KINH VĂN
Phẩm Đà-la-ni, thứ hai mươi sáu
Giải thích tên phẩm
[Đà-la-ni,] Hán dịch là “tổng trì”. Tổng trì [nghĩa là gồm giữ,] tức là giữ cho việc xấu ác không khởi sinh, việc hiền thiện không mất đi. Đây là nghĩa thế giới tất đàn.[1] Lại cũng dịch là “năng già năng trì”, nghĩa là có thể nắm giữ điều thiện, có thể ngăn chặn điều ác. [Nắm giữ điều thiện nên] đây là nghĩa vị nhân tất đàn; [ngăn chặn điều ác nên] đây là nghĩa đối trị tất đàn. [Đà-la-ni] này cũng có thể ngăn chặn điều ác là [rơi vào nhị] biên, có thể nắm giữ điều thiện là [giữ theo] trung [đạo]. Đây là đệ nhất nghĩa tất đàn.
Kinh điển nói về [công năng] khai mở hoặc ngăn chặn [của đà-la-ni] không giống nhau. Hoặc nói [đà-la-ni] chuyên dùng để trị bệnh, như [kinh nói về] cư sĩ Na-đạt; hoặc chuyên dùng để hộ pháp, như kinh văn trong phẩm này; hoặc chuyên dùng để dứt trừ tội lỗi, như trong các kinh Phương đẳng; hoặc dùng chung để trị bệnh, dứt tội, hộ trì kinh điển, như kinh Thỉnh Quán Âm; hoặc nếu là đại minh chú, vô thượng minh chú, vô đẳng đẳng minh chú thì không thuộc về để trị bệnh, diệt tội hay hộ trì kinh điển.[2]
Nếu hiểu theo nghĩa chung thì nên bao gồm tất cả các công năng trên, nếu xét theo nghĩa riêng thì nhất thiết phải y theo ý nghĩa của mỗi kinh, không được trái với lời dạy trong kinh ấy. Đại lược là như vậy.
Hoặc có những bậc thầy giải thích rằng, [đà-la-ni hay] thần chú là danh hiệu của các vị vua quỷ thần. Xưng danh hiệu vua thì các thuộc hạ đều tôn kính chủ nhân nên không dám làm điều sai trái, do vậy có thể hàng phục hết thảy các loài quỷ mị. Đây là nghĩa thế giới tất đàn.
Hoặc có người giải thích rằng, thần chú như mật hiệu trong quân đội, khi kẻ hỏi người đáp tương hợp [đúng quy định] thì không bị tra xét. Nếu không tương hợp liền bị bắt lại trị tội. [Như trong kinh này nói] kẻ nào không thuận theo thần chú thì đầu vỡ làm bảy mảnh; nếu thuận theo thần chú thì không có lỗi lầm. Đây là nghĩa vị nhân tất đàn.[3]
Hoặc có người giải thích rằng, thần chú là âm thầm lặng lẽ dứt trừ việc xấu ác, khiến cho điều ác tự ngưng dứt. Ví như có người hèn kém từ nước này trốn sang nước khác, dối trá xưng là vương tử, được vua nước ấy gả công chúa cho. Người này tính nết khó khăn, nhiều sân hận. Có một người sáng suốt khôn ngoan đến từ nước cũ của người ấy, công chúa tìm gặp hỏi chuyện. Người khôn ngoan ấy bảo công chúa, khi phò mã nổi giận thì nên đọc bài kệ này:
Cô độc sang nước khác,
Dối gạt hết mọi người,
Thường ăn uống thô tháo,
Sao nhọc sức sân hận?
Khi [công chúa] đọc bài kệ này thì người chồng không giận dữ nữa, từ đó về sau cũng không còn sân hận. Công chúa và hết thảy mọi người chỉ nghe kệ như vậy nhưng không ai hiểu được ý nghĩa. Thần chú cũng giống như vậy, âm thầm lặng lẽ ngăn chặn điều xấu ác, người khác không biết được. Đây là nghĩa đối trị tất đàn.
Hoặc có người giải thích rằng, thần chú là mật ngữ của chư Phật, như đức vua bảo mang “tiên-đà-bà” đến, hết thảy các quan không ai hiểu ý, chỉ duy nhất vị quan có trí tuệ mới hiểu được.[4] Thần chú cũng giống như vậy, chỉ là một pháp nhưng có đủ các năng lực, [giúp cho] bệnh được khỏi, tội lỗi tiêu trừ, điều thiện sinh khởi, đạo lý được tương hợp. Đây là đệ nhất nghĩa tất đàn.
