Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery

Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Không có ai là vô dụng trong thế giới này khi làm nhẹ bớt đi gánh nặng của người khác. (No one is useless in this world who lightens the burdens of another. )Charles Dickens
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Điều người khác nghĩ về bạn là bất ổn của họ, đừng nhận lấy về mình. (The opinion which other people have of you is their problem, not yours. )Elisabeth Kubler-Ross
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Cách tốt nhất để tìm thấy chính mình là quên mình để phụng sự người khác. (The best way to find yourself is to lose yourself in the service of others. )Mahatma Gandhi
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Hãy nhớ rằng hạnh phúc nhất không phải là những người có được nhiều hơn, mà chính là những người cho đi nhiều hơn. (Remember that the happiest people are not those getting more, but those giving more.)H. Jackson Brown, Jr.

Trang chủ »» Danh mục »» »» Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 »» 10. Giải thích phẩm Pháp Sư »»

Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3
»» 10. Giải thích phẩm Pháp Sư

(Lượt xem: 20)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Pháp Hoa Văn Cú - Tập 3 - 10. Giải thích phẩm Pháp Sư

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

KINH VĂN

Phẩm Pháp sư, thứ mười

Giải thích tên phẩm

Trong phẩm này nói có 5 loại pháp sư. Thứ nhất là [pháp sư] thọ trì kinh; thứ hai là đọc kinh; thứ ba là tụng kinh; thứ tư là thuyết giảng kinh và thứ năm là sao chép kinh.

Trong luận Đại Trí độ nêu rõ về 6 loại pháp sư. Thứ nhất, do sức mạnh niềm tin nên thọ nhận; thứ hai, do sức nhớ nghĩ cho nên trì giữ; thứ ba, xem kinh văn là đọc; thứ tư, [xem rồi] không quên là tụng; thứ năm, tuyên giải rộng truyền là thuyết giảng; thứ sáu, kinh văn của bậc Thánh khó hiểu nên cần giải thích.

Sáu loại pháp sư, nay trong kinh này gộp các loại thọ trì làm thứ nhất; gộp thuyết giảng giải thích làm thứ hai, chia đọc tụng thành thứ ba và thứ tư, cộng với sao chép là thứ năm.

Nếu luận chi tiết thì có 4 hạng pháp sư là tự mình tu hành, 1 hạng là giáo hóa người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn phân chia [những người thọ trì kinh điển Đại thừa] có 9 phẩm vị.[1] Trong đó 4 phẩm vị đầu tiên “không thể vì người khác phân biệt giảng rộng”[2] nên là ở cương vị đệ tử, 5 phẩm vị sau đó có thể giảng giải cho người khác nên là cương vị bậc thầy.

Nếu luận chung thì tự mình noi theo 5 pháp [thọ trì, đọc, tụng, thuyết giảng và sao chép kinh này], tức là hạng pháp sư tự thực hành; nếu dạy cho người khác noi theo 5 pháp ấy tức là hạng pháp sư giáo hóa người khác. Tự mình noi theo nên gọi chung là đệ tử, giáo hóa người khác nên gọi chung là pháp sư. Nay theo nghĩa chung đó nên gọi tên là phẩm Pháp sư.

Nếu theo thuyết giảm bớt thì 5 hạng giảm còn lại 4, tức là [4 hạng pháp sư tu tập] theo 4 hạnh an vui như kinh văn phần sau sẽ nói.[3] Hoặc nếu giảm 4 hạng còn 3 thì [hạng pháp sư] thụ trì [kinh điển] là [tu tập] ý nghiệp, hạng đọc, tụng, giảng thuyết [kinh điển] là [tu tập] khẩu nghiệp, hạng sao chép [kinh điển] là [tu tập] thân nghiệp.

Nếu luận chi tiết thì [hạng pháp sư tu tập] khẩu nghiệp là giáo hóa người khác; [hạng pháp sư tu tập] thân nghiệp và ý nghiệp là tự mình thực hành.

Nếu luận chung thì tự mình [tu tập] ước thúc được 3 nghiệp theo đúng pháp tức là hạng pháp sư tự thực hành; dạy bảo chỉ bày [cho người khác tu tập] 3 nghiệp tức là hạng pháp sư giáo hóa người khác, cho nên gọi là phẩm Pháp sư.

Lại cũng gọi đây là 3 cửa [vào đạo]. Dùng sự thực hành 5 pháp [thọ trì, đọc, tụng, thuyết giảng và sao chép kinh] này để tự huân tu, tức là cửa phước đức; giảng giải truyền rộng 5 pháp này làm lợi ích cho nhiều người, tức là cửa hóa tha; [nhờ thực hành 5 pháp này mà] việc tự tu tập hay làm lợi ích cho người khác đều thuận theo lời Phật dạy, tức là cửa báo ân.

Nếu luận chi tiết thì tự mình tu tập báo ân gọi là tự thực hành; làm lợi ích cho người khác tức là giáo hóa chúng sanh.

Nếu luận chung thì tự mình tu tập theo khuôn phép hay hướng dẫn người khác tu tập theo khuôn phép đều gọi là pháp sư. Cho nên gọi là phẩm Pháp sư.

Lại nữa, đọc, tụng, sao chép là hành vi biểu lộ ra bên ngoài, tức là “đắp y Như Lai”; thụ trì là tu hành bên trong, tức là “ngồi tòa Như Lai”; thuyết giảng làm lợi ích cho người khác, tức là “vào nhà Như Lai”.

Luận chi tiết thì “nhà Như Lai” tức là làm khuôn mẫu cho người khác noi theo; “y Như Lai” và “tòa Như Lai” là tự làm khuôn mẫu cho chính mình.

Luận theo nghĩa chung thì không phải như vậy. Lòng từ bi che chở khắp chúng sanh, ban ân huệ lợi ích [chúng sanh cũng là] cho mình gọi đó là như “nhà”; ngăn ngừa điều xấu ác của người khác, che lấp xú uế của tự thân mình nên gọi là “y”; tự tâm mình an ổn nơi pháp không thì mới có thể giúp an tâm người khác; an ổn cho mình, an ổn cho người khác nên gọi là “tòa”. Như vậy tức là tự mình noi theo khuôn phép ba pháp [vào nhà Như Lai, đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai], cũng gọi là pháp sư.

Làm lợi ích chúng sanh ắt phải dùng tâm từ bi, nên lấy việc “vào nhà Như Lai” [đại từ bi] là trước nhất. Vượt qua ba cõi[4] phải có nhẫn nhục làm nền tảng, [nên “đắp y Như Lai” nhu hòa nhẫn nhục]. Cứu giúp chúng sanh lấy sự quên mình làm gốc, [nên “ngồi tòa Như Lai” hết thảy pháp không]. Có thể thực hành 3 pháp như vậy thì giáo pháp Đại thừa truyền rộng thông suốt, tức là chỗ để thế gian nương theo, dựa vào, cho nên gọi là pháp sư.

Lại nếu giảm bớt còn 2 [hạng pháp sư] tức là nói hạng tự thực hành và hạng giáo hóa chúng sanh. Thuyết này dễ hiểu, không cần ghi chép ở đây.

Nếu lại giảm còn một [hạng pháp sư], tức là nói công hạnh Như Lai đầy đủ mọi sự thực hành. [Nhà Như Lai với] lòng bi mẫn cứu vớt hết thảy mọi sự khổ đau, tức là nói chung mọi sự khổ não trong 4 đường,[5] 3 cõi, cho đến những nỗi khổ của hàng nhị thừa hoặc Bồ Tát; với lòng từ mang đến hết thảy mọi niềm vui, tức là nói chung những niềm vui trong cõi người, cõi trời, cho đến vui Niết-bàn thường trụ. Y [Như Lai] nhu hòa che lấp mọi sự xú uế, tức là nói chung những xú uế của 4 trụ địa phiền não, của sự không hiểu biết cho đến vô minh. Tòa Như Lai hết thảy các pháp đều không, không tất cả tướng, tức là nói tướng có, tướng không, tướng, tướng chẳng phải có chẳng phải không. Đây là ý nghĩa theo Thông giáo.

Giải thích theo ý nghĩa của Biệt giáo thì [nhà Như Lai] từ bi làm sanh khởi hết thảy mọi điều lành, [y Như Lai] nhu hòa ngăn chặn tất cả các việc ác, [tòa không Như Lai] quét sạch hết thảy các tướng.

Lại nữa, từ bi nhẫn nhục gầy dựng nên tất cả phước đức, tòa [Như Lai các pháp đều] không thành tựu tất cả trí tuệ. Trí tuệ là mắt nhìn, đó là nói 5 loại mắt;[6] phước đức là chân đi, đó là nói là 6 pháp ba-la-mật.

Lại nữa, tâm từ bi [vào nhà Như Lai] vượt thắng hết thảy Thanh văn, Duyên giác; [đắp y Như Lai] nhẫn nhục nhu hòa vượt thắng tất cả phàm phu, ngoại đạo; [ngồi tòa Như Lai”] các pháp đều không vượt thắng tất cả các hàng Bồ Tát tích không, thể không, thiên lệch.[7] Cho nên, kinh Tịnh Danh nói: “Thắng được kẻ oán địch mới là dũng mãnh.”

Lại nữa, [vào nhà Như Lai] từ bi phá trừ ma cõi trời Tha hóa tự tại, [đắp y Như Lai] nhu hòa nhẫn nhục phá trừ ma 5 ấm, [ngồi tòa Như Lai] các pháp đều không phá trừ ma phiền não, ma sự chết.

Đại phẩm Bát-nhã nói: “Giáo hóa tất cả chúng sanh, quán chiếu hết thảy các pháp đều không thì chúng ma không thể dễ dàng [não loạn].” Đại lược là như thế.

Lại nữa, [vào nhà Như Lai] từ bi, [đắp y Như Lai] nhẫn nhục nên có khả năng nêu hỏi, ngồi tòa [Như Lai] tất cả pháp đều không nên có khả năng giải đáp. [Như vậy là] trọn đủ [phước, tuệ] trang nghiêm.

Lại nữa, quán các pháp đều không nên có khả năng nêu hỏi; đủ từ bi nhẫn nhục nên có khả năng giải đáp. Từ bi, nhẫn nhục nên có thể gieo trồng, có thể gầy dựng, có thể giúp đỡ; trí tuệ quán không nên có thể nhổ bật, có thể phá trừ, có thể dẫn dắt.

Lại nữa, [vào nhà Như Lai] từ bi nên không có gì ngăn cách, [đắp y Như Lai] nhu hòa nhẫn nhục nên không có gì chướng ngại, [ngồi tòa Như Lai] các pháp đều không nên không có gì tranh chấp.

[Kinh này] vượt ngoài 3 chân đế[8] nên gọi là ngọn cờ chiến thắng; bao quát hàm chứa, thâu nhiếp khắp cùng cho nên gọi là Đại thừa; là công hạnh của Như Lai nên gọi là Vua Tam-muội.

Trong kinh nói, hết thảy các pháp lành, tâm từ là căn bản; nhẫn nhục là đường tu bậc nhất; vô tướng là tối thượng. Nếu bàn về công hạnh viên mãn thì không thể nói hết. Đại lược là như vậy.

Hỏi: Vì sao dựa vào 3 pháp [vào nhà Như Lai, đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai] để nêu rõ về pháp sư?

Đáp: Theo sự tướng mà nói thì một khi đi đến chỗ luận bàn thuyết giảng, tất nhiên phải vào nhà, chỉnh trang y phục, ngồi yên trên tòa, sau đó mới có thể mở bày thuyết rộng, cho nên dựa vào 3 pháp như vậy.

Lại nữa, nếu hợp cả sự và lý mà nói thì sự mê hoặc nhìn chung không ra ngoài 3 loại. Thứ nhất là do nhận chịu quả khổ đau mà khởi lên nghi hoặc; thứ hai là do nghiệp trói buộc mà khởi lên nghi hoặc; thứ ba là do xét lý mà khởi lên nghi hoặc. Vì thế nên dùng 3 pháp như vậy để chỉ bày dẫn dắt.

Lại nữa, theo lý mà nói thì vì mê muội không thấu hiểu chân đế nên sa đọa vào khổ não, do vậy phải [vào nhà Như Lai] vận dụng đại từ bi; vì mê muội không thấu hiểu tục đế nên chìm đắm trong lẽ không mà thọ nhận niềm vui, do vậy phải [đắp y Như Lai] vận dụng nhu hòa nhẫn nhục; vì mê muội không thấu hiểu trung đế nên che chướng trí tuệ, do vậy phải [ngồi tòa Như Lai] vận dụng các pháp đều không.[9] Đại lược là như thế.

[Về 2 chữ pháp sư thì] “pháp” là quy tắc, cách thức phải làm theo, “sư” là thầy dạy dỗ, giảng giải. Pháp tuy có thể làm theo, nhưng tự nó không thể truyền rộng. Truyền rộng thông suốt được là do con người. [Cho nên] 5 hạng người [thọ trì, đọc, tụng, thuyết giảng và sao chép] giúp truyền rộng thông suốt kinh điển đều được gọi là “sư”.

Nêu ra pháp, vì những ai tự mình tu hành thành tựu đều do lấy diệu pháp làm thầy. Thầy là người tự mình tu hành theo diệu pháp mà được thành tựu, cho nên gọi là pháp sư.

Lại nữa, 5 hạng người [thọ trì, đọc, tụng, thuyết giảng và sao chép kinh điển] đều có thể dùng diệu pháp để dạy dỗ, nêu gương cho người khác, cho nên nêu “pháp” để gọi tên “sư”, gọi là phẩm Pháp sư.

Tự mình tu hành theo pháp, hoặc y theo pháp mà giáo hóa người khác đều gọi là pháp sư. Đây là giải thích tên phẩm theo nhân duyên.

Nói chung có nhiều cách giải thích, phần nhiều đều dựa theo pháp môn Viên giáo để giải thích phẩm này.

Phần trước 3 vòng [thuyết chánh pháp, nhân duyên và thí dụ] là nêu Tích môn gồm chánh thuyết, trình bày nhận hiểu và thụ ký, đến đây đã trọn vẹn. Từ đây về sau gồm 5 phẩm là nêu Tích môn thuộc phần lưu thông.

