Một nhà hiền triết đã mô tả về ý nghĩa của một đời người chỉ trong một 
		câu ngắn gọn: “Con người sinh ra chỉ để đau khổ và cuối cùng chết đi.”
		
		Nói về sự đau khổ của cuộc đời, ngày nay hẳn không còn ai phải hoài nghi 
		hay tranh cãi. Người ta thường chỉ không đồng ý với nhau trong việc nhận 
		định về những đau khổ đó và nên đối phó với chúng như thế nào mà thôi.
		
		Cách đây hơn 25 thế kỷ, người đầu tiên đã nhận thức và mô tả hết sức cụ 
		thể về những đau khổ của đời người là một người Ấn Độ. Ngài đã chỉ rõ 
		mọi nguyên nhân cội nguồn của đau khổ và vạch ra con đường thoát khổ, 
		được hàng triệu triệu người trên khắp thế giới noi theo từ đó đến nay và 
		mỗi người đều đạt được những sự lợi ích tinh thần nhất định, từ những 
		phút giây thanh thản trong đời sống thường nhật cho đến những trạng thái 
		giải thoát toàn diện thoát khỏi mọi khổ đau. 
		Lịch sử ghi nhận sự kiện đản sinh của bậc vĩ nhân đó với tên gọi Thái Tử 
		Sĩ Đạt Ta, và về sau được tôn xưng là Đức Phật, với ý nghĩa là bậc Toàn 
		Giác. 
		Phụ vương của Sĩ Đạt Ta là một vị vua có thế lực lớn ở miền Bắc Ấn Độ 
		thời đó. Người quyết định truyền ngôi cho thái tử nên đã giữ chặt thái 
		tử trong cung, không cho thái tử nhìn thấy những cảnh lầm than, đau khổ 
		của người đời. 
		Thái Tử sống từ nhỏ trong cung cấm. Đến lúc trưởng thành, vua cha cưới 
		cho thái tử một vị công chúa nhan sắc tuyệt trần. Từ nhỏ đến lớn, thái 
		tử chưa hề bước chân ra khỏi bốn vách thành bao bọc quanh hoàng cung. 
		Khi thái tử có được một hoàng nam, người thấy nhàm chán cảnh cung điện 
		và muốn biết có những gì ở cuộc sống bên ngoài cung điện. Người mới xin 
		phép vua cha xuất thành du ngoạn. Lần đầu tiên thái tử được nhìn thấy 
		cảnh thành phố tấp nập, dân cư đông đảo và đời sống thực tế bên ngoài 
		cung điện. 
		Sau khi du ngoạn bên ngoài bốn cửa thành, thái tử nhìn thấy những cảnh 
		tượng làm cho người chú ý. Đó là cảnh một người già, một người bệnh tật 
		và một xác chết. Thái tử lần đầu tiên thấy được những cảnh này, vô cùng 
		xúc động, bèn hỏi tên đánh xe đi theo ngài: “Tại sao lại có những cảnh 
		đau khổ như thế?” 
		Khi được biết rằng đó là những điều vẫn xảy ra với tất cả mọi người, 
		không ai tránh khỏi, Thái tử vô cùng buồn bực, đến nỗi Ngài không còn 
		ham thích gì cuộc sống xa hoa. 
		Khi trở về cung, ngài bắt đầu nuôi ý định xuất ly, từ bỏ tất cả mọi sản 
		nghiệp, gia đình vợ con để xuất gia tầm đạo, tìm một phương cách để cứu 
		vớt nhân loại và chúng sinh thoát khỏi sự lầm than đau khổ. 
		Ý nguyện của ngài không được sự chuẩn thuận của vua cha. Vì thế, ngài đã 
		phải đang đêm vượt thành để ra đi tầm đạo. Sau nhiều năm khổ công tìm 
		kiếm và tu tập, tham thiền quán tưởng, ngài đạt được trạng thái giác 
		ngộ, trở thành một bậc toàn trí toàn giác, xứng đáng với danh hiệu 
		Phật-đà, nghĩa là Bậc tỉnh giác. Sau đó ngài mới truyền dạy đạo giải 
		thoát cho thế gian, chỉ cho tất cả mọi người thấy được con đường thoát 
		khổ. 