Vì những nghĩa trên nên giữ nguyên [Phạn] âm [là đà-la-ni]. Người dịch không chuyển dịch [sang Hán ngữ] là do ý này.
Hoằng truyền kinh điển trong đời xấu ác thường gặp nhiều khó khăn quấy nhiễu, nên dùng thần chú để hộ trì [người hoằng pháp,] khiến cho đạo pháp được lưu truyền thông suốt.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo trần vai bên phải, chắp tay hướng về đức Phật thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh Pháp hoa, tụng đọc thông suốt hoặc sao chép quyển kinh, thì được bao nhiêu phước đức?”
Đức Phật bảo Bồ Tát Dược Vương: “Nếu có thiện nam, thiện nữ cúng dường chư Phật nhiều như số cát của tám trăm muôn ức na-do-tha sông Hằng, ý ông nghĩ sao, người ấy được phước đức nhiều chăng?”
Bồ Tát Dược Vương thưa: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều.”
Phật dạy: “Nếu thiện nam, thiện nữ nào có thể thọ trì, thậm chí chỉ một bài kệ bốn câu trong kinh này, tụng đọc, giải nghĩa, y theo đó tu hành thì công đức cũng rất nhiều như thế.”[5]
Kinh văn phẩm này có 4 tổng đoạn. Thứ nhất là [Bồ Tát Dược Vương] thưa hỏi về công đức người thọ trì kinh [Pháp hoa] này; thứ hai là [đức Phật] đáp rằng công đức ấy rất nhiều; thứ ba là thưa thỉnh xin được dùng thần chú để giúp đỡ bảo vệ [người thọ trì kinh]; thứ tư là nêu việc nghe phẩm kinh này được lợi ích.
Tổng đoạn thứ nhất thưa hỏi, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Tổng đoạn thứ hai [đức Phật] giải đáp, có sự suy lường so sánh, [Phật] hỏi lại có nhiều không, đáp rằng “rất nhiều”. Từ chỗ suy lường nói ra công đức, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Khi ấy, Bồ Tát Dược Vương bạch Phật: “Thế Tôn! Nay con sẽ nói cho người thuyết pháp một câu thần chú dùng để giữ gìn bảo vệ.” Nói rồi liền đọc thần chú:
“An nhĩ, mạn nhĩ, ma nễ, ma ma nễ, chỉ lệ, già lê đệ, xa mế, xa lý đa vĩ, chiên đế, mục đế, mục đa lý, ta lý, a vĩ ta lý, tang lý, ta lý, xoa dệ, a xoa duệ, a kỳ nị, chiên đế, xa lý, đà la ni, a lô già bà ta bá giá tỳ xoa nị, nễ tỳ thế, a tiện đa la nễ lý thế, a đản đa ba lệ thâu địa, âu cứu lệ, mâu cứu lệ, a la lệ, ba la lệ, thủ ca sai, a tam ma tam lý, Phật đà tỳ kiết lợi dật đế, đạt ma ba lợi sai đế, tăng già niết cù sa nễ, bà xá bà xá thâu địa, mạn đa la, mạn đa la xoa dạ đa, bưu lâu đa, bưu lâu đa kiêu xá lược, ác xoa la, ác xoa dã đa dã, a bà lô, a ma nhã na đa dạ.”
“Bạch Thế Tôn! Thần chú đà-la-ni[6] này do chư Phật nhiều như số cát của sáu mươi hai ức sông Hằng nói ra. Nếu ai xâm phạm, hủy báng vị pháp sư trì kinh Pháp hoa này tức là đã xâm phạm, hủy báng chư Phật.”
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni khen ngợi Bồ Tát Dược Vương: “Lành thay, lành thay, Dược Vương! Ông vì thương xót ủng hộ vị pháp sư trì kinh Pháp hoa mà nói ra thần chú đà-la-ni này, có rất nhiều lợi ích cho chúng sanh.”
Tổng đoạn thứ ba thưa thỉnh xin nói ra thần chú có năm lượt. Thứ nhất là Bồ Tát Dược Vương; thứ hai là Bồ Tát Dõng Thí; thứ ba là [thiên vương] Tỳ-sa-môn; thứ tư là [thiên vương] Trì Quốc; thứ năm là mười nữ [la-sát].