[Kinh này] không chỉ che chở làm lợi ích cho người đương thời, mà còn muốn thấm nhuần truyền rộng đến đời sau, cho nên mới có 5 phẩm lưu thông. Hai phẩm Pháp sư và Hiện bảo tháp là nêu rõ công đức sâu xa, phước báu lớn lao của việc hoằng truyền kinh điển, cùng lợi ích cực lớn của việc lưu thông kinh này đến với những người chưa được nghe. Phẩm Đề-bà-đạt-đa thì nêu dẫn việc hoằng truyền kinh này được lợi ích cho cả chính mình và người khác để chứng minh công đức rất sâu xa. Phẩm Trì có 80.000 vị Bồ Tát do sức nhẫn nhục được thành tựu, ở nơi cõi này truyền rộng kinh này, còn những vị vừa mới được thụ ký thì ở những cõi khác truyền rộng kinh này. Riêng một phẩm Hạnh An lạc, các nhà cựu giải cho là “lưu thông của phần tiếp dẫn những người thối tâm [Đại thừa]”. Hoặc cứ cho là như vậy, nhưng chưa hẳn đã hoàn toàn trọn nghĩa. Các giai vị sơ tâm ngoại phàm thì vui mừng với phước đức thù thắng vừa đạt được, nhìn thấy hàng Thanh văn sợ hãi, nghe việc Bồ Tát phải nhận chịu chê bai hủy nhục, nhìn lại mình sức lực còn yếu ớt, chẳng làm được gì ích lợi cho bản thân và người khác, liền sanh tâm thối lui. Đức Phật vì hạng thối lui này mà thuyết dạy các hạnh an lạc, y theo đó mà truyền rộng pháp thì không lo gặp nguy hiểm khổ não.

Lại nữa, trong phẩm Pháp sư, đức Thích Tôn tự nói ra công đức, phước báu của việc rộng truyền kinh này, dạy thính chúng phải mến mộ lưu thông;[10] trong phẩm Hiện bảo tháp thì [đức Phật Đa Bảo] vì chứng minh [sự chân thật của] kinh này mà hiện ra, vô số phân thân [của Phật Thích-ca] vì trợ giúp việc mở tháp nên tập hợp đến. Do có sự chứng minh và trợ giúp như vậy nên thính chúng mến mộ [kinh này] mà lưu thông.

Tổng đoạn thứ nhất của phẩm Pháp sư gồm có kinh văn trường hàng và kệ tụng, ngợi khen xưng tán 5 hạng pháp sư là những người có khả năng gìn giữ lưu truyền giáo pháp.

Tổng đoạn thứ hai cũng gồm có kinh văn trường hàng và kệ tụng, ngợi khen xưng tán giáo pháp được gìn giữ lưu truyền, đồng thời cũng chỉ bày nguyên tắc, phương thức lưu thông kinh này.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nhân nơi Bồ Tát Dược Vương để nói với 80.000 vị Bồ Tát:[11] “Này Dược Vương! Ông hãy nhìn xem tất cả đại chúng nơi đây, có vô số chư thiên, long vương, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân, các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, những người cầu quả vị Thanh văn, cầu quả vị Phật Bích-chi, hoặc cầu Phật đạo, hết thảy những chúng sanh như thế đều đang ở trước Phật, được nghe một bài kệ hay một câu kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, cho đến chỉ khởi lên một ý niệm hoan hỷ vui theo, ta đều thụ ký cho trong tương lai sẽ được thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Tổng đoạn thứ nhất có 2 đoạn. Đoạn thứ nhất nêu việc đệ tử thọ nhận kinh này được nhiều công đức, phước báu sâu dày. Đoạn thứ hai nêu việc các bậc pháp sư lưu truyền kinh này được nhiều công đức, phước báu sâu dày.

Đoạn thứ nhất nêu việc đệ tử lại có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nói về các đệ tử khi Phật còn tại thế. Tiểu đoạn thứ hai nói về các đệ tử sau khi Phật diệt độ.

Trong đoạn thứ nhất nói “nhân nơi Bồ Tát Dược Vương để nói với 80.000 vị Bồ Tát”. “Nhân nơi” là ý nói dựa vào đó để giao phó. Đức Phật muốn đem diệu pháp giao phó, dựa vào Bồ Tát Dược Vương, khiến cho nhận lãnh. “Nói với 80.000 vị Bồ Tát”, là nói tất cả đều tham gia lưu thông kinh điển. Phật chỉ người trong đại chúng mà nói “Ông hãy nhìn xem tất cả đại chúng nơi đây”, chính là chỉ đến những người thọ trì kinh này được phước báu.

Tiểu đoạn thứ nhất nói về các đệ tử khi Phật còn tại thế lại có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất là từ câu “Này Dược Vương” trở đi, nêu loại ra các loài trong thính chúng [chưa được thụ ký].

Phân đoạn thứ hai từ câu “đều đang ở trước Phật” trở đi, nói về các duyên được thụ ký. Nếu là đang ở trước Phật[12] thì có chúng đương cơ khéo ngộ đạo mầu, chính là 2.500 vị từng nghe nhiều kinh điển và thấu hiểu sâu xa, hiện đang có mặt trong pháp hội, đã được Phật thụ ký chung cũng như thụ ký riêng, nhưng nay nói đến những thính chúng bị nêu loại ra [chưa được thụ ký][13] là 8 bộ chúng[14] hoặc là [hàng đệ tử trong] bốn chúng ba thừa đang vướng víu ngồi trong hội Pháp hoa.[15]

“Đều đang ở trước Phật” là nêu rõ thời điểm cơ duyên, được gặp Phật ngay nơi pháp tòa. “Một bài kệ hay một câu kinh”, là nói nghe pháp ở mức ít nhất; “cho đến chỉ một ý niệm”, là nói thời gian ngắn ngủi nhất. “Đều thụ ký cho trong tương lai sẽ được thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, là nêu rõ ý nghĩa cho dù nghe pháp rất ít trong thời gian rất ngắn ngủi, hoặc có công đức hoan hỷ vui theo, cuối cùng cũng đều đạt được quả Phật quả, huống chi là [những ai] được nghe đầy đủ [trọn bộ kinh] và thọ trì đến suốt đời, hoặc thuộc vào 5 hạng pháp sư lưu thông kinh này, tức là cúng dường với 3 nghiệp [thân, khẩu, ý].[16] Đại lược là như vậy.

Nói “nghe một bài kệ hay một câu kinh”, tức là nói [những người] nghe pháp rất ít, nhận hiểu rất cạn cợt mà nay cũng đều được thụ ký cho [thành Phật]. Nghe pháp ít như vậy mà còn được thụ ký, huống chi là những người nghe nhiều, hiểu sâu. Dùng mức độ ít mà suy cho đến nhiều, phổ cập rộng khắp như thế. Trong vòng thuyết nhân duyên này đã [phổ cập rộng khắp] như vậy thì trong các vòng thuyết chánh pháp ở trước và thuyết thí dụ ở giữa cũng đều như thế,[17] có thể dựa theo ý kinh để hiểu, không cần phải nói rõ.

Theo kinh Kiến thật Tam-muội[18] thì đức Phật thụ ký riêng cho các vị Tứ thiên vương [khi thành Phật có] cùng một danh hiệu là Hỏa Trì, chư thiên cõi trời Tam thập tam[19] [khi thành Phật có] cùng một danh hiệu là Nhân-đà-la Tràng vương, [các vị Thiên vương] Đế thích[20] [khi thành Phật có] cùng một danh hiệu là Vô Trước, chư thiên cõi trời Dạ-ma[21] [khi thành Phật có] cùng một danh hiệu là Tịnh Trí, chư thiên cõi trời Đâu-suất [khi thành Phật có] cùng một danh hiệu là Thích Pháp Vương. Hai cõi trời trên nữa[22] cũng được thụ ký chung, không nêu rõ danh hiệu riêng. Phạm thiên [được thụ ký khi thành Phật sẽ có] danh hiệu là Đại Trí Lực. Đây là nhóm những vị nghe nhiều, hiểu sâu. Nay lại cũng thụ ký cho những vị nghe ít, hiểu cạn. Các nhà cựu giải cho rằng Phật Bích-chi và Bồ Tát không được thụ ký. Kinh văn ở đây nói ba thừa đều được thụ ký, không nên nghi ngờ.

“Một bài kệ hay một câu kinh”, Tăng nhất tập[23] nói rằng: “Tùy ý chọn ra trong kinh một bài kệ thiết yếu, như nhóm các pháp tứ đế chẳng hạn.” Luận Thập trụ Tỳ-bà-sa nói rằng: “Khinh ghét gọi là chán bỏ, không mong cầu gọi là vô dục, tâm không cấu nhiễm gọi là giải thoát, buông bỏ gánh vác[24] gọi là Niết-bàn.” Chán ghét tập (nguyên nhân của khổ), không mong cầu nơi khổ, không cấu nhiễm là đạo, buông bỏ gánh vác là diệt. Lại nói rằng, Phật bảo tỳ-kheo Mãn Túc[25] “Ta có 4 câu”, đó là nói 4 chân đế, 4 niệm xứ v.v.

Giải thích theo quán tâm thì [nói một câu kinh là] dùng hết thảy mọi câu kinh, [nói một bài kệ là] dùng hết thảy mọi bài kệ; không câu không kệ mà chẳng phải một... Đại lược là như thế.

Nếu chọn lấy trong phần tích môn một câu thiết yếu “khai, thị, ngộ, nhập” thì đó là câu “Ngồi trên cỗ xe quý, dạo chơi khắp bốn phương”, hoặc 4 hạnh an lạc khuyên phát khởi 4 ý v.v.

“Khởi lên một ý niệm hoan hỷ vui theo” là nói tự mình chưa thực hành được, chỉ hoan hỷ vui theo giáo pháp và người [thực hành pháp] mà công đức, phước báo còn nhiều, huống chi là tự mình thực hiện được.

Tâm hoan hỷ vui theo có 2 loại. Nếu nghe được nghĩa khai thị trừ bỏ quyền thừa, hiển bày chân thật, liền ngay trong một niệm khởi tâm thấu hiểu sâu xa lẽ thật vốn chẳng phải quyền chẳng phải thật, tin chắc vào tri kiến Phật, lại có thể nhận hiểu cả quyền và thật sự lý viên dung, tuy vẫn còn đủ tánh phiền não nhưng có thể rõ biết tạng bí mật của Như Lai. Đây tức là luận về tùy hỷ tuần tự theo thời gian.

Lại nếu như được nghe ý nghĩa khai thị trừ bỏ quyền thừa, hiển bày chân thật, tức thời liền từ nơi một tâm mà rộng hiểu được tất cả tâm cùng hết thảy các pháp đều là Phật pháp, không có gì chướng ngại, nếu cần phân biệt thì biện thuyết không cùng tận, trong một tháng, 4 tháng cho đến suốt năm xoay chuyển giảng giải cũng không hết ý. Tuy còn chưa được đạt đến chân thật nhưng tâm tùy hỷ mà có thể hiểu được như thế. Pháp đã như thế, người lại cũng như thế. Đây tức là luận về tùy hỷ tức thời theo không gian.[26] Lại ngay nơi không gian đó chính là thời gian, ngay nơi thời gian cũng chính là không gian. Cho nên kinh Đại Bát Niết-bàn nói “Nguyện thà nghe ít hiểu được nhiều ý nghĩa; [không muốn được nghe nhiều mà không hiểu rốt ráo ý nghĩa]”,[27] chính là ý này. Phần sau sẽ nói rõ.

KINH VĂN

Rồi Đức Phật bảo ngài Dược Vương: “Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có ai được nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thậm chí chỉ một bài kệ, một câu kinh, hoặc khởi lên một ý niệm hoan hỷ vui theo, ta cũng đều thụ ký cho được thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“Nếu như lại có người thọ trì, tụng, đọc, giảng thuyết, sao chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dù chỉ một bài kệ, đối với quyển kinh này cung kính như Phật, dùng đủ mọi cách cúng dường như hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương thoa, hương đốt, lọng che bằng lụa, cờ phướn, y phục, âm nhạc… hoặc thậm chí chỉ chắp tay cung kính. Này Dược Vương! Ông nên biết rằng người như vậy đã từng cúng dường mười muôn ức Phật, ở nơi đạo trường chư Phật thành tựu tâm nguyện lớn, vì thương xót chúng sanh nên mới sanh vào cõi thế gian này.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật bảo ngài Dược Vương: Lại nữa sau khi Như Lai diệt độ…” trở đi nói về các đệ tử sau khi Phật diệt độ, có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu ra các loại đệ tử, đây chỉ lược nói trong cõi người, cứ theo như đoạn trước thì có thể rõ biết [về các loài chúng sanh khác]. Phân đoạn thứ hai nói “Ta cũng đều thụ ký cho” là nêu công đức, phước báo, cũng giải thích giống như phần trước.

Đoạn thứ hai từ câu “Nếu như lại có người…” trở đi, nói về các vị pháp sư lưu thông kinh, có 2 phần trường hàng và kệ tụng.

Phần trường hàng có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nêu chi tiết, tiểu đoạn thứ hai nói tổng quát. Phần chi tiết nói về pháp sư có bậc cao và bậc thấp, nói về thời gian có hiện tại và vị lai; phần nói tổng quát thì không bàn đến thấp hay cao, hiện tại hay vị lai, chỉ nói chung là chướng nghịch [kinh này] thì tạo tội, tin thuận [lưu hành] thì được phước.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu chi tiết lại có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói về đời hiện tại và phân đoạn thứ hai nói về đời sau.

Phân đoạn thứ nhất nói về đời hiện tại lại có 2 ý, trước tiên nói về các vị pháp sư bậc thấp, sau đó nói về các vị pháp sư bậc cao.

Ý thứ nhất nói về các vị pháp sư bậc thấp lại có 2 tiểu ý, trước tiên nêu rõ tướng trạng của pháp sư, sau đó nói về công đức, phước báo.

Tiểu ý thứ nhất nói về tướng trạng của vị pháp sư tức là nêu rõ 5 hàng pháp sư,[28] 10 loại cúng dường.[29]

Tiểu ý thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Ông nên biết rằng người như vậy đã từng cúng dường…” là nêu rõ công đức, phước báo [của vị pháp sư] bậc thấp.

“Đã từng cúng dường” là nói tạo nhân đời trước sâu xa, vì thương xót chúng sanh nên mới sanh về cõi người ở thế gian này, nêu rõ công đức lớn lao trong hiện tại.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Nếu như có người hỏi: ‘Những chúng sanh nào trong tương lai sẽ được thành Phật?’, ông nên chỉ cho biết rằng những người như vừa nói trên trong tương lai chắc chắn sẽ được thành Phật. Vì sao vậy? Nếu như có thiện nam hoặc thiện nữ, đối với kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, dù chỉ một câu kinh, biết thọ trì, tụng đọc, giảng thuyết, sao chép, dùng mọi cách cúng dường như hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương thoa, hương đốt, lọng che bằng lụa, cờ phướn, y phục, âm nhạc… hoặc chắp tay cung kính, thì đối với người này hết thảy thế gian đều nên chiêm ngưỡng kính phụng, nên dùng cách thức cúng dường Như Lai mà cúng dường cho người này.

“Nên biết rằng người như vậy đã là Đại Bồ Tát, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì thương xót chúng sanh nên phát nguyện sanh vào thế gian này để phân biệt giảng rộng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, huống chi là có thể đem hết khả năng mà thọ trì, dùng đủ mọi cách cúng dường kinh này?

