ta vốn là một kẻ ngang ngược, không có
đức tin và thường phỉ báng các vị tu sĩ. Một hôm, ông nói với bạn bè
rằng sẽ có cách chỉ rõ cho họ thấy rằng thầy Lahiri Mahsaya chỉ là một
tên đại bịp. Thế rồi ông dùng một cái bình rất đẹp đựng nước vôi bên
trong, mang đến trước thầy Lahiri Mahsaya và giả vờ kính cẩn thưa: “Bạch
tôn sư, con xin cúng dường ngài một bình sữa tươi.” Mọi người không ai
biết chuyện gì đang xảy ra.
Kể đến đây, ông Roy bỗng bật cười thành tiếng như nhớ lại cảnh tượng hôm
ấy:
– Thầy Lahiri Mahsaya thản nhiên chấp nhận và bưng bình nước vôi lên
uống cạn. Ngay sau đó, tên ngỗ nghịch kêu thét lên đau đớn và ôm bụng
nằm lăn ra đất. Ông ta cảm thấy gan ruột như cháy bỏng vì thứ nước vôi
kia. Quả là một sự trừng phạt kỳ lạ nhưng hoàn toàn đích đáng. Quá đau
đớn, ông ta bò đến trước mặt tôn sư để thú tội và xin tha thứ. Thầy
Lahiri Mahsaya dịu dàng nói: “Con nên biết, khi làm hại bất cứ một sinh
linh nào cũng là làm hại đến chính mình.” Sau đó, thầy đặt tay lên trán
kẻ tội đồ và cơn đau của ông ta liền biến mất. Từ đó về sau, ông từ bỏ
tất cả để theo làm một đệ tử sùng tín luôn kề cận bên cạnh thầy Lahiri
Mahsaya.
Chiều hôm đó, khi tôi từ giã ông Roy để ra về, ông nói với tôi:
– Đức thầy Lahiri Mahsaya quả là một bậc tôn sư vĩ đại mà không phải
thời nào cũng có được. Tôi đã từng tiếp xúc với rất nhiều tu sĩ khả
kính, có những vị đã đi tu từ khi còn bé và đạo hạnh rất cao thâm, nhưng
vẫn chưa thấy ai có được phong thái giản dị mà siêu việt như thầy Lahiri
Mahsaya.
Sau những gì đã biết về đức thầy Lahiri Mahsaya, tôi cũng tin rằng lời
nhận xét của ông Kli Kumar Roy là hoàn toàn chính xác.