Đoạn thứ nhất [nêu việc] Bồ Tát Dược Vương lại chia ra 4 tiểu đoạn. Thứ nhất là thưa thỉnh [xin nói]; thứ hai là nói ra [thần chú]; thứ ba là xưng tán ngợi khen; thứ tư là [đức Phật ngợi khen và] ấn chứng.
KINH VĂN
Khi ấy, Bồ Tát Dũng Thí thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Con cũng vì ủng hộ người thọ trì kinh Pháp hoa, xin nói ra thần chú đà-la-ni. Nếu vị pháp sư kia có được thần chú đà-la-ni này thì cho dù các dạ-xoa,[7] la-sát,[8] phú-đan-na,[9] cát-già,[10] cưu-bàn-trà, ngạ quỷ…[11] rình rập tìm chỗ sơ hở [để hãm hại] cũng không được dễ dàng.” Nói rồi liền ở trước Phật đọc thần chú rằng:
“Toa lệ, ma ha toa lệ, úc chỉ, mục chỉ, a lệ, a la bà đệ, niết lệ đệ, niết lệ đa bà đệ, y trí ni, vi trí ni, chỉ trí ni, niết lệ trì ni, niết lê trì bà để.”
“Bạch Thế Tôn! Thần chú đà-la-ni này do chư Phật nhiều như cát sông Hằng nói ra, lại cũng đều tùy hỷ; nếu xâm phạm, hủy báng vị pháp sư trì kinh Pháp hoa này tức là đã xâm phạm, hủy báng chư Phật.”
Khi ấy, vị thiên vương hộ thế Tỳ-sa-môn[12] thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Con cũng thương xót chúng sanh, ủng hộ vị pháp sư trì kinh Pháp hoa, xin đọc thần chú đà-la-ni.” Liền đọc thần chú rằng:
“A lê, na lê, nâu na lê, a na lô, na lý, câu na lý.”
“Bạch Thế Tôn! Tuy đã dùng thần chú này để ủng hộ vị pháp sư trì kinh Pháp hoa, con cũng tự mình sẽ ủng hộ vị ấy, khiến cho trong phạm vi một trăm do-tuần không xảy ra những điều suy kém hoạn nạn.”
Khi ấy, Thiên vương Trì quốc[13] ở giữa pháp hội, cùng với ngàn muôn ức na-do-tha chúng càn-thát-bà cung kính vây quanh, đều đến trước chỗ Phật chắp tay thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Con cũng có thần chú đà-la-ni để ủng hộ người thọ trì kinh Pháp hoa.” Liền đọc thần chú rằng:
“A già nễ, già nễ, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đặng kỳ, thường cầu lợi, phù lâu sa ni, át để.”
“Bạch Thế Tôn! Thần chú đà-la-ni này do bốn mươi hai ức đức Phật nói ra, nếu ai xâm phạm, hủy báng pháp sư trì kinh Pháp hoa, tức là đã xâm phạm, hủy báng chư Phật.”
Ba đoạn tiếp theo cũng phân chia theo cách giống như vậy, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Khi ấy có các nữ la-sát, thứ nhất tên Lam-bà, thứ hai tên Tỳ-lam-bà, thứ ba tên Khúc xỉ, thứ tư tên Hoa xỉ, thứ năm tên Hắc xỉ, thứ sáu tên Đa phát, thứ bảy tên Vô yếm túc, thứ tám tên Trì anh lạc, thứ chín tên Cao đế, thứ mười tên Đoạt nhất thiết chúng sanh tinh khí. Mười nữ la-sát này với quỷ Tử mẫu cùng các con và quyến thuộc cùng nhau đến chỗ Phật, đồng thanh bạch Phật: “Thế Tôn! Chúng con cũng muốn ủng hộ người thọ trì, tụng đọc kinh Pháp hoa, giúp họ dứt trừ những điều suy kém hoạn nạn, nếu có kẻ rình rập tìm chỗ kém cỏi của vị pháp sư ấy thì khiến cho không được dễ dàng.” Liền ở trước Phật nói thần chú rằng:
“Y đề lý, y đề dân, y đề lý, a đề lý, y đề lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, lâu ê, lâu ê, lâu ê, lâu ê, đa ê, đa ê, đa ê, đâu ê, nâu ê.”