“Này Dược Vương! Nên biết rằng đó là người đã tự xả bỏ nghiệp báo thanh tịnh, nên sau khi ta đã diệt độ rồi, vì thương xót chúng sanh mà sanh vào cõi đời xấu ác để giảng rộng kinh này.

Từ câu “Này Dược Vương! Nếu có người hỏi…” trở đi là nêu rõ phước báo trong tương lai sâu dày [của vị pháp sư].

Ý thứ hai từ câu “huống chi là có thể đem hết khả năng mà thọ trì” là nói về những vị pháp sư bậc cao, lại có 2 tiểu ý. Tiểu ý thứ nhất nói “huống chi…” là nêu tướng trạng của vị pháp sư. Tiểu ý thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Nên biết rằng đó là người đã tự xả bỏ nghiệp báo thanh tịnh”, nêu rõ công đức và phước báo của vị pháp sư bậc cao.

KINH VĂN

“Nếu như có thiện nam hoặc thiện nữ, sau khi ta diệt độ rồi có thể riêng vì một người mà giảng thuyết kinh Pháp hoa, dù chỉ một câu, nên biết rằng người ấy đã là sứ giả của Như Lai, do đức Như Lai sai khiến đến, thi hành việc của Như Lai, huống chi là ở giữa đại chúng rộng vì người khác thuyết giảng?

Phân đoạn thứ hai từ câu “Nếu như có thiện nam hoặc thiện nữ, sau khi ta diệt độ rồi có thể riêng vì một người…” trở đi, nêu rõ sau khi Phật diệt độ thì pháp sư [lưu thông kinh Pháp hoa] cũng có 2 ý nói về 2 bậc thấp và cao. Trong bậc thấp lại có 2 tiểu ý.

Ý thứ nhất nói về pháp sư thuộc bậc thấp, tức là chỉ có thể tuần tự nhận hiểu được ý kinh, có trí tuệ nhưng không học hỏi nhiều,[30] chỉ có thể giảng nói với một người, chưa đủ khả năng thuyết giảng trước đại chúng.

ªCho nên, [tiểu ý thứ nhất nói] hạng pháp sư bậc thấp này chỉ riêng vì một người giảng giải một câu kinh. Tuy có thể hiểu được một câu, nhưng vì không có sự học nhiều nghe rộng các ý nghĩa khác nhau, nên không thể thuyết giảng giữa nơi đông người. Đối với hết thảy những câu hỏi khó đều không [thể trả lời] thông suốt, do vậy khiến cho giáo lý chân chánh không được truyền rộng. Như trong Pháp hoa luận thích có giải thích trí tuệ không học hỏi nhiều là giống như cơn mưa nhỏ không có tiếng sấm. Nếu muốn trình bày một câu [kinh Pháp hoa] này thì chỉ có thể nói riêng [với một người] mà thôi.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Nên biết rằng người ấy đã là sứ giả của Như Lai”, tức là nêu rõ công đức và phước báo của vị pháp sư [bậc thấp] này. Kinh này là do trí tuệ “như” nói ra, là nói về lý “như”. Ngày nay có người tu hành đem giáo pháp “như” này tuyên giảng đúng lý “như”, nên tức là “do đức Như Lai sai khiến đến”.

“Thi hành việc của Như Lai”, đó là nói trí “như” soi chiếu lý “như” là việc. Nay người tu hành y theo giáo pháp, thực hành đúng như lý, tức là thi hành việc của Như Lai.

Trí nhất như, lý nhất như, giáo hóa chúng sanh là việc. Nay người tu hành có tâm đại bi, đem lý chân như ở trong kinh này vì chúng sanh thuyết giảng, khiến cho được lợi ích, nên cũng gọi là “thi hành việc của Như Lai”.

Giải thích theo quán tâm thì nói “sứ giả của Như Lai” vì dùng trí tâm quán cảnh thì cảnh ấy tức là chân như, cảnh hiện ra thì trí phát khởi, trí là do “như” sai khiến.

“Do đức Như Lai sai khiến đến” là nói trí quán chiếu từ trong “như” mà đến.

“Thi hành việc của Như Lai” là nói trải qua hết thảy các pháp, không một pháp nào không phải chân như; chân như tức là Phật sự.

Ý thứ hai từ câu “Huống chi là ở giữa đại chúng” trở đi là nói về hàng pháp sư bậc cao, lược bớt không so sánh công đức phước báo nhưng ý này có thể ngầm hiểu được.

KINH VĂN

Này Dược Vương! Nếu có người xấu ác, dùng tâm bất thiện trong suốt một kiếp ở trước đức Phật, thường hủy báng nhục mạ đức Phật, tội lỗi đó vẫn xem là nhẹ nếu so với người dùng một câu xấu ác chế giễu chê bai người tại gia hay xuất gia tụng đọc kinh Pháp hoa, vì tội lỗi này rất nặng.

Này Dược Vương! Như có người tụng đọc kinh Pháp hoa, nên biết rằng người ấy đang dùng sự trang nghiêm của Như Lai để tự trang nghiêm mình, được Như Lai gánh vác trên vai. Người ấy đi đến nơi nào, [mọi người] nên hướng theo mà lễ bái, một lòng chắp tay cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xưng tán, dùng các loại hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương thoa, hương đốt, lọng che bằng lụa, cờ phướn, y phục, các món ăn ngon, các loại âm nhạc, các món cúng dường thượng hạng trong cõi người để cúng dường người ấy, nên dùng châu báu cõi trời rải quanh để tỏ lòng tôn kính, nên gom góp các báu vật trên cõi trời mà phụng hiến cho người ấy. Vì sao vậy? Vì người ấy hoan hỷ thuyết pháp, nên người được nghe chỉ trong thoáng chốc liền đạt được rốt ráo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Nếu có người xấu ác…” trở đi, nêu tổng quát về 5 hàng pháp sư, những ai chướng nghịch là tạo tội, tin thuận thì được phước báu. [Tiểu đoạn này có 2 phân đoạn.]

Phân đoạn thứ nhất nói về tội phước, không bàn đến việc ruộng phước được gieo trồng đó là tốt hay xấu,[31] chỉ nói tùy theo [người tu hành] mới phát tâm hay phát tâm đã lâu mà phân biệt nặng nhẹ.

Người mới phát tâm tu học vốn đã còn đầy dẫy phiền não, nếu [ai chế giễu chê bai] tạo thêm chướng ngại ắt [sẽ làm cho họ] từ bỏ việc tu học, cho nên phải chịu tội rất nặng. Chư Phật có tâm bình đẳng, đối với việc xấu ác [hủy báng] không hề liên can bức bách, há có thể gây chướng ngại [cho Phật] được sao? Cho nên nói rằng [hủy báng Phật] chịu tội nhẹ hơn.

Đối với việc cúng dường cũng vậy. Người mới phát tâm tu học mong đợi [sự cúng dường], nếu được cúng dường thì việc tu học sẽ thành tựu, cho nên người cúng dường được phước lớn lao. Chư Phật vốn không mong đợi cúng dường, mọi thứ đều đã tự đầy đủ, tuy dâng hiến cúng dường cũng chẳng thêm được gì cho Phật, cho nên nói rằng phước báo kém hơn.

Cũng giống như con vua [lưu lạc] gặp lúc khó khăn, nếu ai cung cấp phụng hiến những thứ cần dùng thì công lao thật lớn; nếu [lúc ấy lại hủy báng] làm nhục con vua thì phải chịu tội không nhẹ; cho nên nói rằng tội phước đều nặng.

Còn đối với đức vua, nếu có dâng lên thức ăn, y phục thì tất nhiên cũng chỉ là chuyện rất nhỏ nhặt; nếu người muốn xâm hại nhục mạ đức vua cũng chẳng thể làm cho vua tổn hại, cho nên nói rằng tội phước đều nhẹ.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Như có người tụng đọc…” trở đi, nêu việc đọc tụng kinh này như [được dùng sự] trang nghiêm của Phật, tức là tin thuận theo kinh này thì được phước báu. Chư Phật dùng định và tuệ để trang nghiêm, người [đọc tụng kinh] này có thể tu tập định và tuệ, cho nên nói như vậy.

“Được Như Lai gánh vác trên vai.” Chịu sức nặng trên lưng là gánh, đặt trên vai là vác.[32] Tu tập thể của pháp thân chẳng phải quyền chẳng phải thật, tức là được Như Lai gánh; có thể vận dụng hai trí quyền, thật, tức là được Như Lai vác.

“Người ấy đi đến nơi nào, nên hướng theo mà lễ bái.” Phần trước nêu việc [người thọ trì kinh này] lấy pháp làm thầy, ở đây nêu việc có thể kham nhận làm thầy chúng sanh. Những người [thọ trì kinh] này có tôn chỉ hướng về, ắt sẽ tương ưng với thật tướng, nên đều đáng để cung kính thuận theo. Thuận theo tức là “hướng theo”, cung kính tức là “lễ bái”. Do cung kính mà thuận theo, cho đến khởi lên những sự cúng dường... Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Nếu muốn trụ Phật đạo,
Thành tựu trí tự nhiên,
Nên siêng năng cúng dường,
Người thọ trì Pháp hoa.

Nếu người muốn nhanh chóng,
Được Nhất thiết chủng trí,
Nên thọ trì kinh này,
Cúng dường người trì kinh.

Phần kệ tụng có 16 khổ kệ, chia làm 3 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, không tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng mà đặc biệt khen ngợi khuyến khích việc tự thực hành tu tập kinh này làm lợi lạc chúng sanh.

Tiểu đoạn thứ hai gồm 13 khổ kệ, tụng lại nội dung phần kinh văn trường hàng ở trước nói về các vị pháp sư lưu truyền kinh này, gồm cả chi tiết cũng như khái quát.

Tiểu đoạn thứ ba gồm 1 khổ kệ xưng tán kinh này.

KINH VĂN

Nếu ai thường thọ trì,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
Đó là sứ giả Phật,
Thường thương xót chúng sanh.

Người thường xuyên thọ trì,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
Từ bỏ cõi thanh tịnh,
Thương chúng sanh, đến đây.

Nên biết người như vậy,
Tự tại, tùy ý sanh.
Có thể nơi cõi ác,
Rộng thuyết pháp Vô thượng.

Nên dùng hương, hoa trời,
Cùng y phục, châu báu,
Kho bảo vật cõi trời,
Cúng dường người giảng kinh.

Sau Phật diệt, đời ác
Ai thường trì kinh này,
Nên chắp tay kính lễ,
Như cúng dường Thế Tôn.

Dùng món ngon thượng hạng,
Cùng đủ loại y phục,
Cúng dường Phật tử ấy,
Cầu nghe kinh chốc lát.

Người nào trong đời sau,
Có thể trì kinh này,
Là Phật sai khiến đến,
Thi hành việc Như Lai.

Tiểu đoạn thứ hai tụng chi tiết và khái quát về các vị pháp sư lại có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất gồm 7 khổ kệ tụng chi tiết. Phân đoạn thứ hai gồm 6 khổ kệ tụng khái quát.

Phần tụng chi tiết trong kinh văn trường hàng ở trước chia ra nói về pháp sư hiện tại và vị lai. Trong kệ tụng này cũng có 2 ý, tụng về pháp sư hiện tại và pháp sư vị lai. Ý thứ nhất có 4 khổ kệ tụng về pháp sư hiện tại. Ý thứ hai có 3 khổ kệ tụng về pháp sư vị lai.

Trong kinh văn trường hàng ở trước, cả 2 phần nói về pháp sư hiện tại và pháp sư vị lai đều có chia ra nói về 2 bậc pháp sư cao và thấp. Nay trong phần kệ tụng này, ý thứ nhất [cũng gồm đủ 2 tiểu ý].

Tiểu ý thứ nhất từ câu “Nếu ai thường thọ trì” trở đi, gồm 1 khổ kệ, tụng về hàng pháp sư bậc thấp [trong hiện tại, có 2 điều]. £Điều thứ nhất gồm nửa khổ kệ trước nêu tụng về pháp sư. £Điều thứ hai từ câu “Đó là sứ giả Phật” trở đi nửa khổ kệ sau nói về công đức phước báo.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Người thường xuyên thọ trì” trở đi gồm 3 khổ kệ, tụng về hàng pháp sư bậc cao trong hiện tại, [có 2 điều]. £Điều thứ nhất gồm nửa khổ kệ đầu nêu tụng về vị pháp sư bậc cao. £Điều thứ hai từ câu “Từ bỏ cõi thanh tịnh” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng về công đức, phước báo.

Ý thứ hai từ câu “Sau Phật diệt, đời ác” trở đi gồm 3 khổ kệ, tụng về hàng pháp sư vị lai. [Phần này có 2 tiểu ý].

Tiểu ý thứ nhất gồm 2 khổ kệ đầu tụng vượt sang[33] nghĩa nêu hàng pháp sư bậc cao, có 2 điều. £Điều thứ nhất từ câu “Sau Phật diệt, đời ác…” trở đi, gồm nửa khổ kệ tụng nêu về hàng pháp sư [bậc cao]. £Điều thứ hai, trong kinh văn trường hàng thiếu phần nói về công đức, phước báo, nay kệ tụng có đủ, từ câu “Nên chắp tay kính lễ” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ là nói về công đức, phước báo.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Người nào trong đời sau” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng ngược[34] về nghĩa nêu hàng pháp sư bậc thấp, [chia ra 2 điều]. £ Điều thứ nhất gồm nửa khổ kệ đầu tụng nêu về pháp sư. £ Điều thứ hai từ câu “Là Phật sai khiến đến” trở đi gồm nửa khổ kệ tụng về công đức, phước báo.

KINH VĂN

Nếu người trong suốt kiếp,
Thường ôm lòng bất thiện,
Hung hăng mắng chửi Phật,[35]
Tạo tội nặng vô lượng;

Nhưng với người tụng đọc,
Giữ gìn kinh Pháp hoa,
Mà xúc phạm chốc lát,
Tạo tội còn nặng hơn.

Nếu người cầu Phật đạo,
Nên suốt trong một kiếp,
Chắp tay đứng trước Phật,
Đọc vô số kệ khen.

Người ấy xưng tán Phật,
Được công đức vô lượng;
Nhưng khen người trì kinh,
Công đức còn lớn hơn.

Trong tám mươi ức kiếp,
Dùng thanh, sắc tốt đẹp,
Cùng hương, vị, xúc chạm,
Cúng dường người trì kinh.

Cúng dường như vậy rồi,
Được nghe kinh chốc lát,
Ắt sẽ tự mừng vui:
“Ta được lợi ích lớn!”

Dược Vương! Nay nói rõ,
Ta đã thuyết nhiều kinh,
Nhưng trong những kinh ấy,
Pháp hoa là bậc nhất.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Nếu người trong suốt kiếp” trở đi gồm 6 khổ kệ, tụng chung về phần nói khái quát trong kinh văn trường hàng. Phần nói khái quát trong kinh văn trường hàng có 2 phân đoạn, kệ tụng cũng chia thành 2 ý.