		Chúng ta là những người trần gian phàm tục, không ai có thể làm giống 
		như đức Phật Thích Ca, nghĩa là nhất thời dứt bỏ tất cả sự giàu sang, 
		quyền thế, danh vọng, tình yêu và hạnh phúc gia đình để theo đuổi một 
		mục đích quá cao xa như việc đi tìm chân lý và tìm hiểu ý nghĩa chân 
		thật nhất của cuộc đời! Tuy nhiên, mỗi người trong chúng ta đều phải 
		trải qua những hình thức khổ đau nhất định trong cuộc đời mình và hẳn đã 
		có lúc phải tự hỏi: 
		– Tại sao con người phải chịu đau khổ? Và ta có thể làm gì để thoát khổ?
		
		Cách giải thích về những “tội lỗi bẩm sinh” mà con người phải nhận lấy 
		ngay từ lúc sinh ra dường như không thuyết phục đối với nhiều người. Họ 
		thấy không có lý do gì để người ta phải chịu đựng khổ đau chỉ vì những 
		điều mà họ hoàn toàn không tự mình thực hiện! Nhưng nếu cho rằng có 
		những điều chính ta đã thực hiện trong quá khứ để dẫn đến sự khổ hiện 
		nay nhưng ta hoàn toàn không nhớ biết chỉ vì si mê thì nhiều người cũng 
		không tin nhận được, vì họ cho rằng không có sự chứng minh cụ thể nào 
		cả!
		Những nhà văn có óc không tưởng đã phác họa về một thời kỳ trong tương 
		lai mà bốn nỗi khổ của đức Phật nêu ra sẽ có hai điều không còn nữa, đó 
		là bệnh tật và già yếu. Nhưng mặc dầu khoa học hiện đại đã có rất nhiều 
		những phát minh đột phá, người ta vẫn chưa bao giờ chạm tới ngưỡng cửa 
		của sự chấm dứt hoàn toàn bệnh tật hoặc làm cho con người không còn chịu 
		tiến trình lão hóa. Cứ mỗi khi tìm được phương pháp điều trị cho một căn 
		bệnh nan y nào đó, thì dường như là ngay lập tức sẽ thấy xuất hiện một 
		căn bệnh mới, còn bất trị hơn cả căn bệnh trước đó! Và như thế lúc nào 
		con người cũng phải luôn đứng trước những thách thức không thể vượt qua 
		của bệnh tật. Còn nói đến tiến trình già yếu thì càng không thấy có 
		triển vọng gì tốt đẹp! May mắn lắm thì người ta cũng chỉ hy vọng tìm ra 
		một phương thuốc nào đó làm cho con người có thể trẻ hóa được chừng năm 
		mười năm tuổi cũng đã là phi thường lắm rồi, đừng nói chi đến việc “cải 
		lão hoàn đồng”!
		Nhưng cho dù có vượt qua được sự bệnh tật và già yếu, con người hầu như 
		cũng không thể tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề mà con người vẫn xem 
		là kẻ thù lớn nhất: Đó là sự chết! Ranh giới giữa sống và chết bao giờ 
		cũng hết sức mong manh, và con người chưa hiểu biết được bao nhiêu về 
		vấn đề này nên có thể nói là hoàn toàn bất lực trong việc tác động vào 
		nó. Cho dù người ta có thể làm ra những cỗ máy khổng lồ đủ sức san bằng 
		cả một hòn núi nhỏ, thì họ cũng không thấy có chút hy vọng gì có thể làm 
		cho một con chuột nhắt bé tí đã chết có thể sống lại dù chỉ trong chốc 
		lát!