“Bạch Thế Tôn! Chúng con thà để cho kẻ khác trèo lên đầu mình, quyết không để cho làm hại pháp sư, cho dù đó là dạ-xoa, la-sát, ngạ quỷ, phú-đan-na, cát-già, tỳ-đà-la, kiền-đà, ô-ma-lặc-già, a-bạt-ma-la, dạ-xoa cát-già, nhân cát-già; hoặc [loài quỷ] gây bệnh nóng một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày, hoặc gây bệnh nóng thường xuyên; hoặc trong giấc mộng nhìn thấy những hình dạng nam, nữ, đồng nam, đồng nữ,[14] cũng không để cho làm hại.”
Các nữ la-sát liền ở trước Phật đọc kệ rằng:
“Trái nghịch thần chú này,
Nhiễu loạn người thuyết pháp:
Đầu vỡ thành bảy phần,
Như chồi cây a-lê.[15]
Như tội giết cha, mẹ,
Lại như tội ép dầu,[16]
Tội cân lường gian dối,
Tội Điều-đạt phá tăng.
Xúc phạm đến pháp sư,
Chịu tội giống như vậy.”[17]
Các nữ la-sát nói kệ rồi liền thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ tự thân mình ủng hộ người thọ trì, tụng đọc, tu hành theo kinh này, khiến cho được an ổn, lìa xa những sự suy kém, hoạn nạn, tiêu trừ các loại thuốc độc.”
Đức Phật bảo các nữ la-sát: “Lành thay, lành thay! Các cô chỉ thường ủng hộ người thọ trì tên kinh Pháp hoa cũng đã được phước đức không thể suy lường, huống chi là ủng hộ người thực hiện đầy đủ việc thọ trì, cúng dường quyển kinh với hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương thoa, hương đốt, phướn lọng, kỹ nhạc; thắp đủ các loại đèn như đèn bơ, đèn dầu, đèn dầu thơm, các loại đèn dầu hương hoa như hoa tô-ma-na, hoa chiêm-bặc, hoa bà-sư-ca, hoa ưu-bát-la… trăm ngàn cách cúng dường khác nhau như thế.
“Này Cao-đế! Cô và quyến thuộc nên ủng hộ vị pháp sư như vậy.”
Khi Phật thuyết phẩm Đà-la-ni này, có sáu mươi tám ngàn người đạt được pháp nhẫn vô sinh.
Đoạn thứ năm nói về mười nữ la-sát lại có 5 tiểu đoạn. Thứ nhất là kể tên; thứ hai là thưa thỉnh xin nói [ra thần chú]; thứ ba là xưng tán ngợi khen; thứ tư là lập thệ nguyện; thứ năm là [đức Phật] ấn chứng.
Dạ-xoa, Hán dịch là quỷ tiệp tật (nhanh lẹ); la-sát, Hán dịch là quỷ thực nhân (ăn thịt người). Hai bộ quỷ này thuộc sự thống lãnh của [thiên vương Tỳ-sa-môn] ở phương bắc.
Phú-đơn-na là loài quỷ gây bệnh nóng.
Cát-già là quỷ khởi thi,[18] ở trong loài người hoặc dạ-xoa đều có loại quỷ này.
Tỳ-đà-la là quỷ màu đỏ, kiền-đà-la[19] là quỷ màu vàng, ô-ma-lặc[20] là quỷ màu đen; a-bạt-ma-la là quỷ màu xanh. Cành cây ha-lê rơi xuống đất thì tự nhiên vỡ thành 7 mảnh.[21] Giết cha, giết mẹ, phá [hòa hợp] tăng là ba tội nghịch. Dầu mè ở Ấn Độ[22] được làm bằng cách giã nát hạt mè [rồi ủ lại] cho sinh ra các loài trùng nhỏ rồi mới ép tất cả [để lấy dầu]. Theo lệ làm như vậy thì được nhiều dầu và dầu béo hơn, thật là vô cùng tội lỗi. Về cân lường, bán ra thì cân non, mua vào thì cân già, đó là lừa dối [cũng đồng như] tội trộm cắp. Gần đây có người dùng đấu nhỏ đong lường bán ra, dùng đấu lớn đong lường mua vào, bị sét đánh chết mà trên lưng hiện ra dòng chữ răn đe. Tội ấy thật cũng không nhẹ.[23]
________________________________
CHÚ THÍCH
[1] Trong đoạn này Văn Cú dùng những chữ “kỳ nhất” (其一) cho đến “kỳ tứ” (其四). Văn Cú ký giải thích rằng đó là chỉ đến Tứ tất đàn. Phần nói “kỳ nhất” đề cập đến thiện và ác khác nhau, tức là nghĩa thế giới tất đàn.