Ý thứ nhất có 2 khổ kệ, tụng ý nghĩa chướng nghịch người trì kinh này tạo tội.

Ý thứ hai từ câu “Nếu người cầu Phật đạo” trở đi gồm 4 khổ kệ, tụng về việc tin thuận người trì kinh này được phước báu.

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Dược Vương! Nay nói rõ” trở đi gồm 1 khổ kệ, xưng tán khen ngợi kinh này là tôn quý vi diệu.

KINH VĂN

Khi ấy, đức Phật lại bảo Đại Bồ Tát Dược Vương rằng: “Trong vô số ngàn muôn ức kinh điển mà ta thuyết dạy, những kinh đã thuyết, hiện đang thuyết và sẽ thuyết, thì kinh Pháp hoa này là khó tin khó hiểu nhất.

“Này Dược Vương! Kinh này là kho tàng tinh yếu bí mật của chư Phật, không thể đưa ra phân bố rộng rãi, truyền trao không đúng người. Kinh này được chư Phật Thế Tôn giữ gìn bảo vệ, từ xưa đến nay chưa từng thuyết giảng chung cho đại chúng không chọn lọc.[36] Kinh này trong lúc Như Lai tại thế mà còn có nhiều kẻ oán ghét,[37] huống chi là sau khi Phật diệt độ?”

Từ câu “Khi ấy, đức Phật lại bảo...” là tổng đoạn thứ hai, ngợi khen xưng tán việc giữ gìn chánh pháp và nêu phương pháp truyền rộng kinh điển giáo pháp. Giữ gìn chánh pháp là nói việc tự noi theo tu tập chánh pháp. Truyền rộng kinh điển giáo pháp là dạy cho người khác tu tập noi theo chánh pháp. Phần này có kinh văn trường hàng và kệ tụng.

Kinh văn trường hàng chia làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất xưng tán khen ngợi kinh điển giáo pháp. Đoạn thứ hai nêu phương thức nguyên tắc.

Đoạn thứ nhất lại có 5 tiểu đoạn. Thứ nhất là nêu pháp để xưng tán dựa theo pháp, lại có so sánh số lượng để xưng tán. Thứ hai là nêu người để xưng tán. Thứ ba là nêu nơi chốn để xưng tán. Thứ tư là nêu nhân [tu tập] để xưng tán. Thứ năm là nêu quả để xưng tán. Vì pháp vi diệu nên người [trì pháp] đáng quý; vì người [trì pháp] đáng quý nên nơi chốn [có pháp] được tôn trọng; vì nơi [có pháp] được tôn trọng nên nhân [tu tập pháp] được trọn đủ; vì nhân [tu tập] được trọn đủ nên quả đạt đến rốt ráo.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu pháp để xưng tán. [Kinh văn nói] “những kinh đã thuyết, hiện đang thuyết và sẽ thuyết, thì kinh Pháp hoa này là khó tin khó hiểu nhất”.

Có vị thầy lý giải rằng, “đã thuyết” là kinh Bát-nhã, “sẽ thuyết” là kinh Niết-bàn, trước [khi thuyết] kinh Pháp hoa thì Tiểu thừa và Đại thừa ngăn cách nhau, sau [khi thuyết] kinh Pháp hoa thì mới có chỗ hội tụ tương đồng. Kinh [Pháp hoa] này chính là khởi đầu hội tụ của ba thừa. Vì là khởi đầu sự quy tụ [ba thừa] về một thừa nên nói là đệ nhất. Kinh văn xưng tán Pháp hoa vốn nằm ngoài các kinh đã thuyết, đang thuyết và sẽ thuyết. [Cho nên, lý giải của] vị thầy này thiếu đi một điểm. Đại lược là như thế.

Nay trước tiên nói về các kinh “đã thuyết”, tức là các kinh thuyết giảng về tiệm giáo, đốn giáo[38] từ Đại phẩm Bát-nhã trở về trước. Kinh “đang thuyết” là được thuyết giảng trong cùng một pháp hội [với Pháp hoa], tức là kinh Vô lượng nghĩa. Kinh “sẽ thuyết” là nói kinh Đại Bát Niết-bàn.

Các kinh đã thuyết từ Đại phẩm Bát-nhã về trước nói pháp tiệm, đốn, tất cả đều giữ nghĩa phương tiện nên dễ tin nhận. Kinh Vô lượng nghĩa hiện nay thì chỉ nói từ một pháp sanh vô lượng pháp, chưa nói đến vô lượng pháp quay về một pháp, cho nên cũng dễ tin nhận. Nay kinh Pháp hoa này luận về pháp thì hết thảy mọi sự sai biệt đều dung thông, quy về một pháp; luận về người thì cả thầy cùng đệ tử xét theo bản, tích đều hiện hữu từ rất lâu xa [trong quá khứ]. [Như vậy, kinh Pháp hoa nói về] cả pháp và người[39] so với những kinh trước đây đều ngược lại, cho nên khó tin, khó hiểu. Đột phá vào sự khó khăn đó,[40] nên đã thuyết giảng kinh Pháp hoa rồi thì về sau thuyết kinh Đại bát Niết-bàn ắt sẽ dễ tin nhận.

“Kho tàng tinh yếu bí mật”, vì chân như thật tướng bị che lấp sâu xa khó biết nên gọi là “kho tàng”, bao quát hết thảy nên gọi là “tinh yếu”, giữ lại chưa nói ra nên là “bí mật”.

“Không thể đưa ra phân bố rộng rãi”, vì pháp vi diệu khó tin, trí tuệ sâu xa mới có thể trao truyền, kẻ không có trí tuệ [nếu dạy cho họ] chỉ thêm tội lỗi, cho nên không thể sai lầm thuyết giảng không chỗ.

“Từ xưa đến nay chưa từng thuyết giảng chung cho tất cả đại chúng.” Trong kinh điển Tạng giáo không nói việc hàng nhị thừa có thể thành Phật, cũng không nêu rõ bản, tích của thầy và đệ tử. Phương đẳng, Bát-nhã tuy là những kinh thuyết dạy về thật tướng, cũng chưa nói việc người trong 5 thừa[41] có thể thành Phật, cũng chưa nêu ra hình tích chỉ rõ bản nguyên.

Các kinh nói pháp đốn, tiệm đều chưa có sự dung thông hội tụ, cho nên nói là bí mật. Kinh này thuyết dạy đầy đủ những pháp bí mật trước đây, tức là khai mở kho tàng bí mật, lại cũng chính là kho tàng bí mật; kho tàng bí mật này “chưa từng thuyết giảng chung cho tất cả đại chúng”.

“Kinh này trong lúc Như Lai còn tại thế mà còn nhiều kẻ oán ghét”, là nói [chờ đợi] trong hơn 40 năm, không thể tức thời nói ra, nay chỉ vừa sắp nói ra mà đã có 5.000 người lập tức thối lui ra khỏi pháp hội. Phật còn tại thế mà đã như vậy, huống chi là trong tương lai. Đây là ý nói chúng sanh rất khó giáo hóa.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Nên biết rằng sau khi Như Lai diệt độ, những ai đối với kinh này có thể sao chép, giữ gìn, tụng đọc, vì người khác giảng thuyết, ắt sẽ được Như Lai dùng y che chở, lại cũng được chư Phật hiện tại ở các phương khác nhớ nghĩ che chở. Người ấy sẽ có sức tin chắc mạnh mẽ cùng sức chí nguyện và sức của các căn lành. Nên biết rằng người này cùng sống một nơi với Như Lai, được đức Như Lai dùng tay xoa đầu.”

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Nên biết rằng sau khi Như Lai diệt độ, những ai đối với kinh này có thể sao chép, giữ gìn…” trở đi là nêu người để xưng tán. Giáo pháp này ở nơi người nào thì đó là người đáng tôn quý.

“Được Như Lai dùng y che chở”, là nói dùng sự tu học nhẫn nhục lớn lao làm y phục, giống như kinh văn phần trước nói “dùng sự trang nghiêm của Phật để tự trang nghiêm mình”.

“Được chư Phật hiện tại ở các phương khác nhớ nghĩ che chở.” Tướng chân thật là Phật, trí tuệ chân thật là con; kính chuộng tướng chân thật liền phát sanh trí tuệ chân thật, tức là được chư Phật nhớ nghĩ che chở.

“Sức tin chắc mạnh mẽ” là nói niềm tin vào chân như và Tam bảo;[42] “sức chí nguyện” là nói 4 thệ nguyện rộng lớn;[43] “sức của các căn lành” là nói trí tuệ lớn lao.

Sức tin chắc tức là tin vào lẽ thật, lẽ thật tức là pháp thân; sức chí nguyện tức là xác lập công hạnh, tu hành tức là giải thoát; sức của các căn lành là cội gốc kiên cố, cho nên khó lay động, đây tức là Bát-nhã. Nên biết rằng 3 sức này tức là ba đức [của chư Phật],[44] là kho tàng bí mật. Người tu hành mới phát tâm dừng trụ được ở chỗ này thì so với Phật không khác, cho nên nói rằng “cùng sống một nơi với Như Lai”.

Lại nữa, người có sức tin chắc tu tập trí tuệ Như Lai quán xét hết thảy các pháp rốt ráo đều là không. Như Lai lấy chỗ rốt ráo đều không đó làm nhà an trụ. Người có sức tin chắc lại học biết các pháp rốt ráo đều không cho nên “cùng sống một nơi với Như Lai”.

“Được đức Như Lai dùng tay xoa đầu”, là nói người trì kinh này dùng sức chí nguyện, sức căn lành tự mình thực hành 2 pháp quyền thật, lấy đó làm cơ duyên chiêu cảm; cơ duyên chiêu cảm ấy gọi là đầu. Đức Như Lai dùng 2 trí quyền thật giáo hóa chúng sanh gọi là tay. Khai phát trước đầu người tự thực hành 2 pháp quyền thật, có sự cảm ứng giao hòa trong đạo nên gọi là xoa đầu. Xoa đầu tức là thụ ký.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Ở bất cứ nơi nào có sự thuyết giảng, tụng đọc, sao chép hoặc cất giữ kinh Pháp hoa này, đều nên xây tháp thật cao rộng bằng bảy báu, trang nghiêm đẹp đẽ, không cần an trí xá-lợi bên trong. Vì sao? Vì trong tháp như đã có toàn thân Như Lai. Đối với tháp ấy, nên dùng hết thảy các loại hoa, hương, chuỗi ngọc, lọng che bằng lụa, cờ phướn, âm nhạc, thơ ca mà cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen xưng tán. Nếu có người được nhìn thấy tháp ấy, lễ bái cúng dường, nên biết rằng những người như vậy đều đã đến gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Này Dược Vương! Ở bất cứ nơi nào…” trở đi, nêu nơi chốn để xưng tán. Giáo pháp này ở tại nơi nào tức là nơi đó đáng tôn quý.

Nói chung những nơi như Phật đản sanh, nơi Phật thành đạo, nơi Phật chuyển pháp luân, nơi Phật nhập Niết-bàn,[45] những nơi đấng Pháp vương từng đi qua, tất cả đều nên dựng tháp thờ kính. Kinh này là nơi đản sanh của pháp thân, là đạo tràng thành đạo, là chánh thể pháp luân, là nơi dung chứa Đại Niết-bàn.[46] [Cho nên,] kinh này ở nơi đâu thì đều nên dựng tháp cúng dường.

“Không cần an trí xá-lợi bên trong.” Thích luận nói rằng: “Xương cốt nát ra là xá-lợi sanh thân; kinh điển là xá-lợi pháp thân.” Kinh này là xá-lợi pháp thân nên không cần phải an trí thêm xá-lợi sanh thân. Sanh thân và pháp thân đều có đủ xá-lợi toàn thân và xá-lợi toái thân. Điều này có thể hiểu được.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Có nhiều người tại gia cũng như xuất gia, tu hành đạo Bồ Tát, nếu như chưa được thấy nghe, tụng đọc, sao chép, thọ trì, cúng dường kinh Pháp hoa này, nên biết là những người ấy chưa tu tập tốt theo đạo Bồ Tát. Nếu như được nghe kinh này rồi, mới có thể tu tập tốt theo đạo Bồ Tát.”

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Này Dược Vương! Có nhiều người tại gia cũng như xuất gia…”[47] trở đi, nêu nhân tu tập để xưng tán. Nếu “chưa tu tập tốt theo đạo Bồ Tát” là vì y theo 3 giáo pháp [Tạng, Thông, Biệt] tức là xá-lợi toái thân của pháp thân, chưa thể khéo léo hóa độ [chúng sanh]. Nếu thể nhập Viên giáo tức là xá-lợi toàn thân, ắt có thể khéo léo hóa độ. Khéo độ chúng sanh tức là tu tập tốt.

KINH VĂN

“Nếu như có chúng sanh nào cầu Phật đạo, được thấy nghe kinh Pháp hoa này, nghe rồi liền tin hiểu, thọ trì, nên biết rằng người ấy đã đến gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Tiểu đoạn thứ năm từ câu “Nếu như có chúng sanh nào…” trở đi là nêu quả để xưng tán. Tiểu đoạn này có 5 phân đoạn. Thứ nhất là nêu việc đến gần quả vị; thứ hai là nêu ra thí dụ; thứ ba là tương hợp thí dụ; thứ tư là giải thích ý nghĩa “đến gần quả vị” và thứ năm là gạn lọc những trường hợp sai lệch.

Phân đoạn thứ nhất nêu việc đến gần quả vị, nói “nên biết rằng người ấy đã đến gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Trong phẩm Hạnh an vui gọi là cận xứ. Quả Bồ-đề này lấy chỗ thấy biết của mắt Phật, của trí tuệ Phật làm tự thể, vốn có 2 loại. Một là quả Bồ-đề của hàng sơ tâm, hai là quả Bồ-đề của tâm về sau đó. Ở đây nói “gần quả vị” chính là nói gần với quả Bồ-đề của hàng sơ trụ. Lại nữa, do hướng đến quả viên mãn mà tu nhân viên mãn nên được sự nhận hiểu tương tự, gọi là “đến gần”. Phần trước nêu nhân tu tập để xưng tán, có nói rằng tu nhân theo Thông giáo, Biệt giáo là chưa tu tập tốt [đạo Bồ Tát] nên còn cách quả viên mãn rất xa. Nếu tu nhân theo Viên giáo tức là tu tập tốt [đạo Bồ Tát], đã đến gần quả viên mãn. Nay dùng trí như thật của Viên giáo làm nhân, lại cũng lấy đó làm quả. Chân như trước khi tu tập tức là chánh nhân. Chân như đang lúc tu tập tức là duyên nhân, cũng là liễu nhân. Chân như sau khi tu tập [thành tựu] tức là quả viên mãn. Cho nên, kinh Quán Phổ Hiền nói rằng: “Nhân Đại thừa là tướng chân thật, quả Đại thừa cũng là tướng chân thật.” Thích luận nói rằng: “Ban đầu quán tướng chân thật gọi là nhân, quán thành tựu rồi gọi là quả.” Cứ theo lý mà luận thì tướng thật của chân như không có nhân quả đương thời, cũng không phải trước sau. Nếu nói theo sự tu hành của chúng sanh thì có trước sau, cũng có nhân quả.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Ví như có người đang khát cần nước, ở nơi gò cao đào xuống để tìm, vì đất còn khô nên biết rằng nước vẫn còn xa; tiếp tục đào xuống không ngừng, liền thấy đất ẩm, rồi đến đất bùn, trong lòng biết chắc đã gần có nước.”

