KINH VĂN
Phẩm Giao phó về sau, thứ hai mươi hai
Giải thích tên phẩm
“Giao” nghĩa là đức Phật dặn dò giao lại; “phó” nghĩa là phó thác cho [chư Bồ Tát] phải gắng sức lưu truyền. Đây là nói từ ý chỉ của Phật mà thành tên, nên gọi là phẩm Giao phó về sau.
Giao là nói sự cung kính đón nhận [việc Phật giao cho]; phó là vui mừng nhận lãnh không cho là khó nhọc. Đây là nói từ sự cung kính vâng theo của chư Bồ Tát mà thành tên, nên gọi là phẩm Giao phó về sau.
Giao là từ kim khẩu của đức Như Lai giao lại; phó là chư Bồ Tát đem lòng son sắt gánh vác nhận lãnh. Đây là đem cả hai việc giao phó và nhận lãnh hợp lại để nói, nên gọi là phẩm Giao phó về sau.
Vì vậy nên đức Như Lai đích thân từ pháp tòa đứng dậy, đưa tay xoa đầu, đem “pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó thành tựu này, nay giao phó về sau”; đại chúng cung kính cúi đầu chắp tay, đối với lời dạy của đức Thế Tôn “cung kính vâng theo tất cả”, cho nên gọi là phẩm Giao phó về sau.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni từ pháp tòa đứng dậy, hiện sức thần thông lớn, dùng tay phải đưa ra xoa đỉnh đầu vô số Đại Bồ Tát, dạy rằng: “Ta trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó thành tựu này, nay giao phó về sau cho các ông. Các ông nên một lòng truyền rộng pháp này, khiến cho càng tăng thêm lợi ích.”
Đức Phật xoa đỉnh đầu các vị Đại Bồ Tát như vậy ba lần rồi lại dạy rằng: “Ta trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó thành tựu này, nay giao phó về sau cho các ông. Các ông nên thọ trì, tụng đọc, truyền rộng pháp này, khiến cho khắp thảy chúng sanh đều được nghe biết.”
Kinh văn phẩm này chia làm 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất nói việc giao phó chánh pháp; tổng đoạn thứ hai nói việc đại chúng đương thời đều hoan hỷ.
Tổng đoạn thứ nhất chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất nêu việc đức Như Lai giao phó chánh pháp; đoạn thứ hai nói việc chư Bồ Tát nhận lãnh sự giao phó; đoạn thứ ba là việc đã hoàn tất nên nêu ý giải tán.
Đoạn thứ nhất có 3 tiểu đoạn. Thứ nhất nêu việc giao phó; thứ hai giải thích về việc giao phó; thứ ba răn dạy về việc giao phó.
Tiểu đoạn thứ nhất, nêu việc chính thức giao phó. Đức Phật dùng một cánh tay quyền trí thiện xảo đưa ra xoa trên đỉnh đầu thật trí của tất cả các vị Bồ Tát đầy khắp cả hư không trong ba ngàn ba trăm na-do-tha cõi nước.
Đức Như Lai giao phó chánh đạo để giáo hóa chúng sanh nên gọi là cánh tay quyền trí. Các Bồ Tát tự mình thực hành để thọ nhận chánh đạo nên gọi là đỉnh đầu thật trí. Phật đưa tay xoa đầu, tức là thân giao phó; quyền trí soi thật trí, tức là ý giao phó; Phật “dạy rằng” tức là khẩu giao phó.
Kinh văn phần này có đủ ý nghĩa của bốn tất đàn. “Ta trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó thành tựu này”, tức là nói đã được thọ học từ chư Phật trước đây, “nay giao phó về sau cho các ông”, các Bồ Tát thọ nhận tức là ba đời tiếp nối. Đây là nghĩa thế giới tất đàn. “Một lòng truyền rộng pháp này” tức là vị nhân tất đàn. “Khiến cho càng tăng thêm” tức là đối trị tất đàn. “Lợi ích” tức là đệ nhất nghĩa tất đàn.