[2] Ở đây hàm ý hướng đến giải thoát, chứng ngộ, chẳng hạn như đại minh chú trong Bát-nhã tâm kinh, không được thuyết dạy nhằm các mục đích trị bệnh, diệt tội…
[3] Đoạn này Văn Cú ký giải thích rằng, tuy có nói trị tội nhưng ý nghĩa thực sự là do cảm ứng tương ưng làm phát sinh điều thiện, nên thuộc về vị nhân tất đàn.
[4] Ví dụ này trích từ kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 9: “Thiện nam tử! Lời sâu kín của Như Lai rất sâu xa, khó hiểu. Ví như vị đại vương bảo quần thần: ‘Đem tiên-đà-bà đến đây.’ Chỉ một tiếng tiên-đà-bà mà có bốn nghĩa: một là muối, hai là cái bát, ba là nước, bốn là ngựa. Bốn món ấy đều gọi cùng một tên. Vị quan có trí tuệ khéo hiểu được tiếng ấy. Như khi vua tắm rửa, gọi tiên-đà-bà thì dâng nước. Như khi vua dùng cơm, gọi tiên-đà-bà thì dâng muối. Khi vua ăn xong muốn uống nước, gọi tiên-đà-bà thì dâng bát. Khi vua muốn dạo chơi, gọi tiên-đà-bà thì dâng ngựa. Như vậy, vị quan có trí tuệ khéo hiểu được bốn cách nói sâu kín của đại vương.” (ĐCT, T12, 374, tr.421a, d.29 – tr.421b, d.7 – Bản Việt dịch của Nguyễn Minh Tiến, NXB Liên Phật Hội, 2020)
[5] Theo nguyên tác Hán văn, ở đây đức Phật chỉ lặp lại “功德甚多 - công đức thậm đa” (công đức rất nhiều), nghĩa là cũng bằng như người cúng dường chư Phật. Đoạn tương đương trong kinh Chánh Pháp hoa nói là công đức của người thọ trì kinh nhiều hơn công đức của người cúng dường chư Phật: “勝於供養若干江沙諸佛世尊 - thắng ư cúng dường nhược can giang sa chư Phật Thế Tôn” (…hơn cả việc cúng dường chư Phật Thế Tôn nhiều như số cát của bao nhiêu là con sông). (ĐCT, T9, 263, tr.130a, d.8-9) và đức Phật giải thích: “法之供養,最為第一。- Pháp chi cúng dường, tối vi đệ nhất.” (Cúng dường pháp là hơn hết.) (ĐCT, T9, 263, tr.130a, d.9-10) Bản Anh ngữ dịch từ Phạn ngữ của H. Kern cũng nói là nhiều hơn: “… on that account produce far more pious merit.” (… trường hợp đó tạo ra công đức rất nhiều hơn.)
[6] Nguyên tác là “陀羅尼神咒 - đà-la-ni thần chú”, là cách dùng lặp nghĩa thường gặp. Riêng chữ đà-la-ni (H. 陀羅尼, S. dhāraṇī) cũng thường được hiểu như thần chú, chân ngôn và được dịch sang Hán ngữ là “tổng trì” (總持), chỉ khả năng tóm thâu, nắm giữ. Do vậy, riêng trong phẩm kinh này, cách dùng những chữ “chú”, “thần chú” hay “đà-la-ni” đều giống nhau, không khác biệt.
[7] Dạ-xoa (H. 夜叉, S. yakṣa), cũng phiên âm là dược-xoa, duyệt-xoa, dã-xoa, tên một loài quỷ, Hán dịch là quỷ khinh tiệp, có tốc độ di chuyển rất nhanh lẹ. Loài quỷ này được kể vào trong 8 bộ chúng.
[8] La-sát (H. 羅刹, S. rākṣasa), tên một loài quỷ, nữ la-sát gọi là la-xoa-tư (H. 羅叉私, S. rākṣasī), Hán dịch là quỷ tốc tật (rất nhanh) hoặc quỷ khả úy (đáng sợ). Loài quỷ này có thần thông, có thể bay đi trên không trung.
[9] Phú-đan-na (H. 富單那, S. pūtana): tên một loài quỷ, dịch nghĩa có nhiều tên như xú quỷ, xú ngạ quỷ, nhiệt bệnh quỷ, tai quái quỷ… là quyến thuộc của Trì quốc thiên, gìn giữ phương đông cõi Diêm-phù-đề.