Phân đoạn thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Ví như có người đang khát cần nước…” trở đi là khai mở thí dụ. Phần này có 2 cách giải thích. Thứ nhất là giải thích dựa theo quán tâm, thứ hai là giải thích dựa theo giáo nghĩa.

Giải thích theo quán tâm thì tâm của chúng sanh còn đầy dẫy phiền não gọi là “gò cao”, tu tập quán chiếu trí tuệ gọi là “đào xuống”, vừa chứng được đạo vị thật lý như được nước trong mát.

Nếu dựa theo pháp quán của Thông giáo thì Càn tuệ địa ví như đất khô, Tánh địa là đất bùn ẩm thấp, [Kiến địa] thấy biết chân lý tức là được nước trong.[48]

[Nếu giải thích theo] pháp quán của Biệt giáo thì khi từ chỗ giả thể nhập vào không, chỉ thấy các pháp là không, chưa thấy được chỗ chẳng phải không. [Khi ấy] dứt trừ được 4 trụ địa phiền não, ví như đang đào đất khô, còn cách nước rất xa. Từ chỗ không ấy vượt thoát ra khỏi giả, trước đây biết được là không phải giả, nay lại biết được cũng chẳng phải không. Nhân nơi 2 pháp quán [chẳng phải giả, chẳng phải không] này mà thể nhập được vào trung đạo, có thể hàng phục vô minh, tức là chuyển dần sang thấy được đất ẩm, đã gần đến nước.

Theo pháp quán của Viên giáo thì quán trung đạo, chẳng phải không, chẳng phải giả mà soi chiếu không giả, giống như dần dần đào đến đất bùn. Khi ấy đã dứt trừ hết 4 trụ địa phiền não, đã hàng phục được vô minh, đã đạt được trung đạo, tương tự như chỗ nhận hiểu viên mãn, cho nên nói giống như đất bùn. Khi thể nhập vào sơ trụ, phát khởi sự nhận hiểu chân chánh về trung đạo, tức là phá trừ được vô minh, giống như bùn đã lắng trong, được thấy trung đạo như thấy nước trong mát. Luận Pháp hoa nói: “Tánh Phật như nước, phải biết được trình tự đạt đến.”

Nếu giải thích dựa theo giáo nghĩa thì đất ví như kinh điển giáo pháp, nước [nằm sâu dưới đất] ví như trung đạo. Giáo pháp chuyển tải trung đạo cũng giống như trong lòng đất hàm chứa nước. Giáo pháp Tạng giáo chưa chuyển tải được trung đạo nên giống như đất khô. Giáo pháp Phương đẳng, Bát-nhã vẫn giữ phương tiện mà nói nghĩa trung đạo, giống như thấy đất ẩm. Giáo pháp Pháp hoa chân chánh thẳng tắt, chỉ bày rõ ràng, thuyết đạo vô thượng, giống như thấy được đất bùn. Nhân nơi giáo pháp Pháp hoa mà khởi sanh văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ, liền tỏ ngộ trung đạo, thấy biết chân thật tánh Phật, phát khởi trí tuệ chân thật không cần dựa vào kinh văn, giống như lấy được nước trong không còn tướng của bùn đất. Cho nên kinh Hoa nghiêm nói rằng: “Bồ Tát Thập trụ có pháp thân trí tuệ, chẳng phải do người khác mà tỏ ngộ.”

Có người nói: “Giáo pháp ban đầu như đất khô trên gò cao; giáo pháp Đại phẩm Bát-nhã như đất ẩm; giáo pháp Pháp hoa như đất bùn; quả Phật như nước trong.”

Có người lại nói: “Các kinh Duy-ma, Tư Ích như đất khô; kinh Vô lượng nghĩa như đất ẩm; kinh Pháp hoa như đất bùn; quả Phật như nước.”

Có người lại nói: “Đại phẩm Bát-nhã như đất khô; Vô lượng nghĩa như đất ẩm; Pháp hoa như đất bùn; quả Phật như nước trong.”

Cả 3 thuyết như trên đều dựa vào 5 thời giáo pháp.

Ngài Trúc Đạo Sinh[49] nói: “Thọ trì kinh Pháp hoa cầu Phật đạo, mong muốn đạt được như người khát cần nước. Hàng tam thừa đối với nhất thừa rất khó tin nhận, mong cầu hiểu được Pháp hoa cũng giống như [người đào giếng] còn trên gò cao; thọ trì, đọc tụng kinh giống như đang đào xuống, chưa thể nhận hiểu đúng như kinh văn. Lúc chưa được nghe kinh ví như đất khô; có thể hiểu rõ nghĩa kinh ví như đào xuống đến chỗ đất bùn.” Các nhà chú giải cũng giải thích giống như vậy. Có người nói rằng: Lập luận này [có 2 ý,] một là giải thích ý nghĩa còn xa quả Phật và hai là giải thích ý nghĩa đã gần quả Phật.

Giải thích của 3 vị thầy ở trước là nêu việc các kinh khác còn xa quả Phật, nói giáo pháp Pháp hoa đã gần quả Phật. Hai cách giải thích sau chỉ dựa vào nội dung trong kinh Pháp hoa để luận việc xa hay gần [quả Phật].

Xét ngay trong kinh này lẽ ra đã có 2 nghĩa, một là nêu các kinh khác so với Pháp hoa để nói rõ chỗ xa hay gần quả Phật, hai là dùng ý nghĩa của Pháp hoa để luận việc xa hay gần quả Phật. Các vị thầy [giải thích như trên] đã làm mất đi tông chỉ của kinh.

Hỏi: Những kinh khác [với Pháp hoa] vì sao còn cách xa quả Phật?

Đáp: Vì chưa khai thị trừ bỏ quyền thừa, nên người cầu quả Phật chưa quyết định. Pháp hoa nói chỉ có duy nhất một thừa, không có ba thừa, vĩnh viễn không còn tâm thối lui cho nên đến gần quả Phật. Kinh văn nói: “Nghe kinh thâm sâu này, dứt sạch pháp Thanh văn.”

Hỏi: Kinh Bát-nhã vì sao còn xa quả Phật?

Đáp: Vì chưa khai thị trừ bỏ ranh giới quyền thừa nên là còn xa. Ban sơ tu hành đạo Bồ Tát, không biết rằng Bát-nhã ngấm ngầm giáo hóa [cũng như Pháp hoa] giao phó gia tài [chánh pháp], nên đối với quả Phật là xa.

Thế nhưng trí tuệ chân thật và phương tiện của Bát-nhã vốn là cha mẹ sanh ra pháp thân ba đời chư Phật. Người cầu quả Phật giống như người bệnh già yếu, nếu được 2 người khỏe mạnh[50] dìu đỡ thì mới có thể đi khắp nơi xa, cho nên biết rằng giáo pháp Bát-nhã là thù thắng nhất. Sự khai thị trừ bỏ quyền thừa của giáo pháp Pháp hoa không khác với sự hiển bày chân thật của giáo pháp Bát-nhã. Không phải riêng ngoài Bát-nhã mà có Pháp hoa; Pháp hoa chỉ là tên gọi khác của Bát-nhã mà thôi. Chỉ do các bậc thầy đã giải thích khác nhau cho nên phải đề cập đến ở đây.

KINH VĂN

“Bồ Tát cũng giống như vậy, nếu như chưa nghe, chưa hiểu, chưa thể tu tập kinh Pháp hoa này, nên biết rằng người ấy hãy còn cách xa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; nếu như được nghe, hiểu, suy ngẫm, tu tập theo kinh này, thì biết là đã đến gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Phân đoạn thứ ba từ câu “Bồ Tát cũng giống như vậy” trở đi là nói nghĩa tương hợp thí dụ. Đối với giáo nghĩa trong kinh Pháp hoa này đạt được sự nghe biết, suy ngẫm, tu tập theo, tức là ba trí tuệ[51] quán chiếu viên mãn, mới có thể đến gần quả Phật, không phải những sự nghe biết, suy ngẫm, tu tập trong các giáo pháp khác chỉ giống như “đất khô”, “đất ẩm”, [chưa được đến gần nước].

KINH VĂN

Vì sao vậy? Hết thảy pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của hàng Bồ Tát đều có đủ trong kinh này. Kinh này mở ra cửa phương tiện, chỉ bày tướng chân thật. Kho tàng kinh Pháp hoa này thâm sâu kiên cố, kín đáo sâu xa, không ai có thể thấu triệt, nay Phật vì giáo hóa chư Bồ Tát cho thành tựu nên mới khai mở chỉ bày.

Phân đoạn thứ tư từ câu “Vì sao vậy” trở đi là giải thích ý nghĩa đến gần quả Phật. Nói hết thảy hàng Bồ Tát là nêu nhân tu tập quyền thừa, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là nêu tất cả quả quyền thừa. Nhân quyền thừa và quả quyền thừa, tất cả đều được thâu nhiếp vào trong kinh này. Cũng giống như các loại đất khô hay đất ẩm đều là dựa theo nước mà xác định, cho nên nói là “đều có đủ trong kinh này”.

“Mở ra cửa phương tiện, chỉ bày tướng chân thật.” Ngài Quang Trạch nói: “Thuở xưa ở Lộc uyển, vì căn cơ [của thính chúng] xen tạp nên [Phật] chú trọng thuyết giảng Tạng giáo, chưa nêu một lẽ chân thật. Đó là lúc dùng pháp quyền, che giấu pháp thật, một lẽ chân thật vì giáo hóa quyền thừa nên đóng lại. Nay ở thành Vương Xá dạy cho người có căn cơ lớn nên mới hiển bày pháp chân thật. Đã hiển bày chân thật tức là trừ bỏ giáo pháp quyền thừa trước đây. Giáo pháp quyền thừa đã bỏ tức là pháp môn phương tiện dứt trừ. Một lẽ chân thật đã nêu ra thì tướng chân thật hiển bày.”

Nay theo ý riêng tôi[52] cho rằng cách giải thích như vậy là phá trừ phương tiện, không phải “mở ra cửa phương tiện”.

Ngài Đạo Lãng[53] ở Hà Tây nói: “Gọi thẳng 3 thừa là phương tiện, tức là mở cửa phương tiện. Vì trước đây không nói 3 thừa là phương tiện, cho nên cửa phương tiện đóng. Nay gọi 3 thừa là phương tiện, tức là chỉ bày một thừa chân thật.”

Nay theo ý riêng tôi, cách giải thích này phù hợp với kinh văn.

Có người giải thích rằng: “Khai mở 2 phương tiện là giáo và thân; chỉ bày 2 chân thật là giáo và thân; pháp quyền và thật của ba đời chư Phật chỉ có hình sắc và âm thanh.”[54] Theo nghĩa khai mở và chỉ bày như vậy thì 12 bộ kinh, 84.000 pháp tạng[55] đều sáng tỏ rõ ràng cả rồi.

Theo ý riêng tôi cho rằng, 2 vị thầy trước dựa vào “giáo” để giải thích nghĩa khai mở và chỉ bày, vị sau này thêm vào ý “thân”. Đây là trộm lấy nghĩa lý của ngài Long Ấn làm của mình, nên vẫn là nghĩa phá trừ phương tiện, chẳng phải nghĩa khai mở.

Hỏi: Nói phương tiện là cửa vào, không biết đó là do ngay nơi tự thể gọi là cửa vào, hay do thông suốt được thật tướng mà gọi là cửa vào?

Đáp: Theo ý riêng tôi thì đủ cả 2 nghĩa ấy. Phương tiện là cửa vào thật tướng, ý nghĩa ấy có thể hiểu được. Nói ngay nơi tự thể là cửa vào thì như trong kinh Hoa Nghiêm, [đồng tử Thiện Tài] tìm cầu thiện trí thức, học được đủ mọi pháp môn như đếm cát, quán biển v.v.

[Thứ nhất,] cả 2 cửa chân thật và phương tiện đều có mở có đóng. Trước đây đức Phật không nói ba thừa là phương tiện, cho nên cửa phương tiện đóng. Nay Phật dạy ba thừa là phương tiện, cho nên cửa phương tiện khai mở. Trước đây Phật không nói một thừa là chân thật, nên cửa chân thật đóng. Nay Phật dạy một thừa là chân thật, cho nên cửa chân thật khai mở.

Thứ hai là phương tiện này lại cũng thông suốt với thật tướng, cho nên phương tiện ba thừa là cửa vào nhất thừa. Thật tướng lại có 2 nghĩa. Thứ nhất là ngay nơi tự thể thông suốt rỗng không, cho nên gọi là cửa vào, như cửa bất nhị của kinh Tịnh Danh, cửa pháp giới của kinh Hoa Nghiêm v.v. Thứ hai là nhờ nơi phương tiện mà được thông suốt nên lấy đó làm cửa.

Ngài Lưu Cầu[56] nói: “Thông suốt muôn vật do nơi Nhất thừa, cho nên Nhất thừa là cửa vào phương tiện. Hiệu quả dẫn dắt phải dựa vào ba thừa, cho nên ba thừa là tướng biểu hiện của chân thật. Phật nói rằng không có ba thừa, tức là cửa phương tiện được mở ra; Phật dạy rõ chỉ có một thừa duy nhất, tức là tướng chân thật có thể chỉ bày.”

Có người nói, nếu luận bàn đầy đủ thì có 3 nghĩa. Nghĩa thứ nhất dùng ba thừa làm phương tiện, lấy Nhất thừa làm chân thật. Nghĩa thứ hai là cả ba thừa với Nhất thừa đều là phương tiện, chẳng phải ba thừa chẳng phải Nhất thừa mới là chân thật. Nghĩa thứ ba nói có ba thừa, có Nhất thừa là phân biệt chia hai; chẳng phải ba thừa chẳng phải Nhất thừa mới là không phân biệt, là bất nhị. Nhị và bất nhị đều là pháp quyền thừa, chẳng phải nhị chẳng phải bất nhị là pháp chân thật.

Ba ý nghĩa này có thể làm rõ được ý nghĩa phương tiện làm cửa vào. Như lấy ba thừa dùng làm 1 cửa, tức là dùng pháp quyền để thông suốt pháp thật. Nếu dùng Nhất thừa làm 3 cửa tức là từ pháp thật khởi lên pháp quyền. Cho đến nhị và bất nhị, phân biệt và không phân biệt cũng đều như vậy, đều hỗ tương làm cửa vào cho nhau. Nhưng hỗ tương cho nhau để hiển lộ hình tướng, chỉ không thể hỗ tương cho nhau làm pháp quyền hay pháp thật.