		Trong khi chờ đợi một cách vô vọng những tiến bộ của con người theo 
		hướng này, và trong khi sự cải tạo thế giới trên một bình diện hợp lý 
		hơn vẫn còn chưa đem đến cho nhân loại sức khỏe, sự anh ổn và hạnh phúc, 
		thì chúng ta vẫn luôn phải đương đầu với muôn ngàn sự bấp bênh trong đời 
		sống, những mối nguy cơ, tai họa và đau khổ luôn rập rình đe dọa sự hạnh 
		phúc và bình an trong tâm hồn chúng ta! Những tai họa thiên nhiên như 
		hỏa hoạn, bão lụt, dịch bệnh, động đất... kèm theo với những cuộc chiến 
		tranh do chính con người gây ra luôn sẵn sàng cướp đi đời sống an ổn của 
		bất cứ ai trong chúng ta. Đó chỉ là mới kể qua một vài sự tác động xấu 
		từ bên ngoài, còn nói về những yếu tố bên trong, tức là phần nội tâm, 
		thì con người lại luôn sẵn có vô số những sự yếu đuối, bất toàn, như 
		lòng ích kỷ, ganh ghét, tham lam, thù hận, si mê .v..v... đều là những 
		nguồn gốc sinh ra sự đau khổ cho chính bản thân mỗi người và cho những 
		người chung quanh. 
		Trong những giây phút vui tươi ít ỏi của cuộc đời, khi chúng ta cảm thấy 
		trong lòng vui vẻ hân hoan vì tiếng nhạc réo rắt du dương, hay khi nhìn 
		thấy cảnh sắc muôn màu của lúc bình minh, chúng ta thường cảm thấy rằng 
		trong vũ trụ tự nhiên hẳn luôn sẵn có sự an vui và ẩn giấu một ý nghĩa 
		sâu xa thâm trầm nào đó, khác hơn là những nỗi khổ đau mà ta phải thường 
		xuyên gánh chịu. Tuy nhiên, khi chúng ta quay trở về cõi đời thực tế với 
		những sự va chạm phũ phàng, những thất vọng não nề cay đắng, thì chúng 
		ta không khỏi nêu ra nhiều câu hỏi như là: 
		– Ý nghĩa và mục đích của cuộc đời này là gì? 
		– Ta là ai? 
		– Tại sao ta sinh ra ở đây? 
		– Rồi ta sẽ đi về đâu? 
		– Tại sao ta phải chịu đau khổ? 
		– Có những mối quan hệ gì giữa ta và những người khác quanh ta? 
		– Giữa con người với cái sức mạnh vô hình huyền bí trong cõi thiên nhiên 
		bao phủ cuộc đời chúng ta có mối liên hệ như thế nào chăng? 
		Những câu hỏi căn bản đó, nhân loại đã từng nêu ra từ những thời đại quá 
		khứ xa xăm. Nhưng ngày nào người ta vẫn chưa tìm ra được câu giải đáp 
		thì tất cả những giải pháp tạm thời để làm dịu bớt sự đau khổ, dầu là 
		những phương tiện vật chất hay tinh thần, đều chỉ có ý nghĩa vô cùng hạn 
		chế và không thể giúp cho ta có được hạnh phúc thực sự. Ngày nào mà vấn 
		đề đau khổ của nhân loại về cơ bản vẫn chưa được giải quyết, thì có thể 
		nói là những nỗ lực của con vẫn chưa giải quyết được gì cả, vì tất cả 
		mọi thành tựu vật chất hay tinh thần xét cho cùng cũng không có ý nghĩa 
		gì khi mà người ta phải luôn oằn vai dưới gánh nặng khổ đau. Ngày nào mà 
		trên thế gian còn có một sinh vật nhỏ mọn tầm thường nhất đang quằn quại 
		trong đau khổ mà người ta chưa giải thích được nguyên nhân, thì xem như 
		người ta chưa thực sự giải thích được điều gì cả, và quan niệm triết lý 
		của nhân loại về cuộc đời vẫn còn là thiếu sót, bất toàn. 
		Từ những thời đại cổ xưa nhất, loài người đã từng nêu ra những câu hỏi 
		trên. Và càng suy ngẫm thì họ càng cảm thấy rằng những sự tranh đấu vất 
		vả và đau khổ của con người không hẳn là vô ích và vô nghĩa như người ta 
		có thể lầm tưởng. Bởi vì, trong khi những ý nghĩa vật chất nhìn thấy 
		được là hoàn toàn không có giá trị chân thật, thì sự đào luyện và tiến 
		hóa về tinh thần nhờ trải qua những kinh nghiệm khổ đau vẫn luôn là một 
		điều có thật. Từ đó, người ta cảm thấy nhất định phải một sự liên quan 
		giữa con người với thế giới tâm linh hay phần tinh thần phi vật thể. 