[10] Cát-già (H. 吉遮, S. kṛtya), cũng phiên âm là cát-giá (吉蔗), cát-lật-giá (吉栗蔗), ngật-lật-trước (訖栗著), tên một loài quỷ, cũng gọi là quỷ khởi thi.
[11] Ngạ quỷ (H. 餓鬼, S. preta), tên phiên âm là bệ-lệ-đa (薜荔多), tức là loài quỷ đói, do nghiệp ác đã tạo nên phải thường xuyên chịu đói khát.
[12] Tỳ-sa-môn (H. 毘沙門, S. Vaiśravaṇa), Hán dịch là Đa văn thiên (多聞天) một trong 4 vị thiên vương thủ hộ thế giới Ta-bà, nên gọi là thiên vương hộ thế. Vị thiên vương này trụ ở phía bắc núi Tu-di, thủ hộ phương bắc cõi Diêm-phù-đề.
[13] Thiên vương Trì quốc (H. S. Dhṛta-rāṣṭra), một trong 4 vị thiên vương hộ thế, trụ ở lưng chừng núi Tu-di về phía đông, thủ hộ phương đông cõi Diêm-phù-đề.
[14] Nguyên tác đoạn này là “若男形, 若女形, 若童男形, 若童女形, 乃至夢中亦復莫惱 - nhược nam hình, nhược nữ hình, nhược đồng nam hình, nhược đồng nữ hình, nãi chí mộng trung diệc phục mạc não”. Bản Anh dịch của H. Kern diễn đạt ý này rõ ràng hơn: “Even if in his dreams he has visions of women, men, boys or girls, it shall be impossible that they hurt him.” (Ngay cả như trong giấc mộng pháp sư nhìn thấy hình ảnh đàn bà, đàn ông, trẻ trai, trẻ gái, thì những điều đó cũng không thể nào gây hại cho pháp sư.)
[15] Cây a-lê (H. 阿梨樹, S. lodh), tức là cây symplocos racemosa. Nguyên tác Hán văn là “如阿梨樹枝 - như a-lê thụ chi”. Bản Anh dịch của H. Kern dịch là “a sprout of symplocos racemosa” (chồi cây symplocos racemosa). Chồi non của loại cây này mọc chỉa lên, tỏa ra nhiều hướng, rất giống với hình ảnh vật gì bị vỡ ra thành nhiều phần.
[16] Nguyên tác dùng “壓油 - áp du”, nói đủ là áp du luân tội (壓油輪罪), nghĩa là tội của người làm nghề dùng bánh xe ép dầu.
[17] Đoạn kệ này so sánh việc phạm tội nhiễu hại người trì kinh Pháp hoa cũng giống như các tội kể trên, đều phải chịu quả báo nặng nề.
[18] Quỷ khởi thi: loài quỷ có năng lực do tụng chú, có thể sai khiến xác chết đứng dậy đi giết người khác.
[19] Kinh văn gọi là quỷ kiền-đà. Văn Cú có chua thêm 2 chữ “vị tường” (未詳) nghĩa là chưa rõ, hẳn muốn nói chưa biết rõ về loài quỷ này.
[20] Kinh văn gọi là quỷ ô-ma-lặc-già. Văn Cú cũng chú là chưa rõ về loài quỷ này.
[21] Giải thích này của Văn Cú có vẻ khiên cưỡng, kinh văn không nói việc “rơi xuống đất”. Theo bản Anh ngữ dịch từ Phạn ngữ của H. Kern thì cũng chỉ mô tả là “như chồi cây a-lê”, không có “rơi xuống đất”. Chồi cây a-lê (symplocos racemosa) khi mọc ra thì tự nhiên có hình dạng giống như vật bị chẻ ra làm 7 mảnh. Có thể đây là lý do kinh văn dùng làm ví dụ.
[22] Văn Cú dùng “ngoại quốc” (nước ngoài) để chỉ ở Ấn Độ.
[23] Văn Cú bỏ sót không nhắc đến phần thứ tư là nêu việc nghe phẩm kinh này được lợi ích, có lẽ vì đơn giản dễ hiểu, như các phần trước thường nói “như văn”, nghĩa là y theo kinh văn hiểu được.
17. Giải thích phẩm Phân biệt công đức
Bàn tay của Mẹ, bài học của con (sưu tầm)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)

Trang chủ