Theo ý riêng tôi cho rằng, như lấy ba thừa làm cửa [phương tiện] để vào Nhất thừa, thì ba thừa có đồng là thật tướng hay chăng? Nếu không đồng là thật tướng, tức là không phải cửa vào. Cần phải khai thị trừ bỏ ba thừa rồi mới bắt đầu vào được cửa này. Nhưng nếu đã khai thị trừ bỏ ba thừa rồi, tức không còn là ba thừa nữa, vì sao lại lấy ba thừa làm cửa vào thật tướng? Lại nữa, ba thừa chẳng phải nhân tố thành tựu Phật quả, sao có thể là cửa vào thật tướng. Ở đây chỉ bác bỏ một nghĩa này, 2 nghĩa còn lại cũng dựa theo như thế mà bác bỏ. Đại lược là như vậy.

Hỏi: Pháp phương tiện và pháp chân thật có thể hỗ tương làm cửa vào cho nhau, vậy có thể nào dùng phương tiện làm cửa vào phương tiện, dùng thật tướng làm cửa vào thật tướng được chăng?

Đáp: Việc này xét ra có 4 trường hợp. Hai trường hợp đầu là như trước đã nói. Trường hợp thứ ba là thật tướng làm cửa vào thật tướng. Trường hợp thứ tư là phương tiện làm cửa vào phương tiện. Giống như danh xưng dẫn vào ý nghĩa, ý nghĩa dẫn vào danh xưng. Do danh xưng phương tiện giúp hiển bày ý nghĩa, cho nên gọi danh xưng là cửa vào. Do ý nghĩa phương tiện tương ứng với danh xưng, cho nên nói ý nghĩa là cửa vào. Đối với thật tướng cũng như thế. Lời tựa của Trung luận nói: “Cái thật nếu không có danh xưng thì không do đâu tỏ ngộ được, cho nên phải gửi gắm vào trong danh tự để tuyên xưng”, chính là nói ý nghĩa này.

Hỏi: Có thể dùng ba thừa hiển bày ba thừa, dùng Nhất thừa hiển bày Nhất thừa được chăng?

Đáp: Việc này lại cũng có 4 trường hợp. Hai trường hợp đầu là như trước đã nói. Nói dùng ba thừa hiển bày ba thừa, đó là trước đây Phật thuyết ba thừa khác với hiện nay thuyết Nhất thừa, ba thừa ấy nằm ngoài Nhất thừa. [Lại nói] Nhất thừa hiện nay khác với ba thừa trước đây, Nhất thừa này nằm ngoài ba thừa. Cho nên nếu nói Nhất thừa chẳng phải là Nhất thừa từ nơi ba thừa, ba thừa chẳng phải là ba thừa từ nơi Nhất thừa, hết thảy những cách nghĩ như vậy đều là quan điểm cố chấp.

Vì phá trừ bệnh cố chấp này cho nên Phật nói: “Từ nơi một Phật thừa mà phân biệt thuyết thành ba thừa.” Cho nên ba thừa đó là ba thừa từ nơi Nhất thừa. [Kinh văn nói:] “Những gì các ông làm, đều là đạo Bồ Tát.” Cho nên Nhất thừa đó là Nhất thừa từ nơi ba thừa. Ba thừa với Nhất thừa vốn không khác biệt nhau.

Nói theo nghĩa nhân duyên thì dùng nhân duyên ba thừa với Nhất thừa để hiển bày tự tánh của ba thừa với Nhất thừa; lại dùng tự tánh ba thừa với Nhất thừa để hiển bày nhân duyên của ba thừa với Nhất thừa. Cho nên nói rằng dùng ba thừa để hiển bày Nhất thừa, dùng Nhất thừa để hiển bày ba thừa.

Có người dẫn ra 15 chỗ trong kinh Pháp hoa này để nêu rõ nghĩa cửa vào. Trong phẩm Phương tiện có 2 chỗ, phẩm Thí dụ có 6 chỗ, phẩm Tin hiểu có 3 chỗ, phẩm Thí dụ hóa thành có 2 chỗ, phẩm Pháp sư có 1 chỗ, phẩm Bồ Tát Quán Âm[57] có 1 chỗ.

Phẩm Phương tiện có 2 chỗ [nêu nghĩa cửa vào]. Thứ nhất là nói cửa vào trí tuệ, dùng trí quyền thừa làm cửa vào trí tuệ chân thật. Ngài Trúc Đạo Sinh nói: “Lời giảng dạy là cửa vào. Lời giảng dạy chỉ rõ trí chân thật, cho nên lời giảng dạy là cửa vào trí tuệ chân thật.” Luận Pháp hoa cũng nói giống như vậy. Thứ hai là nói rằng: “Dùng đủ mọi pháp môn, để chỉ bày Phật đạo.” Đây là nói dùng giáo pháp Đại thừa làm cửa vào.

Phẩm Thí dụ có 6 chỗ. Thứ nhất là nói “nhà của ông hết sức rộng lớn nhưng chỉ có duy nhất một cửa ra vào”. Đây cũng là lấy giáo pháp Đại thừa làm cửa vào. Thứ hai là nói [“xuyên qua] cửa bị cháy”. Đây là lấy giới hạn cương vực của ba cõi làm cửa vào, cũng như gọi nhà là cửa. Thứ ba là nói “nhà này chỉ có một cửa, lại nhỏ hẹp”. Đây cũng là lấy giáo pháp Đại thừa làm cửa vào. Thứ tư là nói “ba xe đang ở ngoài cửa”. Đây lại cũng là lấy ba cõi làm cửa vào. Thứ năm là nói “dùng các pháp môn Phật dạy mà thoát ra khỏi khổ não trong ba cõi”. Đây là dùng giáo pháp Tiểu thừa làm cửa vào. Thứ sáu là nói “ông trưởng giả chủ nhà, còn đang đứng ngoài cửa”. Đây là dựa theo Đại thừa dùng giới hạn của 2 loại sanh tử làm cửa vào; nếu theo Tiểu thừa thì ra khỏi tất cả phiền não, tập nhân đã dứt hết gọi là “đứng ngoài cửa”.

Phẩm Tin hiểu [có 3 chỗ]. Thứ nhất là nói “đứng ở ngoài cửa”, tức là lấy giáo lý Đại thừa làm cửa vào. Thứ hai là nói “vẫn còn ở ngoài cửa”, cũng giống như trước. Thứ ba là nói “ông trưởng giả ở bên trong cửa”, ý nghĩa cũng như trước.

Phẩm Thí dụ hóa thành [có 3 chỗ]. Thứ nhất là nói “thường mở cửa cam lộ”, cũng là dùng giáo pháp Đại thừa và Tiểu giáo thừa làm cửa vào. Thứ hai là nói “cửa nhiều lớp, lầu cao”, cũng là dùng đến 3 cửa không của Tiểu thừa làm cửa vào. Thứ ba là nói “cửa phương tiện” thì như trước đã giải thích.

Phẩm Bồ Tát Quán Âm [có 1 chỗ] cũng lấy giáo pháp Đại thừa làm cửa vào.

Nay giải thích về ý nghĩa “mở ra cửa phương tiện”. Những gì trước đây Phật không thuyết dạy thì nay đều thuyết dạy. Như trước đây nói đến hết thảy nghề nghiệp sinh nhai hay tài sản ở thế gian, chưa từng xem đó là phương tiện, nay đều khai mở đó chính là thật tướng, không có gì khác biệt trái nghịch nhau.

Trước đây nói phương tiện Tiểu thừa dẫn đến quả vị Tiểu thừa; đến như quả vị Tiểu thừa mà còn không phải cửa vào thật tướng, huống chi là phương tiện của Tiểu thừa sao có thể xem là cửa vào? Nay đều khai mở chỉ ra tất cả đều là thật tướng. [Cho nên kinh văn nói] “những gì các ông làm, đều là đạo Bồ Tát”, [lại nói “nghe kinh thâm sâu này,] dứt sạch pháp Thanh văn, là vua trong các kinh”.

Trước đây nói nhị thừa là cửa phương tiện, nay đều khai thị trừ bỏ, chỉ rõ đó chính là thật tướng, không còn là cửa vào, khiến cho hết thảy chúng sanh đều được khai mở, chỉ bày, nhận hiểu và thể nhập tri kiến Phật. [Như vậy thì] hết thảy mọi hình sắc, mùi hương[58]… chẳng có gì chẳng phải là Phật pháp, dù là cửa vào hay chẳng phải cửa vào, tất cả đều khai mở chỉ bày tướng chân thật, hiển lộ nước tánh Phật. Nếu không khai mở thì “thâm sâu kiên cố, kín nhiệm xa xôi, không ai có thể thấu đáo”, nay được khai mở rồi liền gặp được nước, không còn là đất khô.

Lại nếu giải thích theo 3 loại trí tuệ [là văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ,] thì kinh văn nói “đều có đủ trong kinh này” tức là văn tuệ viên mãn, “kinh này mở ra cửa phương tiện” tức là tư tuệ viên mãn, “chỉ bày tướng chân thật” tức là tu tuệ viên mãn. Ba loại trí tuệ này đều “kín nhiệm xa xôi”, nay Phật khai mở chỉ bày liền thấy được chân thật.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Nếu có Bồ Tát nào nghe kinh Pháp hoa này lại khởi tâm kinh hãi, nghi ngờ, nên biết đó là Bồ Tát mới phát tâm. Nếu có Thanh văn nào nghe kinh này lại khởi tâm kinh hãi, nghi ngờ, sợ sệt, nên biết đó là kẻ tăng thượng mạn.

Phân đoạn thứ năm từ câu “Này Dược Vương! Nếu có Bồ Tát nào nghe kinh Pháp hoa này…” trở đi là gạn lọc những trường hợp sai lệch.

“Nếu Bồ Tát nghe kinh Pháp hoa này lại khởi tâm kinh hãi nghi ngờ…” [cho đến] “Thanh văn… là kẻ tăng thượng mạn” thì đó đều là [hạng còn ở] đất khô, còn chưa đến đất ẩm huống gì là gặp được nước.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Nếu có thiện nam hoặc thiện nữ, sau khi Như Lai diệt độ rồi, muốn vì bốn chúng thuyết giảng kinh Pháp hoa này, nên thuyết như thế nào? Người ấy phải vào nhà Như Lai, đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, như vậy rồi mới nên vì bốn chúng mà thuyết rộng kinh này. Nhà Như Lai tức là tâm đại từ bi của hết thảy chúng sanh; y Như Lai tức là tâm nhẫn nhục nhu hòa; tòa Như Lai tức là hết thảy các pháp đều không. Trụ yên trong chỗ như thế rồi, mới dùng tâm không biếng nhác, vì chư Bồ Tát và bốn chúng mà thuyết rộng kinh này.

Đoạn thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Nếu có hàng thiện tín nam nữ, sau khi Như Lai diệt rồi…” trở đi, sơ lược chỉ bày phương pháp truyền rộng kinh này. Đoạn này chia làm 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là chỉ bày phương pháp, tiểu đoạn thứ hai là nêu rõ lợi ích.

Tiểu đoạn thứ nhất chỉ bày phương pháp lại có 3 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu rõ ý nghĩa muốn nói, phân đoạn thứ hai là giải thích ý nghĩa và phân đoạn thứ ba là khuyến khích tu tập.

Phân đoạn thứ nhất, nói tu tập “vào nhà Như Lai” tức là tâm đại từ bi. Nếu theo nghĩa đồng thể [đại từ bi] tức là pháp thân, theo nghĩa che chở chúng sanh tức là giải thoát, theo nghĩa thường giúp chúng sanh thể nhập đồng thể tức là Bát-nhã.[59]

Tu tập “đắp y Như Lai”, nếu theo nghĩa được che đắp tức là pháp thân, theo nghĩa có khả năng che đắp làm trang nghiêm thân tức là pháp nhẫn tịch diệt, theo nghĩa nhu hòa soi sáng làm lợi ích chúng sanh tức là giải thoát.

[Tu tập “ngồi tòa Như Lai”,] nếu theo nghĩa người ngồi lên tòa tức là Bát-nhã, theo nghĩa chỗ tòa để ngồi tức là pháp thân, theo nghĩa thân với tòa ngồi ngấm ngầm tương xứng tức là giải thoát.

[Phân đoạn thứ hai từ câu “Nhà Như Lai tức là tâm đại từ bi…” trở đi là giải thích ý nghĩa.] [Tu tập] tâm đại từ [giúp chúng sanh] an vui[60] tức là giúp cho thành tựu; [tu tập] nhẫn nhục nhu hòa tự điều phục sân hận, dứt trừ mê hoặc tức là quán chiếu; [tu tập] ngồi tòa [Như Lai] tức là pháp thân. Trong phẩm Hạnh an vui sẽ tiếp tục giảng rộng 3 pháp này.

[Phân đoạn thứ ba từ câu “trụ yên trong chỗ như thế rồi…” trở đi là khuyến khích sự tu tập.] Kinh văn phần trước nói “dùng sự trang nghiêm của Như Lai” tức là y áo [của người thuyết pháp]; lại nói “được Như Lai gánh vác trên vai”, [vai của Như Lai] tức là tòa ngồi [của người thuyết pháp]; gánh vác là gánh vác việc chuyển vận [chánh pháp], tức là nói [người ấy] vào trong giảng đường [để thuyết pháp].

KINH VĂN

“Này Dược Vương! [Khi ấy] ta ở cõi khác[61] sai khiến người được biến hóa ra, vì người ấy mà tụ tập người đến nghe pháp, lại sai khiến các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di được biến hóa ra đến nghe người ấy thuyết pháp. Những người được biến hóa ra đó, khi nghe pháp liền tin nhận, thuận theo không trái nghịch.

“Nếu như người thuyết pháp ở nơi vắng vẻ yên tĩnh, khi ấy ta sẽ mở rộng sai khiến chư thiên, loài rồng, quỷ thần, càn-thát-bà, a-tu-la… đến nghe người ấy thuyết pháp. Tuy ta đang ở cõi khác, vẫn thường khiến cho người thuyết pháp ấy được nhìn thấy thân Phật. Nếu như khi thuyết kinh này có quên sót câu nào, ta lại sẽ vì người ấy thuyết, khiến cho được trọn đủ.”