KINH VĂN
“Vì sao vậy? Vì đức Như Lai có lòng đại từ bi, không hề tham tiếc keo lận, cũng không có sự sợ sệt, thường ban cho chúng sanh trí tuệ Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự nhiên; Như Lai là vị thí chủ lớn của hết thảy chúng sanh. Các ông cũng nên học theo pháp của Như Lai, đừng sinh lòng tham tiếc keo lận.
“Trong đời tương lai, nếu có thiện nam, thiện nữ nào tin vào trí tuệ Như Lai, các ông nên vì người ấy diễn giảng kinh Pháp hoa này, khiến cho họ được nghe, vì muốn cho người ấy đạt được trí tuệ Phật. Nếu như có chúng sanh nào không tin nhận, các ông nên dùng những giáo pháp sâu xa khác của Như Lai để chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu.[1] Nếu các ông có thể làm được như vậy thì đó là đã báo đáp được ân đức của chư Phật.”
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Vì sao vậy” trở đi là giải thích về việc giao phó. “Có lòng đại từ bi” là nhà Như Lai; “không hề tham tiếc keo lận” là y Như Lai; “cũng không có sự sợ sệt” là tòa Như Lai; “trí tuệ Phật” là nhất thiết trí; “trí tuệ Như Lai” là đạo chủng trí; “trí tuệ tự nhiên” là nhất thiết chủng trí. Vào nhà Như Lai có thể ban cho chúng sanh ba loại trí tuệ, ngồi tòa Như Lai cũng vậy. “Là vị thí chủ lớn” như vậy nên không có tham tiếc keo lận, nên không có sự sợ sệt. “Các ông cũng nên học theo pháp của Như Lai”, đây là giải thích ý Phật để giao phó.
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Trong đời tương lai” trở đi là răn nhắc để giao phó. Nếu người có căn tánh sâu vững, trí tuệ nhanh nhạy thì thuyết dạy thẳng vào trí tuệ Phật. Đối với người chưa tiếp nhận được thì dùng các pháp sâu xa khác mà tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu. Trí tuệ Phật sâu xa mà không khác; [pháp của] sáu bậc phương tiện là khác mà không sâu xa; pháp tuần tự của Biệt giáo thì khác rồi đến sâu. “Các ông nên dùng những giáo pháp sâu xa khác”, là để trợ giúp làm sáng tỏ trí tuệ Phật, “đó là đã báo đáp được ân đức của chư Phật”. Đây gọi là răn nhắc để giao phó.
KINH VĂN
Bấy giờ, các vị Đại Bồ Tát nghe Phật dạy như vậy rồi, tất cả đều hết sức hoan hỷ, niềm vui lan khắp châu thân, càng thêm phần cung kính, cúi đầu chắp tay hướng về đức Phật, đồng thanh bạch rằng: “Như lời Thế Tôn đã dạy, chúng con xin cung kính vâng theo tất cả. Bạch Thế Tôn! Xin đừng lo ngại.”
Các vị Đại Bồ Tát ba lần như vậy đều đồng thanh bạch Phật: “Như lời Thế Tôn đã dạy, chúng con xin cung kính vâng theo tất cả. Bạch Thế Tôn! Xin đừng lo ngại.”
Đoạn thứ hai từ câu “Bấy giờ, các vị Đại Bồ Tát...” trở đi là nói việc các vị Bồ Tát nhận lãnh sự giao phó. “Tất cả đều hết sức hoan hỷ” là nhận lãnh bằng ý; “cúi đầu chắp tay” là nhận lãnh bằng thân; “đồng thanh bạch rằng” là nhận lãnh bằng khẩu, cũng bao hàm cả nhận lãnh bằng ý.