		Chính từ những cảm nhận mơ hồ đầu tiên này mà người ta bắt đầu tin vào 
		sự hiện diện vô hình của những đấng thần minh trong những khu rừng thẳm 
		hoặc trên đồi cao, nơi gốc đa đầu làng hoặc giữa đồng hoang vắng vẻ... 
		Cũng từ đó, người ta tin rằng mỗi sinh vật, từ con người cho đến loài 
		cầm thú, đều có một linh hồn, và rằng linh hồn đó tuy phải chịu những 
		đau khổ cùng với thể xác, nhưng vẫn sẽ tồn tại sau khi chết trong một 
		hình thức phi vật chất và tiếp tục có một đời sống riêng của nó. Mặc dù 
		những niềm tin như thế hầu hết đều là vô căn cứ, nhưng nó lại thực sự 
		xuất phát từ những cảm nhận rất thật của con người trong suốt quá trình 
		chiêm nghiệm về đời sống. Vì thế, những niềm tin này hầu như đã đồng 
		thời xuất hiện ở khắp nơi trên trái đất, bất chấp mọi sự khác biệt về 
		chủng tộc, địa lý... 
		Khi sự suy nghiệm của con người về vấn đề này đã trải qua được những 
		quãng thời gian rất dài thì những lý thuyết khác nhau dần dần được phát 
		sinh. Hoặc có người cho rằng ngoài cõi trần gian đau khổ này mà loài 
		người đang sống trong sự hỗn tạp pha lẫn cả điều lành và điều dữ, điều 
		thiện và điều ác, hẳn phải còn có một cảnh giới vô hình nào đó để là nơi 
		thưởng phạt công minh đối với những hành động thiện ác của con người ở 
		thế gian. Và xuất phát từ niềm tin đó mà người ta đã tin rằng có những 
		cảnh thiên đàng hay địa ngục. Tùy theo sự tưởng tượng, hình dung khác 
		nhau ở từng nơi mà người ta dựng nên những đấng cầm cân nảy mực khác 
		nhau, hoặc miêu tả những cảnh thiên đàng và địa ngục khác nhau, nhưng 
		tựu trung vẫn giống nhau ở điểm là khuyến thiện trừ ác và sự công bằng 
		tuyệt đối của sự phán xét vô hình đó.
		Những điều tin tưởng và giải thích như trên đã từng được nêu ra rất 
		nhiều. Có những cách giải thích hãy còn giản dị thô sơ, chất phác, nhưng 
		cũng có những cách giải thích tinh tế, sâu sắc hơn, và cũng có những 
		cách giải thích được mọi người cho là hợp lý, thuyết phục. Và chính nhờ 
		sự tin tưởng vào những giải thích được chấp nhận đó mà con người vẫn có 
		thể tiếp tục sống và đương đầu với những nỗi khó khăn, đau khổ giữa cuộc 
		đời, vì sự thật là nếu không có những niềm tin đó thì cho dù con người 
		có can đảm đến đâu cũng không thể nào vượt qua được những cơn khủng 
		hoảng. Có người tin tưởng ở Đức Mahomet, có người tin tưởng ở Đức Phật, 
		hoặc Chúa Jesus, hay Đức Krishna, hoặc một hình tượng tôn giáo nào khác 
		nữa... 
		Có nhiều người tin rằng đời người có thể giải thích bằng một lý do duy 
		nhất, đó là ý nghĩa của sự sống. Một số người khác không cần bận tâm tìm 
		biết lý do gì cả, mà chỉ tận hưởng sự vui sướng, khoái lạc trong hiện 
		tại. Đối với những người sinh trưởng trong nền giáo dục và tín ngưỡng 
		đạo Gia Tô, thì sự giải thích về đời người và những sự đau khổ của cuộc 
		đời thường là như thế này: 
		– Con người có một linh hồn và linh hồn vốn bất diệt; sự đau khổ là một 
		thử thách đưa đến cho chúng ta, thiên đàng hay địa ngục là những điều 
		thưởng phạt tùy theo cách hành động và cư xử của chúng ta trên thế gian.