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Ta ở nơi cõi khác…” trở đi nêu ra 5 sự lợi ích, khuyến khích khen ngợi việc lưu thông kinh này. Lợi ích thứ nhất là [được Phật sai khiến người do Phật biến hóa ra đến nghe pháp], lợi ích thứ hai là Phật sai khiến bốn chúng được biến hóa ra, lợi ích thứ ba là Phật sai khiến tám bộ chúng được biến hóa ra. Lợi ích thứ tư là được thấy thân Phật. Lợi ích thứ năm là được Phật giúp cho nhớ và thuyết kinh đầy đủ không thiếu sót.[62]

Nếu người vừa mới phát tâm, tâm tánh chưa thuần thì chỉ có thể sai khiến người được biến hóa ra [đến chỗ họ nghe pháp], chưa thể sai khiến bốn chúng hoặc tám bộ chúng [đến chỗ họ]. Nếu người ấy nhìn thấy chư thiên, loài rồng [đến nghe pháp], sẽ dựa vào đó mà sanh tâm tự cao, tổn hại đến việc tu tập đạo, cho nên không thể cho người ấy nhìn thấy. Nếu tâm không còn bám chấp dựa dẫm thì có thể gặp Phật [mà không bị tổn hại vì tự cao],[63] huống chi là việc thấy chư thiên, loài rồng; huống chi là được pháp tổng trì ghi nhớ trọn đủ bộ kinh, tự chứng biết được lợi ích.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Muốn trừ bỏ biếng nhác,
Nên lắng nghe kinh này.
Kinh này khó được nghe,
Lại cũng khó tin nhận.

Như người khát tìm nước,
Trên gò cao đào xuống,
Vẫn thấy đất khô ráo,
Nên biết nước còn xa.
Dần thấy ẩm, đất bùn,
Biết chắc đã gần nước.

Dược Vương! Ông nên biết,
Như đối với những người,
Không nghe kinh Pháp hoa,
Trí tuệ Phật còn xa.

Nghe kinh thâm sâu này,
Dứt sạch pháp Thanh văn,
Là vua trong các kinh,
Nghe rồi suy ngẫm kỹ,
Nên biết người như vậy,
Đã gần trí tuệ Phật.

Phần kệ tụng có 18 khổ rưỡi kệ, chia làm 3 đoạn.

Đoạn đầu tiên 1 khổ kệ là lời khuyên tổng quát, không tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng.

Kế đến [đoạn thứ hai] 16 khổ rưỡi kệ là tụng lại ý nghĩa kinh văn trường hàng ở trước. Cuối cùng [đoạn thứ ba] có 1 khổ kệ nêu nghĩa tóm kết để khuyến khích tu tập.

[Đoạn thứ hai có 2 tiểu đoạn.]

[Tiểu đoạn thứ nhất gồm 4 khổ kệ.] Trong kinh văn trường hàng ở trước, phần nêu quả vị để xưng tán có 5 phân đoạn. Nay [tương ứng theo đó] nhưng trong tiểu đoạn thứ nhất này chỉ có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ từ câu “Như người khát tìm nước” trở đi tụng về việc nêu ra thí dụ.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Dược Vương! Ông nên biết” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng về nghĩa tương hợp với thí dụ. Như vậy lược bớt không tụng ý nghĩa 3 phân đoạn còn lại nêu việc đã gần quả Phật, giải thích [việc đã gần quả Phật] và gạn lọc những trường hợp sai lệch.

KINH VĂN

Người muốn thuyết kinh này,
Nên vào nhà Như Lai,
Và đắp y Như Lai,
Ngồi trên tòa Như Lai,
Giữa đại chúng, không sợ,
Rộng vì người giảng thuyết.

Đại từ bi là nhà,
Áo nhu hòa nhẫn nhục,
Tòa là các pháp không,
Trụ trong đó thuyết pháp.

Nếu khi thuyết kinh này,
Có người xấu mắng chửi,
Ném gạch, đá, dao, gậy,
Niệm Phật nên nhẫn nhục.

Ta ở muôn ức cõi,
Hiện thân tịnh, kiên cố,
Trong vô lượng ức kiếp,
Vì chúng sanh thuyết pháp.

Sau khi ta diệt độ,
Người thường thuyết kinh này,
Ta hóa hiện bốn chúng,
Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Cùng nam, nữ cư sĩ,
Cúng dường pháp sư ấy,
Lại dẫn dắt chúng sanh,
Tụ tập đến nghe pháp.

Nếu người muốn hãm hại,
Dùng dao, gậy, gạch, đá,
Phật sai người biến hóa,
Đến bảo vệ người ấy.

Nếu như người thuyết pháp,
Đang ở nơi vắng vẻ,
Yên tịnh, không tiếng người,
Khi tụng đọc kinh này,
Ta vì người ấy hiện
Thân sáng ngời thanh tịnh,
Nếu quên câu kinh nào,
Ta giúp thuyết thông suốt.

Người đủ các đức trên,
Khi thuyết cho bốn chúng,
Hoặc tụng đọc một mình,
Đều được thấy thân Phật.

Nếu ở chỗ vắng vẻ,
Ta khiến chư thiên, rồng,
Cùng dạ-xoa, quỷ thần,
Đến đó cùng nghe pháp.

Người ấy vui thuyết pháp,
Phân biệt không ngăn ngại,
Nhờ chư Phật hộ niệm,
Khiến đại chúng hoan hỷ.

Nếu gần gũi pháp sư,
Nhanh đạt đạo Bồ Tát,
Theo học với pháp sư,
Được gặp vô số Phật.

[Tiểu đoạn thứ hai có 12 khổ rưỡi kệ.] Trong kinh văn trường hàng ở trước, phần nói về phương thức lưu thông kinh có 2 đoạn, chia ra nói về phương thức lưu thông và lợi ích của việc lưu thông kinh. Nay trong kệ tụng thì tiểu đoạn này cũng có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất có 3 khổ rưỡi kệ tụng về phương thức lưu thông kinh. [Phân đoạn thứ hai gồm 9 khổ kệ, nói về lợi ích của việc lưu thông kinh.]

Trong kinh văn trường hàng, phần này có 3 tiểu đoạn, nay trong kệ tụng có 3 ý tương ứng.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Ta ở muôn ức cõi” trở đi gồm 9 khổ kệ, có 6 ý tụng về sự lợi ích của việc lưu thông kinh này.

Ý thứ nhất 1 khổ kệ nói tổng quát việc đức Như Lai dùng nêu ra 5 sự lợi ích. Ý chính là do nơi ứng thân Phật đầy khắp trong 10 phương nên có thể dùng 5 việc nêu ra ở đây để bảo vệ giúp đỡ người tu hành [truyền bá kinh này].

Ý thứ hai từ câu “Sau khi ta diệt độ” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại lợi ích thứ hai nói việc “sai khiến bốn chúng được hóa ra”.

Ý thứ ba từ câu “Lại dẫn dắt chúng sanh” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại lợi ích thứ nhất nói việc “sai khiến người được hóa ra”.

Ý thứ tư từ câu “Nếu như người thuyết pháp” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng lại lợi ích thứ năm được Phật giúp cho ghi nhớ trọn đủ bộ kinh.

Ý thứ năm từ câu “Người đủ các đức trên” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại lợi ích thứ tư là được Phật giúp cho nhìn thấy Phật.

Ý thứ sáu từ câu “Nếu ở chỗ vắng vẻ” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng lại lợi ích thứ ba nói việc “sai khiến tám bộ chúng”.

Đại lược là như thế.

________________________


CHÚ THÍCH

[1] Đoạn giải thích này dựa theo ý nghĩa trong quyển 6, kinh Đại Bát Niết-bàn. Trong phần này, đức Phật dạy rằng người nào đã từng “ở nơi chư Phật nhiều như số cát sông Hy-liên mà phát tâm bồ-đề” thì mới có thể tin nhận thọ trì kinh điển Đại thừa. Tương tự, nếu người muốn có khả năng “phân biệt giảng rộng” kinh điển Đại thừa cần phải đã từng “ở nơi chư Phật nhiều như số cát 1 con sông Hằng”, cho đến “nhiều như số cát 8 con sông Hằng”. Do vậy tính ra có 9 phẩm vị phát triển dần tùy theo thời gian “đã từng ở nơi chư Phật mà phát tâm Bồ-đề”.

[2] Tức là nói các hạng người “đã từng ở nơi chư Phật nhiều như số cát sông Hy-liên mà phát tâm Bồ-đề” và tương tự với số cát của từ 1 đến 3 con sông Hằng. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói những hạng người này tuy tin nhận kinh điển nhưng “không thể vì người khác mà phân biệt giảng rộng”.

[3] Kinh văn phần sau, trong phẩm Hạnh An vui nói về “四安樂行 - tứ an lạc hạnh”, bao gồm thân an lạc hạnh (身安樂行), khẩu an lạc hạnh (口安樂行), ý an lạc hạnh (意安樂行) và thệ nguyện an lạc hạnh (誓願安樂行).

[4] Nguyên tác dùng “涉有 - thiệp hữu”. Chữ “hữu” chỉ chung các cõi hiện hữu, như nhị thập ngũ hữu, cũng tức là ba cõi.

[5] Bốn đường: chỉ các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và a-tu-la, được xem là 4 đường nhiều khổ não nhất.

[6] Ngũ nhãn: 5 loại mắt, tức bao gồm nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.

[7] Ở đây chỉ các hàng Bồ Tát của Tạng giáo (quán xét phân tích các pháp thấy được lẽ không), Bồ Tát Thông giáo (quán xét bản thể các pháp thấy được lẽ không), Bồ Tát Biệt giáo (quán xét bám chấp lẽ không nên còn thiên lệch). Riêng Bồ Tát Viên giáo đã đạt được trung đạo nên không còn rơi vào thiên chấp.

[8] Ở đây chỉ Không đế, Giả đế và Trung đế.

[9] Trong đoạn này Văn Cú dùng các khái niệm “mê chân” (迷真), “mê tục” (迷俗 ), “mê trung” (迷中). Mê chân là không hiểu được chân đế, nên rơi vào khổ. Mê tục là không hiểu được tục đế, đắm chấp nơi lẽ không, cho đó là niềm vui chân thật. Mê trung là không hiểu được trung đế, chưa vượt khỏi giả đế, không đế và trung đế nên không thể đạt đến đệ nhất nghĩa đế, do vậy mà nói trí tuệ bị che chướng. Các khái niệm này đều được hiểu theo giáo lý tông Thiên Thai.

[10] Trong đoạn này, Văn Cú 2 lần dùng cụm từ “命覓流通 - mệnh mịch lưu thông” và “勸覓流通 - khuyến mịch lưu thông” đều rất tối nghĩa, nhưng so sánh thì Văn Cú Ký dùng chữ “慕 - mộ” (mến mộ, ngưỡng mộ) chứ không phải chữ “覓 - mịch” (tìm kiếm). Chữ “mộ” có ý nghĩa phù hợp hơn, có lẽ Văn Cú đã chép nhầm. Chúng tôi chuyển dịch có điều chỉnh dựa theo Văn Cú Ký.

[11] Kinh văn dùng “đại sĩ” là một cách danh xưng khác để gọi các vị Bồ Tát. Vì trước đây đã gọi 80.000 vị này là Bồ Tát nên chúng tôi dùng lại như trước để dễ hiểu. Bản Anh ngữ của Kern: “...addressed the eighty thousand Bodhisattvas Mahasattvas by turning to Bhaishajyaraja as their representative...“ (...nói với 80.000 vị Bồ Tát bằng cách hướng đến Bồ Tát Dược Vương như người thay mặt cho họ...)

[12] Bản Đại Chánh tạng viết là “苦於佛前 - khổ ư Phật tiền”, không có nghĩa. Tham khảo Càn Long tạng và Vĩnh Lạc Bắc tạng đều viết là “若於佛前 - nhược ư Phật tiền”. Như vậy là chữ “nhược” (若) đã bị nhầm thành chữ “khổ” (苦).

[13] Văn Cú dùng chữ “giản” (揀) nghĩa là chọn lựa để loại bỏ ra. Chữ này đã được dùng trong phần trước để nói về 5.000 người rời khỏi pháp hội trước khi Phật thuyết kinh Pháp hoa, nay cũng được dùng với những đối tượng trong đoạn kinh văn này. Tuy họ có đủ niềm tin để nghe kinh mà không hoài nghi phỉ báng, nhưng thực sự chưa phải là chúng đương cơ có thể nhận hiểu để được lợi ích hiện tiền, cho nên nói là “nêu loại ra” khỏi những người đã được thụ ký.

[14] Tám bộ chúng: chỉ chung các bộ chúng gồm chư thiên, loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già.

[15] Văn Cú dùng chữ “quái” (絓), Văn Cú Ký giải thích rằng chữ này đồng như chữ “dự” (預), nghĩa là tham dự. Chúng tôi cho rằng Văn Cú Ký đã muốn đơn giản hóa để làm cho câu văn dễ hiểu, vì chữ “quái” với nghĩa trở ngại, che chướng còn có hàm ý muốn nói những đối tượng này không thật sự là thính chúng của Pháp hoa, bởi tuy họ tham dự trong pháp hội nhưng không thể hiểu hoặc hiểu rất ít những lời Phật dạy, như kinh văn đoạn tiếp theo có nói rõ.

[16] Đoạn này nhắc lại ý nghĩa đã giảng giải ở phần trước. 5 hạng pháp sư là nói những người có thể thực hành 5 việc: thọ trì, đọc, tụng, thuyết giảng và sao chép kinh này. Trong đó thọ trì là cúng dường bằng ý nghiệp, đọc, tụng, thuyết giảng là cúng dường bằng khẩu nghiệp và sao chép kinh là cúng dường bằng thân nghiệp.

[17] Văn Cú dùng hạ chu (下周), thượng chu (上周) và trung chu (中周), tức chỉ 3 vòng thuyết pháp như trước đã nói, tức là thuyết chánh pháp cho hàng thượng căn, thuyết thí dụ cho hàng trung căn và thuyết nhân duyên cho hàng hạ căn.

[18] Kinh Kiến thật tam-muội (見實三昧經), được ghi nhận trong các bản mục lục kinh điển hiện còn, có 14 hoặc 15 quyển, do ngài Na-đề Da-xá (那連提耶舍) Hán dịch. Tuy nhiên, bản biệt hành hiện nay không còn thấy, chỉ còn tìm được nội dung tương đương của kinh này là hội thứ 16 trong kinh Đại Bảo Tích với tên là Bồ Tát kiến thật hội (菩薩見實會-第十六). Xem Đại Chánh tạng, Tập 11, kinh số 310, trang 351.

[19] Tam thập tam thiên (三十三天), cũng gọi là cõi trời Đao-lợi (忉利天). Sở dĩ có tên “tam thập tam” (33) vì cõi trời này ở 8 hướng mỗi hướng đều có 4 thành, cộng là 32 thành, cộng với một thành trung tâm, nơi cư ngụ của Thiên Đế thích, nên có tất cả là 33 thành.

[20] Văn Cú dùng tên Câu-dực (拘翼), theo Huyền ứng âm nghĩa (玄應音義) thì đây là tên khác của Thiên vương Đế thích (帝釋). Mỗi thế giới đều có một vị Đế thích, cho nên ở đây nói việc thụ ký cho “cùng một danh hiệu”.

[21] Văn Cú gọi là Diễm thiên (焰天), nói đủ là Diễm-ma thiên (焰摩天), nhưng thường gặp hơn là Dạ-ma thiên (夜摩天), phiên âm từ tên cõi trời Yāma, tức cõi trời thứ ba trong 6 cõi trời thuộc Dục giới.