“Như lời Thế Tôn đã dạy” là nhận lãnh ý Phật nói “Như Lai là vị thí chủ lớn”, tức là nhà Như Lai;[2] “cung kính vâng theo tất cả” là nhận lãnh ý “không hề tham tiếc keo lận”, tức là y Như Lai; “xin đừng lo ngại” là nhận lãnh ý “không có sự sợ sệt”, tức là tòa Như Lai.
Phật đã 3 lần giao phó, các vị Bồ Tát cũng 3 lần nhận lãnh, tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn cho các vị Phật phân thân đến từ mười phương mỗi vị đều quay về cõi nước nên nói rằng: “Chư Phật mỗi vị xin tùy nơi an ổn quay về, tháp Phật Đa Bảo có thể trở lại như cũ.”
Đoạn thứ ba từ câu “Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni...” trở đi, việc đã hoàn tất nên nêu ý giải tán.
Phật Đa Bảo vì chứng minh kinh này mà đến, nay cả hai phần thuyết dạy về tích môn và bản môn đều đã xong, cho nên cung kính nêu việc quay về như cũ. Các vị phân thân Phật vì việc mở cửa tháp mà tập hợp đến, nay việc mở tháp đã xong nên khiến cho quay về. Tháp không thể mở ra lần nữa, cho nên các vị phân thân Phật đi rồi không còn hiện ra. Tháp này đến vì việc nghe pháp, cho nên tuy đóng cửa lại nhưng vẫn còn tại pháp hội.
Hỏi: Nếu tháp vì nghe pháp mà đến, lẽ ra không nên đóng cửa lại?
Đáp: Việc chứng minh phần chánh kinh đã xong cho nên đóng. Vì còn nghe tiếp phần lưu thông kinh, cho nên còn ở lại. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Khi Phật nói ra lời ấy rồi, vô số chư Phật phân thân mười phương đang ngồi trên tòa sư tử dưới cội cây báu cùng với Phật Đa Bảo và đại chúng vô số a-tăng-kỳ Bồ Tát như Bồ Tát Thượng Hạnh…[3] bốn chúng và các vị Thanh văn như Xá-lợi-phất, cùng hết thảy chư thiên, loài người, a-tu-la… được nghe Phật thuyết dạy đều hết sức vui mừng.
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Khi Phật nói ra lời ấy rồi” trở đi, nói việc đại chúng hoan hỷ. Chư Phật vì sự giáo hóa chúng sanh đã hoàn tất nên hoan hỷ. Các vị Bồ Tát vì sự tự thực hành đạt được chánh pháp nên hoan hỷ.
Lại nữa, người nói pháp thanh tịnh nên hoan hỷ, đó chính là đức Phật; nghe pháp thanh tịnh nên hoan hỷ, chính là kinh Diệu pháp Liên hoa này; nghe pháp có sự chứng đắc nên hoan hỷ, chính là chúng sanh trong hiện tại và đời tương lai được lợi ích. Cả ba việc đều trọn đủ nên hết sức hoan hỷ. Đại lược là như thế.
_______________________
CHÚ THÍCH
[1] Nguyên tác kinh văn dùng “thị giáo lợi hỷ”, tức là 4 giai đoạn giáo hóa như đã giải thích ở trước.
[2] Phần trước Văn Cú giải thích “’Có lòng đại từ bi’ là nhà Như Lai”, chỗ này đổi ý “đại từ bi” thành “đại thí chủ”.
[3] Có bản dịch trước đây hiểu lầm hai chữ “thượng hạnh” để chỉ phẩm hạnh của các vị Bồ Tát nên dịch là “vô số đại chúng Bồ-tát, bậc thượng hạnh thảy”. Tuy nhiên, đây là danh xưng của Bồ Tát Thượng Hạnh, vị đứng đầu trong số các Bồ Tát từ lòng đất vọt lên trước đó.
Bàn tay của Mẹ, bài học của con (sưu tầm)
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. 

Trang chủ