		
		Những người chấp nhận sự giải thích đó không hề nói rằng họ có đủ bằng 
		chứng; vì đó chỉ là sự giải thích mà họ được hấp thụ từ cha mẹ và từ các 
		giáo sĩ; và chính những vị này cũng đã hấp thụ từ những bậc phụ huynh và 
		các giáo sĩ trong thế hệ của họ, rồi cứ như thế đi ngược dòng thời gian 
		cho đến khi người ta tìm thấy nguyên ủy mọi sự nằm trong một quyển sách 
		gọi là Kinh Thánh (Bible), và một người đã thiết lập, củng cố niềm tin 
		ấy tên là Jesus. 
		Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng bộ sách này thật là hay tuyệt, và Đức 
		Jesus, cho dù là một con người hay thực sự là con của Chúa Trời, vẫn 
		phải xem là một nhân vật phi thường. Tuy nhiên, kể từ thời kỳ Phục Hưng 
		(Renaissance) cho đến nay, người Tây phương ngày càng trở nên hoài nghi 
		đối với những tín điều dựa trên niềm tin không được xác tín, dẫu cho đó 
		là tin vào một quyển sách hay một con người. Bất cứ tín điều nào không 
		thể chứng minh được bằng các phương tiện khoa học đều gây ra một sự hoài 
		nghi mỗi lúc một tăng thêm. 
		Nhà thiên văn học Ptolemy (Ptolémée)
[1] nói rằng 
		mặt trời xoay quanh trái đất; và đó là điều mà Hội Thánh Gia Tô đã chấp 
		nhận và truyền dạy. Tuy nhiên, nhà Thiên văn Copernic
[2] 
		đã phát minh ra những khí cụ thiên văn học để chứng minh điều ngược lại, 
		rằng chính trái đất xoay chung quanh mặt trời! 
		Triết gia Aristote nói rằng nếu người ta làm rơi cùng lúc hai vật có 
		trọng lượng khác nhau từ trên cao, vật nặng hơn sẽ rơi xuống đất trước, 
		và Hội Thánh đã hoàn toàn chấp nhận nền triết học cùng sự phát minh khoa 
		học của Aristote. Tuy thế, với một cuộc thí nghiệm giản dị từ trên đài 
		nghiêng ở thành phố Pise, Galileo
[3] đã chứng minh 
		rằng hai vật có trọng lượng khác nhau vẫn có thể rơi xuống đất cùng lúc 
		nếu chúng có thể tích khác biệt tương ứng. 
		Trong Kinh Thánh có nhiều đoạn cho rằng trái đất vốn là một mặt phẳng 
		rộng; tuy nhiên Christophe Colomb và Magellan cùng nhiều nhà thám hiểm 
		khác nữa của thế kỷ XV đã làm đảo ngược giả thuyết trên đây bằng những 
		chuyến du hành trên mặt biển, khởi hành từ một điểm và đi thẳng theo 
		hướng đông nhưng cuối cùng lại đến được điểm khởi đầu, chứng tỏ rằng họ 
		đã đi theo một đường tròn. 
		Những sự chứng minh trên đây cùng nhiều chứng minh khác nữa đã dần dần 
		chứng tỏ rằng những giả thuyết dựa trên niềm tin vô căn cứ từ thời xưa 
		không chắc gì là đúng. Do đó đã nảy sinh quan niệm khoa học và óc hoài 
		nghi phán đoán của người thời nay. 
		Tuy nhiên, có một thực tế là trong sự tranh đấu để sống còn con người 
		không thể tránh khỏi sự đau khổ. Sự đau khổ này, dường như người ta 
		không tìm ra lý do nào để giải thích ngoài việc phải thừa nhận là nó 
		không có mục đích gì cả! Lẽ nào người ta lại không thể có một cuộc sống 
		không phải chịu đau khổ? Và những gì ta biết về sự chết cho đến nay vẫn 
		chỉ là “một sự tan rã của những phân tử hóa học vật chất”, ngoài ra ta 
		không còn biết gì hơn nữa. 