[22] Dục giới có 6 tầng trời, trước đó đã lần lượt nói đến 4 tầng trời là Tứ vương thiên (四王天), Tam thập tam thiên (三十三天) tức Đao lợi thiên (忉利天), Dạ-ma thiên (夜摩天) và Đâu-suất thiên (兜率天). Hai tầng trời cao hơn được nói ở đây là Lạc biến hoá thiên (樂變化天) và Tha hoá tự tại thiên (他化自在天).

[23] Tăng nhất tập (增一集), theo Pháp hoa huyền nghĩa thích tiêm (法華玄義釋籤) thì do ngài Đạt-ma-uất-đa-la (達磨欝多羅) soạn, gồm 30 quyển, theo thể thức giống như kinh Tăng nhất A-hàm, nghĩa là gồm các số mục tăng dần từ 1 pháp cho đến 5 pháp. Về ngài Đạt-ma-uất-đa-la, sách này cũng gọi là Pháp Thượng (法尚), hiện đa số tài liệu gọi là Đạt-ma-đa-la (達磨多羅), phiên âm từ Dharmatrāta, dịch nghĩa là Pháp Cứu (法救). Ngài cũng là tác giả của Tạp A-tỳ-đàm tâm luận (雜阿毘曇心論), 11 quyển. Xem Đại Chánh tạng, Tập 33, kinh số 1717, trang 907, tờ a, dòng 9 đến dòng 14.

[24] Văn Cú dùng chữ “捨檐 - xả diêm”, ở đây là cách dùng xưa thay cho chữ “đam” (儋) hoặc chữ “đảm” (擔), có nghĩa là gánh vác, mang vác.

[25] Mãn Túc (滿宿), là vị tỳ-kheo thuộc nhóm Lục quần tỳ-kheo.

[26] Trong đoạn này, Văn Cú dùng 2 chữ “thụ” (豎) và “hoành” (橫), hiểu theo nghĩa đen là dọc và ngang, hoặc theo chiều đứng, chiều nằm. Tuy nhiên, Văn Cú dùng 2 chữ này để chỉ sự việc diễn ra theo thời gian (thụ), tức là tăng tiến dần, và trong không gian (hoành), nghĩa là tức thời diễn ra rộng khắp. Hai khái niệm này đã được dùng nhiều lần trong những phần trước của sách này.

[27] Đoạn này dẫn kinh Đại Bát Niết-bàn ở quyển 28, theo bản Hán dịch của ngài Đàm-vô-sấm. Nguyên văn kinh là: “寧當少聞多解義味, 不願多聞於義不了。” (Ninh nguyện thiểu văn đa giải nghĩa vị, bất nguyện đa văn ư nghĩa bất liễu.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, trang 534, tờ a, dòng 3 và 4.

[28] Năm hàng pháp sư, phân chia theo cách tiếp cận kinh này, bao gồm: 1. Thọ trì; 2. Tụng; 3. Đọc; 4. Giảng thuyết; 5. Sao chép.

[29] Mười loại cúng dường theo kinh văn là: 1. Cúng dường hoa; 2. Cúng dường hương thơm; 3. Chuỗi ngọc; 4. Hương bột; 5. Hương thoa; 6. Hương đốt; 7. Lọng che bằng lụa; 8. Y phục; 9. Âm nhạc; 10. Chắp tay cung kính.

[30] Văn Cú nói là “有慧無聞 - hữu tuệ vô văn”. Vô văn là chỉ người không học rộng nghe nhiều, để nói nghĩa trái lại với “đa văn” là người học rộng nghe nhiều. Cho nên “vô văn” không có nghĩa là không nghe, không học, mà chỉ có thể hiểu là ít học, không học rộng.

[31] Nguyên tác nói “福田濃瘠 - phước điền nùng tích” (ruộng phước tốt hoặc xấu), hàm ý phân biệt đối tượng của việc tạo phước. Như các kinh luận khác thường nói, cúng dường bậc tu hành đạo đức thì công đức lớn hơn cúng dường kẻ phàm phu, vì đối tượng cúng dường như vậy được xem như mảnh ruộng tốt hơn nên gieo trồng thu hoạch được nhiều hơn.

[32] Văn Cú dùng chữ “檐” (diêm) nhưng thật ra là chữ “đảm” (擔) như trong kinh văn. Đây có lẽ là cách dùng xưa kia.

[33] Văn Cú nói “超頌 - siêu tụng” (tụng vượt sang) là ý nói tụng nghĩa này trước, so với kinh văn trường hàng ở trước thì tụng nghĩa này về sau.

[34] Văn Cú nói “追頌 - truy tụng” (tụng ngược về) là ý nói trong kinh văn trường hàng nghĩa này được nói trước, nhưng kệ tụng nêu ra sau.

[35] Nguyên tác kinh văn là “作色 - tác sắc”, dịch sát nghĩa là thay đổi sắc mặt, trong ngữ cảnh này được hiểu là lộ rõ vẻ hung hăng.

[36] Kinh văn dùng chữ “未曾顯說 - vị tằng hiển thuyết”, hiểu theo nghĩa đen là chưa từng thuyết giảng công khai, không che giấu. Các bản dịch hiện có dịch là “chưa hề nói đến một cách minh bạch (HT Trí Quang)”, hoặc “chưa từng bày nói” (HT Trí Tịnh). Bản Anh dịch của H. Kern là “never divulged” (chưa bao giờ công khai). Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng hàm ý trong ngữ cảnh ở đây là chỉ thuyết giảng cho một số thính chúng chọn lọc, thích hợp, không thuyết giảng chung cho tất cả mọi người. Việc đức Phật đợi cho 5.000 người có căn cơ không thích hợp rời khỏi pháp hội rồi mới thuyết kinh này là một thí dụ minh họa cho ý nghĩa này. Ngay câu kinh trước cũng nói rằng kinh này không được “truyền trao không đúng người” (妄授與人 - vọng thụ dữ nhân). Và ý nghĩa phải chọn đúng người thích hợp mới thuyết giảng kinh này đã được nói rất rõ trong phần cuối phẩm Thí dụ.

[37] Kinh văn dùng chữ “怨嫉 - oán tật”, nghĩa là oán ghét. So sánh với bản Anh dịch ở vị trí này là “rejected” (từ chối, không chấp nhận), về mặt ý nghĩa có vẻ như hợp lý hơn. Như câu kinh trước nói kinh này “khó tin khó hiểu nhất” nên thính chúng ít người tin nhận. Trong khi đó, ý nghĩa “oán ghét” có lẽ chỉ đến hàng ngoại đạo, kẻ xấu.

[38] Tiệm giáo là các giáo pháp chỉ dạy sự tu tập từ thấp lên cao, theo tuần tự, ở đây là chỉ giáo pháp được thuyết trong các thời A-hàm, Phương đẳng… Đốn giáo là giáo pháp chỉ thẳng vào sự đốn ngộ quả Phật, như giáo pháp Hoa nghiêm…

[39] Văn Cú chỉ nói “二門 - nhị môn”, tức là chỉ ngược về “pháp” và “người” như vừa nói.

[40] Văn Cú dùng “當鋒難事 - đương phong nan sự”, Văn Cú Ký giải thích rằng: “當鋒者, 法華在前如大陣難破, 涅槃在後如餘黨不難。 - Đương phong giả, Pháp hoa tại tiền như đại trận nan phá, Niết-bàn tại hậu như dư đảng bất nan.” (“Đương phong” là muốn nói Pháp hoa được thuyết giảng trước như trận thế lớn khó phá được, Niết-bàn được thuyết giảng sau chỉ như dư đảng còn lại không khó.) Cho nên hiểu là Văn Cú muốn so sánh việc thuyết kinh Pháp hoa trước để đột phá vào sự khó tin khó hiểu của thính chúng, thì về sau việc thuyết kinh Niết-bàn trở nên dễ dàng hơn. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 34, kinh số 1719, trang 306, tờ c, dòng 3 và 4.)

[41] Văn Cú dùng “五乘 - ngũ thừa”, tức bao gồm nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa.

[42] Văn Cú dùng “四信 - tứ tín”, chỉ niềm tin vào chân như, Phật, Pháp và Tăng.

[43] Bốn thệ nguyện rộng lớn (Tứ hoằng thệ nguyện), bao gồm: 1. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ; 2. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn; 3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học; 4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

[44] Ba đức của chư Phật, tức Tam đức (三德), bao gồm Pháp thân đức, Giải thoát đức và Bát-nhã đức.

[45] Tức là tứ thánh địa (四聖地), cũng gọi là tứ động tâm, tứ thánh tích, là 4 thánh tích quan trọng trong cuộc đời đức Phật.

[46] Ở đây Văn Cú muốn so sánh với tứ thánh địa vừa nói trên để giải thích việc những nơi nào có kinh này đều nên dựng tháp thờ kính.

[47] Văn Cú trích dẫn câu này là “若出家 - nhược xuất gia…”, nhưng trong kinh văn là “多有人在家, 出家 - đa hữu nhân tại gia, xuất gia”. Chúng tôi chuyển dịch theo kinh văn.

[48] Đoạn giải thích này sử dụng các giai vị trong Thập địa bao gồm: Càn tuệ địa (乾慧地), Tánh địa (性地), Bát nhân địa (八人地), Kiến địa (見地), Bạc địa (薄地), Ly dục địa (離欲地), Dĩ biện địa (己辨地), Bích-chi Phật địa (辟支佛地), Bồ Tát địa (菩薩地) và Phật địa (佛地).

[49] Văn Cú dùng “Sinh sư”, tức chỉ ngài Trúc Đạo Sinh (竺道生), sinh vào khoảng năm 355, mất khoảng năm 434, là cao tăng uyên bác đồng thời với ngài Cưu-ma-la-thập. Ngài có dịch và giảng kinh Pháp hoa nên kiến giải của ngài được dẫn ở đây.

[50] Hai người khỏe mạnh, ở đây ví cho 2 trí Bát-nhã quyền và thật vừa nói, tức là trí tuệ chân thật và trí tuệ phương tiện quyền thừa.

[51] Ba trí tuệ, tức Tam tuệ (三慧), bao gồm văn tuệ (聞慧), tư tuệ (思慧) và tu tuệ (修慧) vừa được đề cập đến.

[52] Những chỗ nói “theo ý riêng tôi” đều là chỉ ý của Đại sư Trí Khải.

[53] Đạo Lãng (道朗), sống vào đời Đông Tấn, không rõ năm sinh năm mất, từng giúp ngài Đàm-vô-sấm phiên dịch kinh Đại Bát Niết-bàn, viết lời tựa và soạn nghĩa sớ. Về sau, người giảng kinh Niết bàn phần nhiều đều căn cứ theo bản sớ giải này. Ngoài ra, ông còn soạn bài tựa Trung luận, khảo chứng văn nghĩa luận A-tì-đàm Tì-bà-sa do ngài Phật-đà-bạt-ma dịch sang Hán văn.

[54] Hình sắc ở đây chỉ thân Phật, sắc thân là quyền, pháp thân là thật; âm thanh chỉ giáo pháp được thuyết giảng, gồm giáo pháp quyền thừa và giáo pháp chân thật rốt ráo.

[55] Văn Cú chỉ nói “十二八萬 – thập nhị bát vạn”, Văn Cú ký giải thích: “十二八萬者, 秖是十二 部八萬藏耳 – Thập nhị bát vạn giả, kỳ thị thập nhị bộ, bát vạn tạng nhĩ.” Thập nhị bộ chỉ 12 bộ kinh, tức 12 thể loại kinh điển; bát vạn tạng là cách nói tắt của “bát vạn tứ thiên tạng”. Tạng là pháp tạng, chỉ một phần giáo pháp cụ thể, cho nên hiểu đúng nghĩa là 84.000 pháp tạng. Đây cũng chỉ là cách nói mang tính biểu trưng, không phải con số chính xác.

[56] Lưu Cầu (劉虬) (437- 495), cư sĩ Phật giáo Trung quốc, tự là Linh Dự, Đức Minh, trước có làm quan, sau chú tâm nghiên cứu kinh Phật. Ông ăn chay trường, tụng kinh, lễ bái, thông suốt kinh tạng, hiểu rõ pháp Thiền, thường giảng kinh Niết-bàn, kinh Bát-nhã. Ông có chú giải kinh Pháp hoa nhưng đã bị thất lạc, chỉ còn thấy trích dẫn trong Pháp hoa văn cú, Pháp hoa huyền luận, Pháp hoa nghĩa sớ…

[57] Văn Cú nói “觀音品 - Quán Âm phẩm”, tức là chỉ đến “觀世音菩薩普門品 - Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ môn phẩm”, là phẩm thứ 25 trong kinh này.

[58] Văn Cú nói “一色一香 - nhất sắc nhất hương”, (một hình sắc, một mùi hương), hàm ý là chỉ chung hết thảy mọi hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm và ý tưởng, nghĩa là dùng “hương sắc” để chỉ chung hết thảy trần cảnh.

[59] Đoạn này nói về Tam đức của chư Phật, tức là Pháp thân đức, Giải thoát đức và Bát-nhã đức.

[60] Văn Cú nói “大慈安樂 - đại từ an lạc” là cách nói tắt với những hàm ý mặc định rằng người đọc tự hiểu. Đại từ là chỉ đại từ bi, vì ngữ cảnh này đang nói đến cả 2 phẩm đức từ và bi; kinh điển dạy “từ năng dữ lạc, bi năng bạt khổ”, lòng từ là ban vui, giúp chúng sanh được vui; lòng bi là cứu khổ, giúp chúng sanh được an ổn. Cho nên tuy chỉ nói “đại từ an lạc” mà phải hiểu là “giúp chúng sanh được an vui”.

[61] Nguyên tác kinh văn là “我於餘國 - ngã ư dư quốc”. Chữ “dư quốc” được giải thích ở nhiều phần kinh văn trước là cảnh giới không thuộc về ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới).

[62] Văn Cú dùng “總持 - tổng trì” tức là nắm giữ được đầy đủ tất cả. Chúng tôi chuyển dịch dựa theo ý kinh.

[63] Văn Cú nói “堪見佛 - kham kiến Phật” (chịu được việc thấy Phật). Đây là nói tiếp theo ý trước, khi tâm người tu tập chưa thuần thục, được thấy chư thiên sẽ sanh ra tự cao, tổn hại đến việc tu tập; nay tâm đã thuần thục thì “chịu được việc thấy Phật” có nghĩa là dù thấy Phật cũng không sanh tâm tự cao như trước. Nếu không hiểu theo sự liên kết ý nghĩa như vậy thì nói “chịu được việc thấy Phật” sẽ rất khó hiểu.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 20 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Kinh Đại Bát Niết-bàn


Gọi nắng xuân về


Báo đáp công ơn cha mẹ


Công đức phóng sinh

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.169 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...