		Như vậy, với khuynh hướng khoa học, người ta đã thay thế niềm tin vào 
		Kinh Thánh hay các vị giáo chủ bằng niềm tin vào năm giác quan và các 
		thiết bị khoa học! 
		Với những ống kính hiển vi, viễn vọng kính, quang tuyến X, máy radar và 
		những phát minh tối tân khác, khoa học đã nới rộng tầm hoạt động của năm 
		giác quan đến mức vượt xa trước đây, nhưng người ta vẫn dựa vào sự nhận 
		xét bằng năm giác quan, tức thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác và 
		xúc giác như là nền tảng của mọi lý luận khoa học. 
		Tuy nhiên, trải qua vài chục năm gần đây, người ta đã trở nên phức tạp 
		hơn và hoài nghi hơn đối với những điều họ hiểu biết hoặc tưởng rằng 
		mình đã hiểu biết. Những khí cụ khoa học mà người ta phát minh ra đã chỉ 
		cho họ thấy một cách mỉa mai rằng những giác quan của con người thật vô 
		cùng thiếu sót, bất toàn và không thể giúp chúng ta hiểu biết vũ trụ một 
		cách thật sự đầy đủ, chính xác. Những luồng sóng Hertz,
[4] 
		chất phóng quang, nguyên tử lực... đó là chỉ mới kể có một vài hiện 
		tượng khoa học của thời buổi hiện đại, đã chứng minh một cách rõ ràng 
		rằng chung quanh chúng ta có những luồng âm ba rung động và những mãnh 
		lực vô hình; và những phân tử nhỏ bé nhất của vật chất đều là những kho 
		chứa đựng năng lực, hàm súc tiềm tàng một sức mạnh kinh khủng mà con 
		người trước đây không thể tưởng tượng nổi. 
		Chúng ta biết rằng những giác quan như tai, mắt... mà chúng ta dùng để 
		tiếp xúc với ngoại giới, cũng ví như những cửa sổ nhỏ hẹp của căn nhà bé 
		nhỏ là xác thân của chúng ta. Sự nhạy cảm của con mắt chúng ta đối với 
		ánh sáng giúp chúng ta tiếp nhận chỉ có một phần nhỏ những luồng âm ba 
		rung động của ánh sáng. Sự thụ cảm của lỗ tai ta đối với âm thanh chỉ 
		giúp ta tiếp nhận một biên độ vô cùng nhỏ hẹp trong biển âm thanh rộng 
		lớn của vũ trụ. Nhiều loại thú cầm, chim muông, côn trùng, sâu bọ có 
		những thị giác, thính giác và khứu giác khác hẳn loài người; bởi đó vũ 
		trụ của chúng bao hàm nhiều sự vật mà chúng ta từ lâu không nhận biết 
		hoặc không thể nhận xét rõ. Thật đáng ngạc nhiên khi con người vốn tự 
		hào về trí thông minh đứng đầu trong muôn loài nhưng lại thua kém một số 
		loài cầm thú, chim muông và sâu bọ về năng lực của giác quan để biết về 
		vũ trụ bên ngoài. Hơn nữa, vì phải phụ thuộc vào những công cụ, phương 
		tiện khoa học mà chính trí óc siêu việt thông minh của họ đã phát minh, 
		nên con người không thể tự mình nhận biết và quan sát mọi sự vật trong 
		vũ trụ mênh mông rộng lớn. 
		Hãy tưởng tượng rằng chúng ta có thể nới rộng tầm hoạt động và nhận biết 
		của giác quan đến mức nhạy cảm hơn đối với ánh sáng và âm thanh, dẫu 
		rằng chỉ hơn mức bình thường một phần nào thôi. Phải chăng khi ấy ta sẽ 
		nhận biết được nhiều sự vật mà trước kia ta không hề nghe, không hề 
		thấy? 
		Hoặc nếu có một người nào đó bẩm sinh đã có được những giác quan phi 
		thường, với một tầm nhận biết rộng lớn hơn, phải chăng điều tất nhiên là 
		người này sẽ có thể nghe thấy, nhận biết những sự vật mà chúng ta không 
		thấy, không nghe? Với một mức độ khác biệt nào đó, phải chăng người ấy 
		có thể nghe, thấy và nhận biết vượt qua cả những khoảng không gian xa 
		xôi, tương tự như máy vô tuyến truyền thanh hoặc truyền hình? 
		Đứng trước thế giới mênh mông vô tận với biết bao điều còn bí ẩn mà 
		những khí cụ khoa học tối tân của thế kỷ hai mươi đã hé mở cho chúng ta 
		nhận biết phần nào, thì người ta buộc phải nhìn nhận khả năng xảy ra 
		những điều nói trên. Và nếu nhìn ngược dòng lịch sử loài người, chúng ta 
		sẽ thấy đã từng có nhiều trường hợp đặc biệt được ghi chép về những khả 
		năng nhận biết phi thường của một số người. Một trong số những người đó 
		là ông Swedenborg,
[5] nhà bác học trứ danh của thế 
		kỷ 18. Ông này có được một năng lực nhận biết rất phi thường. Người ta 
		đều biết rõ một chuyện về năng lực phi thường của ông, vì chuyện này 
		được rất nhiều người chứng kiến, trong số đó có cả nhà triết học 
		Emmanuel Kant. 
		Một buổi chiều vào khoảng sáu giờ, ông Swedenborg đang ngồi dùng cơm với 
		vài người bạn ở thành phố Gothenburg, bỗng nhiên ông giật mình và nói 
		rằng một cơn hỏa hoạn lớn đang xảy ra ở Stockholm là chỗ ông ở, cách đó 
		độ năm trăm cây số. Sau đó một lát, ông tuyên bố rằng ngọn lửa đã thiêu 
		hủy ngôi nhà của một người láng giềng và hăm dọa cháy lan đến ngôi nhà 
		của ông. Đến tám giờ, cũng chiều hôm đó, ông cho biết, với một giọng nói 
		đã trấn tĩnh, rằng ngọn lửa đã được dập tắt ở khoảng cách nhà ông độ vài 
		ba gian nhà khác. 
		Hai ngày sau, những lời của ông Swedenborg đã được xác nhận bằng những 
		bài tường thuật về cuộc hỏa hoạn bộc phát đúng vào lúc ông giật mình và 
		có cảm giác đầu tiên về cơn tai biến này! 
		Đây không phải là trường hợp duy nhất, tiểu sử của nhiều nhân vật tên 
		tuổi cũng ghi chép hàng trăm trường hợp tương tự, trong số đó có những 
		người nổi tiếng như Mark Twain, Abraham Lincoln, St. Saens.v.v... Trong 
		vài trường hợp, chính những người thân quyến của họ đã có lúc nhìn thấy 
		thình lình những hình ảnh lạ lùng về những sự việc xảy ra ở cách rất xa, 
		hoặc sẽ xảy ra trong nhiều tháng hay nhiều năm về sau, với đầy đủ chi 
		tiết. 
		Nói về trường hợp ông Swedenborg thì năng khiếu thần nhãn của ông từ đó 
		trở nên một thứ giác quan mạnh mẽ phi thường và liên tục. Nhưng trong 
		phần nhiều những trường hợp khác, năng khiếu đó dường như chỉ biểu lộ 
		trong một lúc nhất định khi đương sự tạm thời rơi vào một trạng thái 
		xuất thần. 
		Người Tây phương thường có khuynh hướng đón nhận những sự việc kể trên 
		với một thái độ hoài nghi và thậm chí với ít nhiều cử chỉ khinh thường. 
		Tuy nhiên, nay đã đến lúc mà người ta không thể nhìn vào những hiện 
		tượng đó một cách khinh rẻ như thế được nữa. Đối với những người có một 
		tinh thần cởi mở, sẵn sàng tìm hiểu những hiện tượng lạ lùng, đối với 
		những người thông hiểu các trào lưu khoa học và những nhu cầu của thế 
		hệ, thì bất cứ sự việc gì có liên hệ đến những khả năng lạ lùng huyền bí 
		của con người đều có tánh cách lý thú và có một tầm quan trọng nhất 
		định. 
		Trong số những nhà thông thái có tầm kiến thức rộng rãi và thừa nhận 
		rằng những hiện tượng thần bí, siêu nhiên đáng được nghiên cứu bằng 
		phương pháp khoa học, cũng như đã ra công sưu tầm về những hiện tượng 
		đó, có bác sĩ J. B. Rhine,
[6] giáo sư trường Đại 
		Học Duke. Từ năm 1930, tiến sĩ Rhine và những người cộng sự đã nghiên 
		cứu sâu về những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu thần nhãn 
		trong con người. 
		Bằng những cuộc thí nghiệm được kiểm soát chặt chẽ và tuân theo một 
		phương pháp khoa học đặc biệt, tiến sĩ Rhine đã khám phá được một điều 
		là trong phòng thí nghiệm, có nhiều người đã biểu lộ những khả năng cảm 
		xúc bằng giác quan một cách phi thường. Người ta có thể tìm thấy những 
		chi tiết về phương pháp thí nghiệm và những kết quả sưu tầm của tiến sĩ 
		Rhine trong quyển sách nhan đề “The Reach of the Mind” (Tầm hoạt động 
		của trí não” do chính ông xuất bản năm 1947 tại Hoa Kỳ. 
		Những nhà sưu tầm khác như Warcollier ở Pháp, Kotik ở Nga và Tichner ở 
		Đức, với những phương pháp thí nghiệm tương tự, cũng đã đi đến những kết 
		luận giống như của tiến sĩ J. B. Rhine. 
		Những bằng chứng khoa học hiển nhiên đã giải tỏa mọi điều nghi ngờ về 
		tính chất có thật của những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu 
		thần nhãn của con người. Tuy thế, cho đến nay khoa học chỉ mới chứng 
		minh được rằng hiện tượng thần nhãn là một điều có thật, còn việc nó 
		hoạt động ra sao và phát sinh từ những yếu tố nào thì người ta hoàn toàn 
		không biết gì cả. Vì thế, người ta vẫn chưa thể vận dụng được năng khiếu 
		đó trên địa hạt thực tế. 
		Thử tưởng tượng, nếu con người có thể tạo ra được cái năng khiếu phi 
		thường đó, thì nó sẽ giúp ta nhìn thấy được những gì xảy ra trong không 
		gian mà không cần sử dụng đến cặp mắt thường. Khi đó, con người sẽ có 
		được một phương thức mới cực kỳ hiệu quả để thu hoạch những điều hiểu 
		biết về vũ trụ. 
		Trải qua nhiều thế kỷ, con người đã làm được nhiều công trình lớn lao. 
		Sự khôn ngoan khéo léo đã giúp ta chinh phục một phần nào không gian và 
		tác động rất nhiều vào thế giới vật chất. Nhưng dù có được sự khôn ngoan 
		khéo léo đó, xét cho cùng thì chúng ta vẫn là một sinh vật yếu đuối và 
		bất toàn. Mặc dầu có được những thành công nhất định trên địa hạt vật 
		chất, con người vẫn còn phải bất lực trên rất nhiều lãnh vực. Mặc dầu đã 
		thu hoạch được những kết quả nhất định trên các lãnh vực nghệ thuật, văn 
		hóa và khoa học, con người vẫn chưa tìm ra ý nghĩa và mục đích của sự 
		đau khổ mà mỗi người đều phải chịu đựng từ khi sinh ra cho đến lúc từ 
		giã cõi đời. 
		Trong thời gian qua, con người đã tìm ra những bí mật về năng lượng 
		nguyên tử, điều đó là một bước đột phá trong việc kiểm soát thế giới vật 
		chất. Nhưng có lẽ phải nhờ vào chính những sự khám phá gần đây về khả 
		năng cảm xúc bằng giác quan siêu đẳng của con người và những mối liên 
		quan lạ kỳ giữa ý thức và tiềm thức, con người mới có thể tiến sâu hơn 
		nữa vào lãnh vực nội tâm của chính mình. 
		Sau nhiều thế kỷ dọ dẫm tìm tòi, có lẽ sau cùng người ta sẽ tìm ra những 
		câu giải đáp thỏa đáng cho những điều bí ẩn quan trọng của đời người, 
		chẳng hạn như những lý do vì sao con người sinh ra ở thế gian và mục 
		đích cùng ý nghĩa của sự đau khổ mà con người phải chịu đựng là gì.